Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng

Nghiên cứu về ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) được thực hiện trong thời gian từ năm 2012 đến 2020

tại 6 tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và Hòa Bình). Tổng số có 9

loài (chiếm khoảng 4,5% tổng số loài ở khu vực nghiên cứu), thuộc 8 giống, 5 họ từ kết quả khảo sát thực địa tại 91

điểm thu mẫu. Có 5 loài (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris và Succinea

tenuis) được ghi nhận từ những sinh cảnh bị tác động thường xuyên, 3 loài (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis

infantilis và Gulella bicolor) từ sinh cảnh ít bị tác động và 1 loài (Ganesella perakensis) từ sinh cảnh tự nhiên. Trong

số các loài ốc cạn ngoại lai được ghi nhận, 3 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại thấp (Allopeas clavulinum,

Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), 2 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại trung bình (Gulella bicolor,

Succinea tenuis) và 4 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại cao (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens,

Bradybaena similaris). Những dẫn liệu từ bài báo là hữu ích để nhận diện và quản lý các loài ốc cạn ngoại lai, đồng

thời có thể ngăn chặn sự mở rộng của chúng tới những khu vực khác tại Việt Nam.

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 1

Trang 1

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 2

Trang 2

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 3

Trang 3

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 4

Trang 4

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 5

Trang 5

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 6

Trang 6

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 7

Trang 7

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 8

Trang 8

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 9

Trang 9

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 6420
Bạn đang xem tài liệu "Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng

Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 942-951 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 942-951 
www.vnua.edu.vn 
942 
ỐC CẠN NGOẠI LAI (MOLLUSCA: GASTROPODA) 
TẠI TÂY BẮC VIỆT NAM: RỦI RO HIỆN HỮU VÀ TIỀM TÀNG 
Đỗ Đức Sáng*, Nguyễn Thanh Sơn 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội 
*Tác giả liên hệ: do.ducsang@hus.edu.vn 
Ngày nhận bài: 05.01.2021 Ngày chấp nhận đăng: 31.03.2021 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu về ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) được thực hiện trong thời gian từ năm 2012 đến 2020 
tại 6 tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và Hòa Bình). Tổng số có 9 
loài (chiếm khoảng 4,5% tổng số loài ở khu vực nghiên cứu), thuộc 8 giống, 5 họ từ kết quả khảo sát thực địa tại 91 
điểm thu mẫu. Có 5 loài (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris và Succinea 
tenuis) được ghi nhận từ những sinh cảnh bị tác động thường xuyên, 3 loài (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis 
infantilis và Gulella bicolor) từ sinh cảnh ít bị tác động và 1 loài (Ganesella perakensis) từ sinh cảnh tự nhiên. Trong 
số các loài ốc cạn ngoại lai được ghi nhận, 3 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại thấp (Allopeas clavulinum, 
Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), 2 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại trung bình (Gulella bicolor, 
Succinea tenuis) và 4 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại cao (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, 
Bradybaena similaris). Những dẫn liệu từ bài báo là hữu ích để nhận diện và quản lý các loài ốc cạn ngoại lai, đồng 
thời có thể ngăn chặn sự mở rộng của chúng tới những khu vực khác tại Việt Nam. 
Từ khóa: Ốc cạn, ngoại lai, sinh cảnh, nguồn gốc, Tây Bắc. 
Introduced Land Snails in the Northwest Vietnam: Existing and Potential Risks 
ABSTRACT 
Research on introduced land snails was carried out from 2012 to 2020 in Northwest Vietnam (Lai Chau, Lao Cai, 
Dien Bien, Son La, Yen Bai, and Hoa Binh Provinces). A total of nine species (nearly 4.5% of the total number of land 
molluscs species in the research area) representing eight genera and five families were enumerated based on field 
surveys of 91 sampling sites. Five species (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena 
similaris, Succinea tenuis) were recorded frequently disturbed in habitats, while three species (Allopeas clavulinum, 
Chalepotaxis infantilis, Gulella bicolor) in relatively undisturbed habitats, and a species (Ganesella perakensis) in 
natural habitats. Of these, three species were considered to cause low risks (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis 
infantilis, Ganesella perakensis), two medium risks (Gulella bicolor, Succinea tenuis), and four high risks 
(Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris). This paper’s data is urgently 
required to identify and manage introduced land snail species and if possible to prevent their spread to noninfected 
areas in Vietnam. 
Keywords: land snails, invasive, habitats, place of origin, Northwest. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khu hệ động vật ốc cạn (Mollusca: 
Gastropoda) của vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai 
Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và 
