So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel

Nghiên cứu này được thực hiện để tìm ra phác đồ điều trị hiệu quả giun đầu gai Pallisentis ký sinh trong ruột cá

rô đồng (Anabas testudineus). Cá bệnh được lấy ngẫu nhiên từ một ao nuôi đang bị bệnh, kiểm tra dấu hiệu lâm

sàng và tổn thương của ruột cá, tính tỷ lệ và cường độ nhiễm, xác định hình dạng và kích thước giun. Thí nghiệm

điều trị với các phác đồ sử dụng levamisole và praziquantel với liều lần lượt là 10 mg/kg cá và 25 mg/kg cá, cho ăn 3

ngày liên tục, kết hợp với việc điều trị viêm và xuất huyết đường tiêu hóa bằng kháng sinh florphenicol với liều 15

mg/kg cá trong 5 ngày. Kết quả kiểm tra cho thấy cá rô đồng nhiễm giun đầu gai với tỷ lệ cao (100%), cường độ

nhiễm giun trung bình 45 giun/cá, ruột cá xuất huyết nghiêm trọng, một số thủng ruột. Cá bệnh được điều trị

levamisole kết hợp florphenicol cho hiệu quả điều trị cao và triệt để nhất, 100% cá được điều trị không còn giun ký

sinh, ruột phục hồi và cá trở lại bình thường sau điều trị.

Từ khóa: Cá rô đồng, giun đầu gai, điều trị, levamisole, praziquantel.

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 1

Trang 1

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 2

Trang 2

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 3

Trang 3

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 4

Trang 4

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 5

Trang 5

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 6

Trang 6

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 9480
Bạn đang xem tài liệu "So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel

