Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng
Nghiên cứu về ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) được thực hiện trong thời gian từ năm 2012 đến 2020
tại 6 tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và Hòa Bình). Tổng số có 9
loài (chiếm khoảng 4,5% tổng số loài ở khu vực nghiên cứu), thuộc 8 giống, 5 họ từ kết quả khảo sát thực địa tại 91
điểm thu mẫu. Có 5 loài (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris và Succinea
tenuis) được ghi nhận từ những sinh cảnh bị tác động thường xuyên, 3 loài (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis
infantilis và Gulella bicolor) từ sinh cảnh ít bị tác động và 1 loài (Ganesella perakensis) từ sinh cảnh tự nhiên. Trong
số các loài ốc cạn ngoại lai được ghi nhận, 3 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại thấp (Allopeas clavulinum,
Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), 2 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại trung bình (Gulella bicolor,
Succinea tenuis) và 4 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại cao (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens,
Bradybaena similaris). Những dẫn liệu từ bài báo là hữu ích để nhận diện và quản lý các loài ốc cạn ngoại lai, đồng
thời có thể ngăn chặn sự mở rộng của chúng tới những khu vực khác tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ốc cạn ngoại lai (mollusca: gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: Rủi ro hiện hữu và tiềm tàng
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 942-951 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 942-951 www.vnua.edu.vn 942 ỐC CẠN NGOẠI LAI (MOLLUSCA: GASTROPODA) TẠI TÂY BẮC VIỆT NAM: RỦI RO HIỆN HỮU VÀ TIỀM TÀNG Đỗ Đức Sáng*, Nguyễn Thanh Sơn Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội *Tác giả liên hệ: do.ducsang@hus.edu.vn Ngày nhận bài: 05.01.2021 Ngày chấp nhận đăng: 31.03.2021 TÓM TẮT Nghiên cứu về ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) được thực hiện trong thời gian từ năm 2012 đến 2020 tại 6 tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và Hòa Bình). Tổng số có 9 loài (chiếm khoảng 4,5% tổng số loài ở khu vực nghiên cứu), thuộc 8 giống, 5 họ từ kết quả khảo sát thực địa tại 91 điểm thu mẫu. Có 5 loài (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris và Succinea tenuis) được ghi nhận từ những sinh cảnh bị tác động thường xuyên, 3 loài (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis infantilis và Gulella bicolor) từ sinh cảnh ít bị tác động và 1 loài (Ganesella perakensis) từ sinh cảnh tự nhiên. Trong số các loài ốc cạn ngoại lai được ghi nhận, 3 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại thấp (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), 2 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại trung bình (Gulella bicolor, Succinea tenuis) và 4 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại cao (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris). Những dẫn liệu từ bài báo là hữu ích để nhận diện và quản lý các loài ốc cạn ngoại lai, đồng thời có thể ngăn chặn sự mở rộng của chúng tới những khu vực khác tại Việt Nam. Từ khóa: Ốc cạn, ngoại lai, sinh cảnh, nguồn gốc, Tây Bắc. Introduced Land Snails in the Northwest Vietnam: Existing and Potential Risks ABSTRACT Research on introduced land snails was carried out from 2012 to 2020 in Northwest Vietnam (Lai Chau, Lao Cai, Dien Bien, Son La, Yen Bai, and Hoa Binh Provinces). A total of nine species (nearly 4.5% of the total number of