Hòa Bình) rất độc đáo và đa dạng. Hơn 200 loài 
đã được ghi nhận ở vùng nghiên cứu, trong đó có 
khoảng 95,5% số loài thuộc khu hệ là bản địa 
của Việt Nam và khoảng 20% là đặc hữu cho 
vùng Tây Bắc (Schileyko, 2011; Do & Do, 2015; 
Páll-Gergely & cs., 2017; Do & Do, 2019). 
Nguồn dẫn liệu này cho phép dễ dàng xác định 
được những loài còn thiếu thông tin, cũng như 
thông tin đối chiếu về những rủi ro mà nhóm 
Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 
943 
loài ngoại lai gây ra đối với sản xuất nông 
nghiệp, thương mại, sức khỏe con người và vật 
nuôi (Sherley, 2000; Brodie & Barker, 2011; 
Groom & cs., 2015). Nhiều loài ốc cạn được biết 
đến là loài ngoại lai gây hại cho nông nghiệp 
(cây lương thực, cây rau, cây cảnh, cây dược 
liệu, cây ăn quả) và vật chủ trung gian của ký 
sinh trùng (giun tròn, giun dẹp, động vật đơn 
bào). Do đó, thông tin đầy đủ về chúng là rất 
cần thiết, làm cơ sở cho công tác quản lý, ngăn 
chặn sự lây lan, xâm hại đối với sức khỏe con 
người, vật nuôi và cây trồng (Bộ Tài nguyên & 
Môi trường, 2018; Shine & cs., 2015). 
Nhiều quốc gia trên thế giới đã mất đi một 
lượng đáng kể đa dạng sinh học, đặc biệt là 
nhóm loài đặc hữu. Tuy vậy, trong nhiều trường 
hợp, sự du nhập của các loài ngoại lai gây hại 
chưa được đánh giá đầy đủ tại Việt Nam. Hai ví 
dụ điển hình là ốc sên châu Phi (Lissachatina 
fulica) và ốc sên nhỏ (Allopeas gracile). Ngoại 
trừ trường hợp của loài thứ nhất, chúng ta hầu 
như có rất ít thông tin cơ bản về loài thứ hai để 
xác định nhanh chóng và đánh giá đầy đủ. Nếu 
không được giải quyết, việc thiếu thông tin về 
các loài có thể gây ra tác động lớn và lâu dài đến 
nông nghiệp, kiểm dịch, thương mại, vật nuôi và 
sức khỏe con người tại Việt Nam nói chung, 
trong đó có vùng Tây ...  không liên tục, chỉ mở rộng một phần 
trên cạnh trụ. Lỗ rốn không rõ hoặc rất hẹp. 
Nhận xét: Tại Tây Bắc Việt Nam, loài 
Allopeas clavulinum được ghi nhận khá phổ 
biến, có thể gặp quần thể với số lượng cá thể lớn. 
3.3. Loài Allopeas gracile (Hutton, 1834) 
(Hình 1C-D, Bảng 1-2) 
Synonym: Bulimus gracilis Hutton, 1834; 
Achatina mandralisci Calcara, 1840; Bulimus 
junceus Gould, 1846; Bulimus oparanus Pfeiffer, 
1846; Bulimus hortensis C.B. Adams, 1851; 
Stenogyra upolensis Mousson, 1865; Limicolaria 
bourguignati Paladilhe, 1872; Bulimus 
(Stenogyra) johanninus Morelet, 1877; Aclis 
californica Bartsch, 1927; Allopeas gracilis - 
Inkhavilay & cs. (2019). 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt 
tới 15mm), vỏ hình tháp dài. Vỏ màu trắng đục 
đến vàng nhạt. Có 8-9 vòng xoắn phẳng. Miệng 
vỏ gần hình thoi, góc đỉnh nhọn. Vành miệng 
mỏng, sắc, không liên tục, chỉ mở rộng trên cạnh 
trụ. Lỗ rốn rất hẹp. 
Nhận xét: Kích thước vỏ, số vòng xoắn biến 
đổi rõ giữa các quần thể. Tại vùng Tây Bắc, loài 
này được ghi nhận ở khu dân cư, chủ yếu từ các 
chậu cây cảnh, đất trồng cây rau mầm, các loại 
rau ngắn ngày. 
3.4. Loài Sarika resplendens (Philippi, 
1846) (Hình 1E-F, Bảng 1-2) 
Synonym: Helix resplendens Philippi, 1846; 
Macrochlamys resplendens - Collinge, 1903; 
Sarika resplendens - Schileyko, 2011. 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ lớn (đạt tới 25mm), 
vỏ hình nón. Có 6-6 1
2
vòng xoắn, vòng cuối 
được làm tròn ở ngoại vi. Vỏ màu trắng đục đến 
vàng nhạt. Bề mặt vỏ trơn, nhẵn, bóng. Miệng vỏ 
hình liềm, chéo. Vành miệng mỏng, không mở 