So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai pallisentis spp. trên cá rô đồng (anabas testudineus) bằng levamisole và praziquantel
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 894-900 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 894-900 
www.vnua.edu.vn 
894 
SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH GIUN ĐẦU GAI Pallisentis spp. 
TRÊN CÁ RÔ ĐỒNG (Anabas testudineus) BẰNG LEVAMISOLE VÀ PRAZIQUANTEL 
Trương Đình Hoài1*, Đoàn Văn Vững1,2, Nguyễn Thị Hương Giang3, Kim Văn Vạn1 
1Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 
2Công ty VMC Việt Nam 
 3Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 
Tác giả liên hệ: tdhoai@vnua.edu.vn 
Ngày nhận bài: 18.11.2020 Ngày chấp nhận đăng: 11.03.2021 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này được thực hiện để tìm ra phác đồ điều trị hiệu quả giun đầu gai Pallisentis ký sinh trong ruột cá 
rô đồng (Anabas testudineus). Cá bệnh được lấy ngẫu nhiên từ một ao nuôi đang bị bệnh, kiểm tra dấu hiệu lâm 
sàng và tổn thương của ruột cá, tính tỷ lệ và cường độ nhiễm, xác định hình dạng và kích thước giun. Thí nghiệm 
điều trị với các phác đồ sử dụng levamisole và praziquantel với liều lần lượt là 10 mg/kg cá và 25 mg/kg cá, cho ăn 3 
ngày liên tục, kết hợp với việc điều trị viêm và xuất huyết đường tiêu hóa bằng kháng sinh florphenicol với liều 15 
mg/kg cá trong 5 ngày. Kết quả kiểm tra cho thấy cá rô đồng nhiễm giun đầu gai với tỷ lệ cao (100%), cường độ 
nhiễm giun trung bình 45 giun/cá, ruột cá xuất huyết nghiêm trọng, một số thủng ruột. Cá bệnh được điều trị 
levamisole kết hợp florphenicol cho hiệu quả điều trị cao và triệt để nhất, 100% cá được điều trị không còn giun ký 
sinh, ruột phục hồi và cá trở lại bình thường sau điều trị. 
Từ khóa: Cá rô đồng, giun đầu gai, điều trị, levamisole, praziquantel. 
Comparative Efficacy of Levamisole and Praziquantel Against Climbing Perch 
Anabas testudineus Intestinal Nematodes Pallisentis spp. 
ABSTRACT 
This study was conducted to obtain an effective treatment regimen for intestinal nematodes Pallisentis of 
climbing perch (Anabas testudineus). Infected fish were randomly taken from an infected pond, examined for clinical 
signs and lesions of the fish intestine, calculated the prevalence and intensity of infection, and determined worm 
shape and size. Experimental treatments were levamisole 10mg/kg fish and praziquantel 25 mg/kg fish for 3 
consecutive days, combined with anti-inflammatory and hemorrhagic treatment by florphenicol 15 mg/kg fish for five 
consecutive days. The results showed that fish were infected with pallisentis spp. at a high rate (100%), the average 
intensity of infection was 45 worms/fish, served hemorrhage of the intestines, intestinal perforation. Infected fish 
treated with levamisole combined with florphenicol resulted in the highest and most radical treatment effects, 100% of 
worms were killed, intestinal recovery and fish return to normal after five days of treatment. 
Keywords: Climbing perch, Pallisentis, treatment, levamisole, praziquantel. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Giun đầu gai giống Pallisentis là nội ký 
sinh trùng thường gặp ở nhiều loài cá nuôi, 
chúng thường ký sinh trong ruột và dạ dày của 
cá, gây tổn thương thành dạ dày và ruột, lấy 
dinh dưỡng và có thể gây ra rối loạn tiêu hóa 
ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá và mở đường 
cho vi sinh vật xâm nhập gây bệnh cho cá (Hà 
Ký & Bùi Quang Tề, 2007; Từ Thanh Dung & 
cs., 2008). Tuy vậy, các loài cá được báo cáo 
nhiễm giun đầu gai cho đến nay chủ yếu là các 
đối tượng cá nuôi tại Đồng bằng sông Cửu long 
bao gồm cá lóc (Channa striata) (Nguyễn Thị 
Thu Hằng & Đặng Thị Hoàng Oanh, 2015), cá 
tra (Từ Thanh Dung & cs., 2008), các loài cá rô 
đồng, cá lóc, cá Trèn bầu, cá Bống dừa, cá Leo 
(Nguyễn Văn Hà, 2015). 
Trương Đình Hoài, Đoàn Văn Vững, Nguyễn Thị Hương Giang, Kim Văn Vạn
895 
Cá rô đồng (Anabas testudineus) sống ở môi 
trường nước ngọt và nước lợ. Chúng có thịt béo, 
thơm, dai, ngon nên người tiêu dùng lựa chọn 
làm thực phẩm. Mặt khác, cá rô là loài động vật 
ăn tạp, chúng có thể ăn cả các loài động vật 
thân mềm, cá con và thực vật, kể cả cỏ. Cá sống 
được các loại hình thủy vực khác nhau như ao, 
ruộng, bè, đặc biệt là vùng đất nhiễm phèn nhẹ, 
lại ít xảy ra dịch bệnh (Trần Minh Phú & cs., 
2006). Những đặc điểm thuận lợi này, kết hợp 
với giá trị thương phẩm cao, mang lại giá trị 
kinh tế cho người nuôi nên các mô hình phát 
triển nhiều và những năm gần đây đang phát 
triển mạnh ở nhiều tỉnh phía Bắc. Tuy vậy, 
trong một vài năm trở lại đây, cá rô đồng nhiều 
nơi xuất hiện hiện tượng chết rải rác, chậm lớn 
do giun sán nội ký sinh, đặc biệt là giun đầu gai. 
Đây là loại nội ký sinh trong ruột của động vật 
có xương sống, giun trưởng thành đẻ trứng, 
trứng theo phân của ký chủ sau cùng ra ngoài 
môi trường, các ký chủ trung gian như nhuyễn 
thể, giáp xác, côn trùng ăn trứng, trứng nở 
thành ấu trùng, tạo kén trong cơ thể ký chủ 
trung gian, ký chủ cuối cùng ăn ký chủ trung 
gian và ấu trùng chui ra khỏi kén, bám vào 
thành ruột và phát triển thành giun trưởng 
thành và gây hại cho ký chủ cuối cùng (Bùi 
Quang Tề, 2006). 
Ch ... ng tôi kết hợp bổ sung kháng sinh 
florphenicol liều 15 mg/kg cá cho các lô điều trị 
trong vòng 5 ngày. 
Cá thí nghiệm được cho ăn thức ăn trộn 
thuốc 2 lần/ngày bằng thức ăn công nghiệp có 
hàm lượng protein là 30% mã số KB84, lượng 
thức ăn cho ăn bằng 3% khối lượng cơ thể cá ở 
các bể trong suốt quá trình điều trị. Các bể ương 
được cung cấp oxy qua hệ thống sục khí 24/24. 
Tình trạng cá ở các lô thí nghiệm như tỷ lệ sống, 
các biểu hiện về dấu hiệu lâm sàng được theo 
dõi và ghi chép. Trong quá trình điều trị, các 
yếu tố môi trường nước trong các bể thí nghiệm 
như nhiệt độ, pH, DO (đo 2 lần/ngày vào 6h và 
14h) bằng các máy đo DO và pH meter (Nhật 
Bản); các thông số NH4
+/NH3 và NO2
- được thu 
mẫu và đo 3 ngày/lần bằng bộ test Sera (Đức). 
2.2.4. Đánh giá hiệu quả điều trị 
Sau 5 ngày điều trị kết hợp bằng thuốc trị 
ký sinh trùng và kháng sinh để chống bội nhiễm 
vi khuẩn. Chúng tôi tiếp tục theo dõi cá thêm 2 
ngày và tiến hành mổ khám toàn bộ cá ở các lô 
thí nghiệm và lô đối chứng ở ngày thứ 7 để kiểm 
tra triệu chứng và bệnh tích của cá, tình trạng 
nhiễm giun sau điều trị ở các lô được điều trị và 
so sánh kết quả với lô đối chứng. Công thức tính 
tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun đầu gai/cá 
sau khi điều trị được tính theo công thức sau: 
Tỷ lệ nhiễm 
bệnh sau 
điều trị (%) 
= 
Số cá còn nhiễm bệnh 
sau điều trị 
 100 
Số cá được điều trị 
Cường độ 
nhiễm bệnh 
sau điều trị 
= 
Tổng số giun đếm được ở 
cá nhiễm bệnh 
Tổng số cá nhiễm bệnh 
2.3. Xử lý số liệu 