land molluscs species in the research area) representing eight genera and five families were enumerated based on field surveys of 91 sampling sites. Five species (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris, Succinea tenuis) were recorded frequently disturbed in habitats, while three species (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis infantilis, Gulella bicolor) in relatively undisturbed habitats, and a species (Ganesella perakensis) in natural habitats. Of these, three species were considered to cause low risks (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), two medium risks (Gulella bicolor, Succinea tenuis), and four high risks (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris). This paper’s data is urgently required to identify and manage introduced land snail species and if possible to prevent their spread to noninfected areas in Vietnam. Keywords: land snails, invasive, habitats, place of origin, Northwest. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khu hệ động vật ốc cạn (Mollusca: Gastropoda) của vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và Hòa Bình) rất độc đáo và đa dạng. Hơn 200 loài đã được ghi nhận ở vùng nghiên cứu, trong đó có khoảng 95,5% số loài thuộc khu hệ là bản địa của Việt Nam và khoảng 20% là đặc hữu cho vùng Tây Bắc (Schileyko, 2011; Do & Do, 2015; Páll-Gergely & cs., 2017; Do & Do, 2019). Nguồn dẫn liệu này cho phép dễ dàng xác định được những loài còn thiếu thông tin, cũng như thông tin đối chiếu về những rủi ro mà nhóm Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 943 loài ngoại lai gây ra đối với sản xuất nông nghiệp, thương mại, sức khỏe con người và vật nuôi (Sherley, 2000; Brodie & Barker, 2011; Groom & cs., 2015). Nhiều loài ốc cạn được biết đến là loài ngoại lai gây hại cho nông nghiệp (cây lương thực, cây rau, cây cảnh, cây dược liệu, cây ăn quả) và vật chủ trung gian của ký sinh trùng (giun tròn, giun dẹp, động vật đơn bào). Do đó, thông tin đầy đủ về chúng là rất cần thiết, làm cơ sở cho công tác quản lý, ngăn chặn sự lây lan, xâm hại đối với sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng (Bộ Tài nguyên & Môi trường, 2018; Shine & cs., 2015). Nhiều quốc gia trên thế giới đã mất đi một lượng đáng kể đa dạng sinh học, đặc biệt là nhóm loài đặc hữu. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, sự du nhập của các loài ngoại lai gây hại chưa được đánh giá đầy đủ tại Việt Nam. Hai ví dụ điển hình là ốc sên châu Phi (Lissachatina fulica) và ốc sên nhỏ (Allopeas gracile). Ngoại trừ trường hợp của loài thứ nhất, chúng ta hầu như có rất ít thông tin cơ bản về loài thứ hai để xác định nhanh chóng và đánh giá đầy đủ. Nếu không được giải quyết, việc thiếu thông tin về các loài có thể gây ra tác động lớn và lâu dài đến nông nghiệp, kiểm dịch, thương mại, vật nuôi và sức khỏe con người tại Việt Nam nói chung, trong đó có vùng Tây ... không liên tục, chỉ mở rộng một phần trên cạnh trụ. Lỗ rốn không rõ hoặc rất hẹp. Nhận xét: Tại Tây Bắc Việt Nam, loài Allopeas clavulinum được ghi nhận khá phổ biến, có thể gặp quần thể với số lượng cá thể lớn. 3.3. Loài Allopeas gracile (Hutton, 1834) (Hình 1C-D, Bảng 1-2) Synonym: Bulimus gracilis Hutton, 1834; Achatina mandralisci Calcara, 1840; Bulimus junceus Gould, 1846; Bulimus oparanus Pfeiffer, 1846; Bulimus hortensis C.B. Adams, 1851; Stenogyra upolensis Mousson, 1865; Limicolaria bourguignati Paladilhe, 1872; Bulimus (Stenogyra) johanninus Morelet, 1877; Aclis californica Bartsch, 1927; Allopeas gracilis - Inkhavilay & cs. (2019). Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt tới 15mm), vỏ hình tháp dài. Vỏ màu trắng đục đến vàng nhạt. Có 8-9 vòng xoắn phẳng. Miệng vỏ gần hình thoi, góc đỉnh nhọn. Vành miệng mỏng, sắc, không liên tục, chỉ mở rộng trên cạnh trụ. Lỗ rốn rất hẹp. Nhận xét: Kích thước vỏ, số vòng xoắn biến đổi rõ giữa các quần thể. Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi nhận ở khu dân cư, chủ yếu từ các chậu cây cảnh, đất trồng cây rau mầm, các loại rau ngắn ngày. 3.4. Loài Sarika resplendens (Philippi, 1846) (Hình 1E-F, Bảng 1-2) Synonym: Helix resplendens Philippi, 1846; Macrochlamys resplendens - Collinge, 1903; Sarika resplendens - Schileyko, 2011. Đặc điểm định loại: Ốc cỡ lớn (đạt tới 25mm), vỏ hình nón. Có 6-6 1 2 vòng xoắn, vòng cuối được làm tròn ở ngoại vi. Vỏ màu trắng đục đến vàng nhạt. Bề mặt vỏ trơn, nhẵn, bóng. Miệng vỏ hình liềm, chéo. Vành miệng mỏng, không mở rộng và không liên tục. Lỗ rốn hẹp, sâu. Nhận xét: Hình thái vỏ sai khác rõ giữa các quần thể, chủ yếu về kích thước và mức độ nhô cao của tháp ốc. Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi nhận chủ yếu ở các khu dân cư, gồm đất trồng rau, bãi đất hoang, vườn cây ăn quả. 3.5. Loài Bradybaena similaris (Férussac, 1821) (Hình 2A-B, Bảng 1-2) Synonym: Helix similaris Fèrussac, 1821; Eulota similaris - Gude, 1914; Bradybaena similaris - Schileyko, 2011. Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt tới 20mm), vỏ hình cầu. Bề mặt vỏ xuất hiện các gờ xuyên tâm. Màu vàng nâu, xuất hiện dải màu nâu sẫm ở ngoại vi vòng xoắn cuối. Có 5 1 2 vòng xoắn, vòng cuối được làm tròn ở ngoại vi. Lỗ rốn rộng, sâu. Nhận xét: Loài này có hình dạng và màu sắc vỏ khá giống với Bradybaena jourdyi, tuy nhiên sai khác ở kích thước nhỏ hơn, màu sắc đồng nhất, xuất hiện dải màu nâu sẫm ở ngoại vi vòng xoắn cuối. Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi nhận chủ yếu ở các khu dân cư, chúng bám trên bờ rào, bãi đất hoang, vườn cây ăn quả. 3.6. Loài Ganesella perakensis (Crosse, 1879) (Hình 2C-D, Bảng 1-2) Synonym: Helix (Geotrochus) perakensis Crosse, 1879; Helix (Trochomorphoides) acris var. perakensis Bavay et Dautzenberg, 1909; Ganesella acris perakensis - Schileyko, 2011; Ganesella thachi Thach N.N., 2018. Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt tới 12mm), vỏ hình tháp. Vỏ có màu nền trắng đục, xuất hiện các dải màu vàng nâu xoắn quanh vỏ. Có 6 vòng xoắn, vòng cuối mở rộng, gấp nếp tạo gờ sắc ở ngoại vi. Lỗ rốn hẹp, sâu, khoảng 1/3 diện tích bị che khuất bởi vành miệng. Nhận xét: Bavay & Dautzenberg (1909) phân biệt 3 dạng hình thái ở loài này, gồm var. ex. forma perakensis, từ Pac-Kha, Muong-Hum (phù hợp với Bắc Hà và Mường Hum, Lào Cao), var. ex colore saturata từ Muong-Bo (Mường Bo, Sa Pa, Lào Cai), var. ex. colore albina từ Pac- Kha (Bắc Hà, Lào Cai). Tại vùng Tây Bắc, loài Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 947 này chỉ được ghi nhận ở các khu vực có rừng trên núi đá vôi thuộc tỉnh Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. 