rộng và không liên tục. Lỗ rốn hẹp, sâu. 
Nhận xét: Hình thái vỏ sai khác rõ giữa các 
quần thể, chủ yếu về kích thước và mức độ nhô 
cao của tháp ốc. Tại vùng Tây Bắc, loài này được 
ghi nhận chủ yếu ở các khu dân cư, gồm đất 
trồng rau, bãi đất hoang, vườn cây ăn quả. 
3.5. Loài Bradybaena similaris (Férussac, 
1821) (Hình 2A-B, Bảng 1-2) 
Synonym: Helix similaris Fèrussac, 1821; 
Eulota similaris - Gude, 1914; Bradybaena 
similaris - Schileyko, 2011. 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt 
tới 20mm), vỏ hình cầu. Bề mặt vỏ xuất hiện các 
gờ xuyên tâm. Màu vàng nâu, xuất hiện dải 
màu nâu sẫm ở ngoại vi vòng xoắn cuối. Có 
5 1
2
vòng xoắn, vòng cuối được làm tròn ở ngoại 
vi. Lỗ rốn rộng, sâu. 
Nhận xét: Loài này có hình dạng và màu sắc 
vỏ khá giống với Bradybaena jourdyi, tuy nhiên 
sai khác ở kích thước nhỏ hơn, màu sắc đồng 
nhất, xuất hiện dải màu nâu sẫm ở ngoại vi vòng 
xoắn cuối. Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi 
nhận chủ yếu ở các khu dân cư, chúng bám trên 
bờ rào, bãi đất hoang, vườn cây ăn quả. 
3.6. Loài Ganesella perakensis (Crosse, 
1879) (Hình 2C-D, Bảng 1-2) 
Synonym: Helix (Geotrochus) perakensis 
Crosse, 1879; Helix (Trochomorphoides) acris 
var. perakensis Bavay et Dautzenberg, 1909; 
Ganesella acris perakensis - Schileyko, 2011; 
Ganesella thachi Thach N.N., 2018. 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt tới 
12mm), vỏ hình tháp. Vỏ có màu nền trắng đục, 
xuất hiện các dải màu vàng nâu xoắn quanh vỏ. 
Có 6 vòng xoắn, vòng cuối mở rộng, gấp nếp tạo 
gờ sắc ở ngoại vi. Lỗ rốn hẹp, sâu, khoảng 1/3 
diện tích bị che khuất bởi vành miệng. 
Nhận xét: Bavay & Dautzenberg (1909) 
phân biệt 3 dạng hình thái ở loài này, gồm var. 
ex. forma perakensis, từ Pac-Kha, Muong-Hum 
(phù hợp với Bắc Hà và Mường Hum, Lào Cao), 
var. ex colore saturata từ Muong-Bo (Mường Bo, 
Sa Pa, Lào Cai), var. ex. colore albina từ Pac-
Kha (Bắc Hà, Lào Cai). Tại vùng Tây Bắc, loài 
Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 
947 
này chỉ được ghi nhận ở các khu vực có rừng 
trên núi đá vôi thuộc tỉnh Điện Biên, Sơn La và 
Hòa Bình. 
3.7. Loài Chalepotaxis infantilis (Gredler, 
1881) (Hình 1G-H, Bảng 1-2) 
Synonym: Helix similaris var. infantilis 
Gredler, 1881; Xesta unilineata Dautzenberg, 
1893; Bradybaena similaris infantilis - 
Richardson, 1983; Chalepotaxis infantilis - Páll-
Gergely & cs. (2016). 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ nhỏ (đạt tới 
9mm), vỏ hình nón. Có 6 vòng xoắn, vòng cuối 
được làm tròn ở ngoại vi. Vỏ màu trắng đục, 
xuất hiện dải màu nâu sẫm ở vùng ngoại vi 
vòng xoắn cuối. Bề mặt vỏ trơn, nhẵn, bóng. Lỗ 
rốn mở rộng, sâu. 
Nhận xét: Cho đến nay, trên thế giới chỉ 
mới phát hiện hai loài Chalepotaxis gồm 
C. infantilis và C. spadix (Páll-Gergely & cs., 
2016). Tại Tây Bắc Việt Nam, loài C. infantilis 
khá phổ biến ở sinh cảnh rừng trên núi đá vôi, 
với kích thước và cấu trúc hình thái vỏ thể hiện 
sai khác giữa các quần thể, nhưng ổn định với 
dải màu nâu sẫm trên vòng xoắn cuối. 
3.8. Loài Gulella bicolor (Hutton, 1834) 
(Hình 2G, Bảng 1-2) 
Synonym: Pupa bicolor Hutton, 1834; 
Ennea (Huttonella) bicolor - Pfeiffer, 1854; 
Ennea bicolor barkudensis - Annandale & 
Prashad, 1920; Gulella bicolor - Berry, 1963. 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ nhỏ (đạt tới 
7,5mm), vỏ hình trụ dài. Có 7 vòng xoắn, tăng 