Phần mềm Microsoft Excel được dùng để 
tính các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn (SD). 
Để so sánh hiệu quả điều trị, cường độ nhiễm 
giun đầu gai giữa các lô điều trị được so sánh 
bằng phép phân tích ANOVA một nhân tố và 
kiểm định Tukey, sử dụng phần mềm SPSS 20. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Dấu hiệu lâm sàng của cá rô đồng bị 
bệnh giun đầu gai 
Qua kiểm tra ao cá bệnh cho thấy cá bị 
bệnh có dấu hiệu nhợt nhạt, chết rải rác. Qua 
kiểm tra ngẫu nhiên 30 cá rô đồng trong ao có 
dấu hiệu bị bệnh cho thấy nội tạng cá bị xuất 
huyết, đặc biệt ruột cá xuất huyết nặng, một số 
con có hiện tượng giun làm thủng ruột và chui 
vào xoang bụng (Hình 1). Đặc điểm phân loại 
cho thấy giun đầu gai gây bệnh cho động vật 
thủy sản có ba giống Pallisentis, 
Rhadinorhynchus và Neosentis. Sự khác biệt 
chủ yếu của Pallisentis với hai giống còn lại là 
sự phân bố vòng gai trên cơ thể đồng đều và 
chạy dài dọc theo gần như hết chiều dài cơ thể. 
Trong khí đó vòng gai chỉ tập trung ở phần đầu 
ở hai giống còn lại, phần sau cơ thể trơn tru đối 
với giống Rhadinorhynchus, hoặc vòng gai phân 
tán và thưa dần đối với giống Neosentis (Hà Ký 
& Bùi Quang Tề, 2007). Kết quả kiểm tra hình 
thái và phân loại cho thấy cá rô đồng trong 
nghiên cứu này bị nhiễm loài giun đầu gai giống 
Pallisentis (Hình 2). 
Tiến hành mổ khám và kiểm tra ruột cá rô 
đồng nhiễm bệnh, kết quả cho thấy cá nhiễm 
giun đầu gai với tỷ lệ cao (100%: 30/30). Toàn 
bộ hệ thống tiêu hóa của cá đã được tách bỏ và 
đếm số lượng ký sinh trùng tồn tại trong ruột. 
Kết quả cho thấy cường độ nhiễm trung bình 
giun đầu gai ở ruột cá rô đồng rất cao 45,6 
giun/cá, trong đó cá nhiễm cường độ cao nhất 
là 62 giun/cá, cá nhiễm cường độ thấp nhất là 
38 giun/cá. Quan sát thành ruột cá rô đồng 
nhiễm giun cầu gai cho thấy có nhiều điểm 
rách nát, toàn bộ niêm mạc biểu mô và thành 
ruột xuất huyết nghiêm trọng (Hình 3A, B). 
Kích thước giun đầu gai ở thu từ cá rô 
đồng nhiễm bệnh có kích thước từ 12-20mm 
(Hình 3C, D). 
Trương Đình Hoài, Đoàn Văn Vững, Nguyễn Thị Hương Giang, Kim Văn Vạn
897 
Hình 1.Cá rô đồng nhiễm bệnh giun đầu gai (A) 
và giun đục thủng ruột chui vào xoang bụng (B) 
Ghi chú: (A) Hình thái giun đầu gai; (B-C) Hình thái phần đầu và thân giun đầu gai. 
Hình 2. Hình thái giun đầu gai Pallisentis gây bệnh trên cá rô đồng 
Bảng 1. Biến động một số thông số môi trường trong thời gian thí nghiệm 
Phác đồ điều trị Nhiệt độ (C) DO (mg/l) pH NH3 (mg/l) NO2⁻ (mg/l) 
Levamisole 26,0 ± 1,15 4,32 ± 0,12 7,00-7,40 0,03 ± 0,005 0,25 ± 0,13 
Praziquentel 26,2 ± 1,17 4,31 ± 0,13 7,00-7,40 0,04 ± 0,007 0,25 ± 0,14 
Đối chứng 26,0 ± 2,18 4,24 ± 0,26 7,00-7,40 0,04 ± 0,004 0,24 ± 0,12 
Min 24,0 4,21 7,00 0,00 0,10 
Max 27,1 4,38 7,40 0,05 0,50 
Ghi chú: Số liệu được thể hiện ở dạng TB ± SD. 
So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai Pallisentis spp. trên cá rô đồng (Anabas testudineus) bằng levamisole 
và praziquantel 
898 
3.2. Kết quả điều trị giun đầu gai nhiễm 
trên cá rô đồng 
3.2.1. Kết quả theo dõi các yếu tố môi 
trường trong các bể thí nghiệm 
Để đảm báo các yếu tố môi trường không 
tác động đến kết quả thí nghiệm, Một số yếu tố 
môi trường nước của các bể thí nghiệm đã được 
theo dõi và so sánh, kết quả theo dõi diễn biến 
môi trường trong các bể thí nghiệm được thể 
hiện ở bảng 1. 
Hệ thống bể thí nghiệm được thiết kế ngoài 
trời, với nguồn nước cấp là nước ngầm, nhiệt độ 
nước trong bể nuôi dao động trong khoảng 24,0-
27,1C, trung bình đạt 26,0C ở tất cả các lô thí 
nghiệm (Bảng 1). Các bể nuôi được sục khí liên 
tục và hàm lượng oxy hòa tan (DO) đều được duy 
trì trung bình ở mức trên 4 mg/l, pH trong 
khoảng 7,0-7,4. Các bể được thay 30% nước hàng 
ngày kết hợp xiphon đáy, hàm lượng NH3 và 
NO2
- tương ứng trong khoảng 0,0-0,05 mg/l và 
0,1-0,5 mg/l. Theo Boyd (1985), các yếu tố môi 
trường trên đều nằm trong khoảng phù hợp cho 
cá sinh trưởng, biến động của các yếu tố môi 
trường giữa các lô thí nghiệm là không đáng kể 
và không có sự khác biệt giữa các lô thí nghiệm.
Ghi chú: (A-B) Giun đầu gai ký sinh số lượng lớn và gây tổn thương, xuất huyết ruột; (C) giun đầu gai được tách 
ra để tính cường độ nhiễm; (D) Đo kích thước giun đầu gai. 
Hình 3. Giun đầu gai ký sinh trong ruột cá rô đồng 
 Bảng 2. Kết quả điều trị giun đầu gai bằng levamisole và praziquantel 
Phác đồ 
điều trị 
Liều lượng 
(mg/kg cá) 
Tỷ lệ cá nhiễm giun 
 trước và sau điều trị (%) 
Cường độ nhiễm giun 
trước và sau điều trị (giun/cá) Tỷ lệ sống 
(%) 
Trước điều trị Sau điều trị Trước điều trị Sau điều trị 
Levamisole 10 100 0 45,6 ± 6,8 0
a 
100 
Praziquentel 25 100 10 45,6 ± 6,8 6,7
b
 ± 1,6
100 
Đối chứng - 100 100 45,6 ± 6,8 43,8
c
 ± 9,3
88,9 ± 1,9 
Ghú ý: Trong cùng một cột, những giá trị trung bình không mang cùng chữ cái thì sai khác có ý nghĩa thống kê 
(P <0,05). Đối chứng: Cá chỉ dùng thức ăn và không trộn thuốc điều trị bệnh. 
Trương Đình Hoài, Đoàn Văn Vững, Nguyễn Thị Hương Giang, Kim Văn Vạn
899 
Ghi chú: (A) cá sau khi điều trị; (B) Ruột cá khỏi bệnh không còn xuất huyết nghiêm trọng, không còn sự hiện 
diện của giun đầu gai, xác giun đầu gai bị đứt nát và đang phân hủy lẫn trong phân cá (mũi tên đen). 
Hình 4. Cá rô đồng sau khi được điều trị bằng levamisole 
3.2.2. Kết quả đánh giá hiệu quả điều trị 
Sau quá trình điều trị 5 ngày bằng thuốc ký 
sinh trùng và kháng sinh chống viêm nhiễm 
đường ruột, cá ở cả hai lô thí nghiệm điều trị 
bằng phác đồ sử dụng levamisole và 
praziquantel cho thấy sự biến chuyển so với lô 
đối chứng, cá được điều trị hoạt động mạnh, 
phản ứng nhanh và ăn tốt, trong khi đó cá ở lô 
đối chứng hoạt động chậm, phản ứng chậm và 
ăn ít hơn. Cá bệnh ở lô đối chứng có hiện tượng 
chết rải rác từ ngày thứ 4-7 của quá trình thí 
nghiệm và theo dõi bệnh. Sau khi kết thúc quá 
trình điều trị, toàn bộ số cá ở lô thí nghiệm sử 
dụng các phác đồ điều trị và lô đối chứng được 
mổ khám ở ngày thứ 7, quan sát sự chuyển biến 
các cơ quan nội tạng và ruột cá, toàn bộ đường 
tiêu hóa của cá được cắt rời và kiểm tra sự hiện 
diện của giun đầu gai trong ruột. Kết quả kiểm 
tra và so sánh tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm 
của cá rô đồng nhiễm giun đầu gai trước và sau 
khi điều trị cho thấy cá nhiễm giun đầu gai được 
điều trị bằng thuốc ký sinh trùng có sự khác 
biệt rõ ràng về cả tỷ lệ và cường độ nhiễm 
(P <0,05), cụ thể được thể hiện ở bảng 2. 
Kết quả kiểm tra tình trạng cá sau điều trị 
cho thấy, phác đồ sử dụng levamisole với liều 
10 mg/kg cá trong 3 ngày cho kết quả tốt. Toàn 
bộ số cá được điều trị bằng phác đồ này khỏi bệnh 
100%, không còn thấy sự hiện diện của giun đầu 
gai trong ruột cá, ngoại trừ một số cá vẫn còn xác 
giun đầu gai đang bị phân hủy và trộn lẫn trong 
phân cá, ruột cá hồi phục rõ rệt, không còn hiện 