trưởng chậm. Miệng vỏ hình tứ giác lệch, xuất 
hiện 4 răng, gồm: 1 răng đỉnh, 1 răng cận đỉnh, 
1 răng gốc và 1 răng trụ. 
Nhận xét: Hiện nay, loài này đã mở rộng 
phạm vi phân bố ra nhiều nơi trên thế giới, 
chúng được đánh giá như véctơ truyền ký sinh 
trùng và gây hại cho các loài động vật bản địa, 
đặc biệt những loài thuộc giống Prosopeas, 
Tortaxis, Subulina và Glessula (Achatinidae). 
Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi nhận sinh 
cảnh rừng trên núi đá vôi. 
3.9. Loài Succinea tenuis (Morelet, 1865) 
(Hình 2E-F, Bảng 1-2) 
Synonym: Succinea tenuis Morelet, 1865; 
Succinea tenella Morelet, 1875; Succinea 
cochinchinensis Crosse & Fischer, 1863. 
Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt 
tới 11mm), vỏ hình oval, mỏng. Vỏ màu vàng 
nhạt, xuất hiện các đường gờ hình zíc-zăc. Có 3 
vòng xoắn, vòng cuối mở rộng và chiếm gần như 
toàn bộ chiều cao vỏ. Miệng vỏ hình ôvan, rất 
rộng. Không có lỗ rốn. 
Nhận xét: Loài này được phát hiện thường 
sống bám và gây hại một số loại rau như rau 
muống, cải xoong, cải canh, diếp cá,... Tại vùng 
Tây Bắc, loài này được ghi nhận chủ yếu ở các 
khu dân cư, gồm nơi trồng rau, bãi đất hoang, 
ven bờ các thủy vực, chúng hoạt động tích cực 
khi môi trường có độ ẩm cao. 
4. THẢO LUẬN 
Mặc dù đã có một số công bố về thành phần 
loài ốc cạn ở Tây Bắc Việt Nam trong 130 năm 
qua (bắt đầu bằng công trình của Morlet, 1891), 
nhưng đây là dẫn liệu đầu tiên tập trung vào các 
loài không phải bản địa ở khu vực này (Bavay & 
Dautzenberg, 1912; Do & Do, 2014; Do & cs., 
2015). 9 loài được ghi nhận ở đây bao gồm một số 
loài phân bố rộng ở nhiều vùng nhiệt đới trên thế 
giới (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, 
Bradybaena similaris, Sarika resplendens, 
Gulella bicolor), chúng được đánh giá sẽ chiếm 
ưu thế, thậm chí có thể thay thế các loài đặc hữu 
nếu không có giải pháp khống chế và kiểm soát 
phù hợp. Kết quả phân tích mẫu vật từ 91 điểm 
khảo sát tại Tây Bắc cho thấy, ba loài 
Lissachatina fulica, Sarika resplendens và 
Allopeas gracile có khả năng sẽ trở thành nhóm 
loài ưu thế nếu không có giải pháp hợp lý. 
Để tăng khả năng thích nghi với môi trường 
cạn và điều kiện bất lợi, các loài ốc cạn ngoại lai 
đã hình thành một số tập tính hoạt động, sinh 
sản, cùng với cấu trúc lớp vỏ giúp chúng có thể 
tồn tại và phát triển, thậm chí vượt trội so với 
các loài bản địa. Hoạt động tích cực vào ban 
đêm, tập tính trú đông, trú hè với nắp miệng 
Ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: rủi ro hiện hữu và tiềm tàng 
948 
giả, lớp vỏ dày cùng màu sắc dễ hòa lẫn với môi 
trường, sinh sản không qua ghép đôi (tự thụ 
tinh ở Bradybaena similaris) (Carvalho & cs., 
2017) là những đặc điểm thích nghi nổi bật. 
Hình 1. A-B: Loài Lissachatina fulica, C-D: Allopeas gracile, 
E-F: Sarika resplendens, G-H: Chalepotaxis infantilis 
Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 
949 
Hình 2. A-B: Loài Bradybaena similaris, C-D: Ganesella perakensis, 
E-F: Succinea tenuis, G: Gulella bicolor, H: Allopeas clavulinum 
Ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: rủi ro hiện hữu và tiềm tàng 
950 
Ít nhất 5 loài ốc cạn ngoại lai (Lissachatina 
fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, 
Bradybaena similaris, Gulella bicolor) được ghi 
nhận ở Tây Bắc đóng vai trò là vật chủ trung 
gian truyền bệnh (giun tròn, giun dẹp, động vật 