tượng xuất huyết lan tràn như trước khi điều trị 
(Hình 4). Với phác đồ sử dụng praziquantel liều 
25 mg/kg cá mặc dù hầu hết cá khỏi bệnh, tỷ lệ 
sống sau quá trình điều trị là 100%, tuy nhiên 
vẫn còn 10% (3/30) số cá có sự tồn tại của giun 
đầu gai trong đường tiêu hóa với cường độ nhiễm 
thấp (6,7 giun/cá), hầu hết số giun còn lại hoạt 
động yếu. Do khả năng hấp thụ praziquantel với 
mỗi loài cá và mỗi loại ký sinh trùng khác nhau 
là khác nhau nên liều lượng điều trị cũng khác 
nhau ở từng loài cá và từng loài ký sinh trùng 
(Hoai, 2019). Cho đến nay chưa có nghiên cứu sử 
dụng praziquantel điều trị giun đầu gai trên cá 
nói chung và trên cá rô đồng nói riêng, do vậy 
cần có các nghiên cứu tiếp theo để xác định chính 
xác liều lượng có hiệu quả điều trị triệt để cho đối 
tượng này. Mặt khác, kết quả nghiên cứu điều trị 
bệnh do ấu trùng sán ruột nhỏ và ấu trùng sán lá 
song chủ trên cá trắm cỏ, cá chép cho thấy liều 
50-75 mg/kg cá cho hiệu quả triệt để (Kim Văn 
Vạn & cs., 2012; 2015). Mặc dù điều trị giun và 
ấu trùng sán là khác nhau về nồng độ do ấu 
trùng sán thường có vỏ bọc và cần nồng độ cao 
hơn, nhưng đây cũng là gợi ý để tiếp tục có các 
nghiên cứu về tăng liều praziquantel trong khi 
điều trị giun đầu gai ở các nghiên cứu tiếp theo. 
Với lô đối chứng cá không được điều trị cho thấy 
một số cá từ ngày 5-7 trong quá trình thí nghiệm 
và theo dõi, tỷ lệ sống của lô đối chứng là 88,9%, 
ruột cá xuất huyết nặng và hiện tượng thủng 
ruột, một vài con xoang bụng tích nước lẫn phân 
trong xoang bụng. Như vậy, phác đồ điều trị kết 
hợp cho ăn levamisole với liều 10 mg/kg cá trong 
3 ngày và kháng sinh florphenicol liều 15 mg/kg 
cá trong 5 ngày là phác đồ mang lại hiệu quả 
So sánh hiệu quả điều trị bệnh giun đầu gai Pallisentis spp. trên cá rô đồng (Anabas testudineus) bằng levamisole 
và praziquantel 
900 
điều trị cao, có thể áp dụng để xử lý bệnh cá rô 
đồng bị nhiễm giun đầu gai. 
Đây là nghiên cứu bước đầu về dấu hiệu 
bệnh và phác đồ điều trị bệnh do giun đầu gai 
gây bệnh trên cá rô đồng tại Việt Nam. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy cá rô đồng có thể nhiễm 
giun đầu gai với tỷ lệ và cường độ cao, nếu 
không được điều trị có thể bắt đầu gây chết sau 
5-7 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên. Theo 
Đỗ Thị Hòa & cs. (2004), cá nhiễm giun đầu gai 
gầy và kèm theo hiện tượng thiếu máu do giun 
đầu gai dùng vòi cắm sâu vào niêm mạc ruột 
của cá, phá hoại thành ruột dẫn đến hiện tượng 
viêm loét, mở đường cho một số sinh gây bệnh 
xâm nhập. Tuy nhiên, nếu cá nhiễm giun với 
cường độ nhiễm cao như cá rô đồng trong nghiên 
cứu này, giun tập trung với số lượng nhiều và 
đâm thủng thành ruột ở nhiều vị trí, gây tắc 
ruột, phân tràn vào xoang bụng gây rối loạn và 
nhiễm khuẩn và có gây chết nếu cá không được 
điều trị kịp thời. Theo Nguyễn Thị Thu Hằng & 
Đặng Thị Hoàng Oanh (2015), cá nhiễm giun 
đầu gai chủ yếu là do nguồn nước ao nuôi được 
lấy từ kênh bẩn, chất lượng nước không đảm 
bảo, có nhiều vật chủ trung gian như nhuyễn 
thể, giáp xác, có cơ hội phát triển. 
 Trong nghiên cứu này, cá bệnh được bắt từ 
ao lên bể để thử nghiệm điều trị và sử dụng 
nguồn nước ngầm, nên có thể loại bỏ được các 
nguy cơ cá nhiễm lại ấu trùng và trứng tồn tại 
trong ao. Do vậy, để quá trình trị bệnh trong ao 
đạt hiệu quả, người nuôi nên kết hợp khử trùng 
nước để tiêu diệt ấu trùng và trứng tồn tại trong 
nước ao và tiến hành điều trị sớm để hạn chế 
thiệt hại do bệnh gây ra. Những ao đã từng xảy 
ra bệnh, nên tiến hành cải tạo, phơi ao và bón 
vôi trước khi nuôi để loại bỏ trứng và ấu trùng 
giun, trong quá trình nuôi nên khử trùng định 
kỳ và phát hiện sớm bệnh để điều trị kịp thời 
4. KẾT LUẬN 
Đây là nghiên cứu đầu tiên về bệnh và thử 
nghiệm điều trị bệnh giun đầu gai trên cá rô đồng 
tại Việt Nam. Cá rô đồng nhiễm giun đầu gai với 
tỷ lệ nhiễm cao gây ra hiện tượng tắc ruột, xuất 
huyết và thủng ruột và có thể gây chết nếu không 
điều trị kịp thời. Phác đồ điều trị sử dụng 
levamisole 10 mg/kg cá/ngày trong 3 ngày liên tục 
kết hợp điều trị bằng kháng sinh florphenicol 
15 mg/kg cá/ngày trong 5 ngày liên tục cho kết 
quả điều trị cao, 100% cá khỏi bệnh và giun đầu 
gai được tẩy triệt để. Kết quả nghiên cứu có ý 
nghĩa trong việc chẩn đoán và phòng trị hiệu quả 
bệnh giun đầu gai trong thực tế sản xuất, giúp 
nghề nuôi cá rô đồng phát triển bền vững. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Arthur J.R. & Bui Quang Te (2006). Checklish of the 
parasites of fishes of Vietnam. FAO Fisheries 
Technical Paper. 369(2). 
Boyd C.E., & Pillai V.K. (1985). Water quality 
management in aquaculture. CMFRI special 
Publication. 22: 1-44. 
Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng & 
Nguyễn Thị Muội (2004). Giáo trình Bệnh học 
Thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 
Dung T.T., Ngoc N.T.N., Thinh N.Q., Thy D.T.M., Tuan 
N.A., Shinn A. & Crumlish M. (2008). Common 
diseases of pangasius catfish farmed in Viet Nam. 
Global Aquaculture Advocate. 11(4): 77-78. 
Hà Ký & Bùi Quang Tề (2007). Ký sinh trùng cá nước 
ngọt Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ 
thuật Việt Nam. 360tr. 
Hoai T.D. (2020). Reproductive strategies of parasitic 
flatworms (Platyhelminthes, Monogenea): the 
impact on parasite management in aquaculture. 
Aquaculture International, 28(1): 421-447. 
Kim Văn Vạn, Nguyễn Văn Tuyến, Trương Đình Hoài 
& Ngô Thế Ân (2015). Thử nghiệm praziquantel 
và mebedazole điều trị sán lá đơn chủ và ấu trùng 
sán ký sinh trên cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon 
idella) ở giai đoạn cá hương. Tạp chí Khoa học và 
Phát triển. 13(2): 200-205. 
Nguyễn Thị Thu Hằng & Đặng Thị Hoàng Oanh 
(2015). Xác định thành phần giống loài ký sinh 
trùng trên cá lóc (Channa striata) giai đoạn giống 
đến nuôi thương phẩm. Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Cần Thơ. 40 (1): 60-66. 
Nguyễn Văn Hà (2015). Cập nhật thành phần loài giun 
đầu gai (Acanthocephala) ký sinh ở động vật Việt 
Nam. Tạp chí Sinh học. 37(3): 384-394. 
Trần Minh Phú, Trần Lê Cẩm Tú & Trần Thị Thanh 
Hiền (2006). Thực nghiệm nuôi thâm canh cá rô 
đồng (Anabas testudineus) bằng thức ăn viên với 
các hàm lượng đạm khác nhau. Tạp chí Khoa học, 
Trường Đại học Cần Thơ. tr. 104-109. 
Van K.V, Hoai T.D., Buchmann K., Dalgaard A. & 
Van Tho N. (2012). Efficacy of Praziquantel 
against Centrocestus form. Journal of Southern 
Agriculture. 43(4): 520-523. 
Williams J.C. & Broussard S.D. (1995). Comparative 
efficacy of levamisole, thiabendazole and 
fenbendazole against cattle gastrointestinal 
nematodes. Veterinary parasitology. 58(1-2): 83-90. 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_hieu_qua_dieu_tri_benh_giun_dau_gai_pallisentis_spp.pdf