đơn bào), tiêu biểu như loài giun phổi 
Angiostrongylus cantonensis ký sinh ở chuột, 
nhưng vật chủ trung gian là một số loài ốc cạn 
và sên trần (Carvalho & cs, 2017). 
Những rủi ro có thể xảy ra do ốc cạn ngoại 
lai gây ra tại Việt Nam nói chung, vùng Tây Bắc 
nói riêng cho thấy sự cần thiết của các biện 
pháp an toàn sinh học để bảo tồn khu hệ ốc cạn 
bản địa và đa dạng sinh học nói chung. Nhiều 
nghiên cứu đã khẳng định “việc ngăn chặn sự 
xâm nhập hơn là kiểm soát sau này”, là phương 
châm quan trọng nhất để ngăn chặn sự xâm 
nhập của các loài ngoại lai (Alicata, 1965; 
Sherley, 2000; Brodie & Barker, 2011; Groom & 
cs., 2015; Carvalho & cs., 2017). Mặc dù về 
phương diện kỹ thuật, việc diệt trừ các loài 
ngoại lai gây hại có thể rất khó thực hiện, 
nhưng việc ngăn chặn sự xâm nhập, hoặc ngăn 
chặn sự lây lan của chúng có nhiều khả năng 
thành công khi tiến hành các chiến lược nhằm 
nâng cao nhận thức tại mỗi địa phương. Đối với 
loài có nguy cơ gây hại cao như Lissachatina 
fulica và Allopeas gracile, các chiến lược kiểm 
soát nên bao gồm việc cung cấp và phổ biến các 
biện pháp phòng ngừa sức khỏe cho cả cộng 
đồng địa phương. 
Một số biện pháp cần phải sớm được triển 
khai nhằm hạn chế tác động của ốc cạn ngoại lai 
tại Tây Bắc, gồm đánh giá đầy đủ (sinh học, 
sinh thái, sinh sản và phát triển) để có thông tin 
toàn diện đối với mỗi loài; bổ sung các loài ốc 
cạn ngoại lai gây hại (Lissachatina fulica, 
Sarika resplendens, Allopeas gracile) vào danh 
sách loài sinh vật ngoại lai xâm hại; nâng cao 
nhận thức trong cộng đồng về tác hại của các 
loài ngoại lai gây hại; thúc đẩy việc giám sát các 
quần thể, đặc biệt về số lượng cá thể và nơi 
chúng phân bố. 
5. KẾT LUẬN 
Đã xác định được 9 loài ốc cạn ngoại lai tại 
vùng Tây Bắc Việt Nam, thuộc 5 họ, bộ 
Stylommatophora, lớp Thân mềm Chân bụng, 
ngành Thân mềm, với các thông tin đầy đủ về 
tên khoa học, đặc điểm định loại, phạm vi phân 
bố và mức độ gây hại. Số loài ốc cạn ngoại lai 
chiếm khoảng 4,5% trong tổng số 200 loài ghi 
nhận cho toàn vùng. 5 loài (Lissachatina fulica, 
Allopeas gracile, Sarika resplendens, 
Bradybaena similaris và Succinea tenuis) đã 
được ghi nhận phân bố ở nhóm sinh cảnh bị tác 
động thường xuyên, 3 loài (Allopeas clavulinum, 
Chalepotaxis infantilis và Gulella bicolor) ở 
nhóm sinh cảnh bị tác động không thường 
xuyên và 1 loài (Ganesella perakensis) ở sinh 
cảnh tự nhiên. Đã xác định có 3 loài thuộc nhóm 
nguy cơ gây hại thấp (Allopeas clavulinum, 
Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), 
2 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại trung bình 
(Gulella bicolor, Succinea tenuis) và 4 loài thuộc 
nhóm nguy cơ gây hại cao (Lissachatina fulica, 
Allopeas gracile, Sarika resplendens, 
Bradybaena similaris). 
LỜI CẢM ƠN 
Chúng tôi chân thành cảm ơn Anna 
Sulikowska-Drozd (Trường Đại học Lodz, Ba 
Lan) và các sinh viên ngành Sư phạm Sinh học, 
khóa 47 đến 55 (giai đoạn 2012-2018), Trường 
Đại học Tây Bắc đã hỗ trợ công tác thực địa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Alicata J.E. (1965). Biology and distribution of the rat 
lungworm, Angiostrongylus cantonensis, and its 
relationship to eosinophilic meningoencephalitis 
and other neurological disorders of man and 
animals. Advances in Parasitology. 3: 223-248. 
Bavay A. & Dautzenberg P. (1909). Description de 
coquilles nouvelles de ľIndo-Chine (5e suite). 
Journal de Conchyliologie. 57: 81-105, 163-206, 
279-288, 229-251. 
Bavay A. & Dautzenberg P. (1912). Description de 
coquilles nouvelles de ľIndo-Chine. Journal de 
Conchyliologie. 60: 1-54. 
Bộ Tài nguyên & Môi trường (2018). Thông tư 
35/2018/TT-BTNMT (2018) – Quy định tiêu chí 
xác định và ban hành danh mục loài ngoại lai xâm 
hại, ngày 28/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài 
nguyên & Môi trường. 
Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 
951 
Brodie G. & Barker G.M. (2011). Introduced land 
snails Fiji, the risks. Island invasives: eradication 
and management. pp. 32-36. 
Carvalho C.M., Cristina E., Bessa E.C.A. & D’Ávila S. 
(2017). Life history strategy of Bradybaena 
similaris (Fèrussac, 1821) (Mollusca, 
Pulmonata, Bradybaenidae). Molluscan Research. 
28(3): 171-174. 
Do D.S. & Do V.N. (2014). The landsnail family 
Subulinidae (Gastropoda: Pulmonata) from Son 
La, Vietnam, with description of two new species. 
Tạp chí Sinh học. 36(4): 451-459. 
Do D.S., Nguyen T.H.T. & Do V.N. (2015). A 
checklist and classification of terrestrial 
prosobranch snails from Son La, north-western 
Vietnam. Ruthenica. 25: 117-132. 
Do D.S. & Do V.N. (2019). Family Cyclophoridae in 
Vietnam (Gastropoda: Cyclophoroidea): the genus 
Cyclophorus Montfort, 1810. Ruthenica. 29: 1-53. 
Đỗ Đức Sáng & Đỗ Văn Nhượng (2014). Dẫn liệu về 
ốc cạn (Mollusca: Gastropoda) dọc sông Đà, đoạn 
từ Sơn La đến Hòa Bình. Tạp chí Khoa học Đại 
học Quốc gia Hà Nội: Khoa học Trái đất và Môi 
trường. 30(3): 27-36. 
Groom Q.J., Desmet P., Vanderhoeven S. & Adriaens T. 
(2015). The importance of open data for invasive 
alien species research, policy and management. 
Management of Biological Invasions. 6(2): 119-125. 
Morlet L. (1891). Contributions a la malacologique de 
ľIndo-Chine. Journal de Conchyliologie. 
39: 230-254. 
Páll-Gergely B., Fehér Z., Otani J.U. & Asami T. 
(2016). An integrative taxonomic approach to infer 
the systematic position of Chalepotaxis Ancey, 
1887 (Gastropoda: Stylommatophora: 
Helicarionidae). Molluscan Research. 37: 113-119. 
Páll-Gergely B., Hunyadi A., Do S.D., Naggs F. & 
Asami T. (2017). Revision of the Alycaeidae of 
China, Laos and Vietnam (Gastropoda: 
Cyclophoroidea) I: The genera Dicharax and 
Metalycaeus. Zootaxa. 4331: 1-124. 
Pagad S., Genovesi P., Carnevali L., Scalera R. & 
Clout M. (2015). IUCN SSC Invasive Species 
Specialist Group: invasive alien species 
information management supporting practitioners, 
policy makers and decision takers. Management of 
Biological Invasions. 6(2): 127-135. 
Panha S., Burch J.B. (2005). An introduction to the 
Microsnails of Thailand. Malacological Review. 
37/38: 149. 
Schileyko A.A. (2011). Check-list of land pulmonate 
molluscs of Vietnam (Gastropoda: 
Stylommatophora). Ruthenica. 21: 1-68. 
Sherley G. (2000). Invasive species in the Pacific: A 
technical review and draft regional strategy. 
SPREP, Apia Samoa. 190p. 
Shine C., Williams N. & Gündling L. (2000). A Guide 
to Designing Legal and Institutional Frameworks 
on Alien Invasive Species. Environmental Policy 
and Law Paper No. 40 IUCN - Environmental Law 
Centre. A Contribution to the Global Invasive 
Species Programme IUCN- The World 
Conservation Union. 

File đính kèm:

  • pdfoc_can_ngoai_lai_mollusca_gastropoda_tai_tay_bac_viet_nam_ru.pdf