3.7. Loài Chalepotaxis infantilis (Gredler, 1881) (Hình 1G-H, Bảng 1-2) Synonym: Helix similaris var. infantilis Gredler, 1881; Xesta unilineata Dautzenberg, 1893; Bradybaena similaris infantilis - Richardson, 1983; Chalepotaxis infantilis - Páll- Gergely & cs. (2016). Đặc điểm định loại: Ốc cỡ nhỏ (đạt tới 9mm), vỏ hình nón. Có 6 vòng xoắn, vòng cuối được làm tròn ở ngoại vi. Vỏ màu trắng đục, xuất hiện dải màu nâu sẫm ở vùng ngoại vi vòng xoắn cuối. Bề mặt vỏ trơn, nhẵn, bóng. Lỗ rốn mở rộng, sâu. Nhận xét: Cho đến nay, trên thế giới chỉ mới phát hiện hai loài Chalepotaxis gồm C. infantilis và C. spadix (Páll-Gergely & cs., 2016). Tại Tây Bắc Việt Nam, loài C. infantilis khá phổ biến ở sinh cảnh rừng trên núi đá vôi, với kích thước và cấu trúc hình thái vỏ thể hiện sai khác giữa các quần thể, nhưng ổn định với dải màu nâu sẫm trên vòng xoắn cuối. 3.8. Loài Gulella bicolor (Hutton, 1834) (Hình 2G, Bảng 1-2) Synonym: Pupa bicolor Hutton, 1834; Ennea (Huttonella) bicolor - Pfeiffer, 1854; Ennea bicolor barkudensis - Annandale & Prashad, 1920; Gulella bicolor - Berry, 1963. Đặc điểm định loại: Ốc cỡ nhỏ (đạt tới 7,5mm), vỏ hình trụ dài. Có 7 vòng xoắn, tăng trưởng chậm. Miệng vỏ hình tứ giác lệch, xuất hiện 4 răng, gồm: 1 răng đỉnh, 1 răng cận đỉnh, 1 răng gốc và 1 răng trụ. Nhận xét: Hiện nay, loài này đã mở rộng phạm vi phân bố ra nhiều nơi trên thế giới, chúng được đánh giá như véctơ truyền ký sinh trùng và gây hại cho các loài động vật bản địa, đặc biệt những loài thuộc giống Prosopeas, Tortaxis, Subulina và Glessula (Achatinidae). Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi nhận sinh cảnh rừng trên núi đá vôi. 3.9. Loài Succinea tenuis (Morelet, 1865) (Hình 2E-F, Bảng 1-2) Synonym: Succinea tenuis Morelet, 1865; Succinea tenella Morelet, 1875; Succinea cochinchinensis Crosse & Fischer, 1863. Đặc điểm định loại: Ốc cỡ trung bình (đạt tới 11mm), vỏ hình oval, mỏng. Vỏ màu vàng nhạt, xuất hiện các đường gờ hình zíc-zăc. Có 3 vòng xoắn, vòng cuối mở rộng và chiếm gần như toàn bộ chiều cao vỏ. Miệng vỏ hình ôvan, rất rộng. Không có lỗ rốn. Nhận xét: Loài này được phát hiện thường sống bám và gây hại một số loại rau như rau muống, cải xoong, cải canh, diếp cá,... Tại vùng Tây Bắc, loài này được ghi nhận chủ yếu ở các khu dân cư, gồm nơi trồng rau, bãi đất hoang, ven bờ các thủy vực, chúng hoạt động tích cực khi môi trường có độ ẩm cao. 4. THẢO LUẬN Mặc dù đã có một số công bố về thành phần loài ốc cạn ở Tây Bắc Việt Nam trong 130 năm qua (bắt đầu bằng công trình của Morlet, 1891), nhưng đây là dẫn liệu đầu tiên tập trung vào các loài không phải bản địa ở khu vực này (Bavay & Dautzenberg, 1912; Do & Do, 2014; Do & cs., 2015). 9 loài được ghi nhận ở đây bao gồm một số loài phân bố rộng ở nhiều vùng nhiệt đới trên thế giới (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Bradybaena similaris, Sarika resplendens, Gulella bicolor), chúng được đánh giá sẽ chiếm ưu thế, thậm chí có thể thay thế các loài đặc hữu nếu không có giải pháp khống chế và kiểm soát phù hợp. Kết quả phân tích mẫu vật từ 91 điểm khảo sát tại Tây Bắc cho thấy, ba loài Lissachatina fulica, Sarika resplendens và Allopeas gracile có khả năng sẽ trở thành nhóm loài ưu thế nếu không có giải pháp hợp lý. Để tăng khả năng thích nghi với môi trường cạn và điều kiện bất lợi, các loài ốc cạn ngoại lai đã hình thành một số tập tính hoạt động, sinh sản, cùng với cấu trúc lớp vỏ giúp chúng có thể tồn tại và phát triển, thậm chí vượt trội so với các loài bản địa. Hoạt động tích cực vào ban đêm, tập tính trú đông, trú hè với nắp miệng Ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: rủi ro hiện hữu và tiềm tàng 948 giả, lớp vỏ dày cùng màu sắc dễ hòa lẫn với môi trường, sinh sản không qua ghép đôi (tự thụ tinh ở Bradybaena similaris) (Carvalho & cs., 2017) là những đặc điểm thích nghi nổi bật. Hình 1. A-B: Loài Lissachatina fulica, C-D: Allopeas gracile, E-F: Sarika resplendens, G-H: Chalepotaxis infantilis Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 949 Hình 2. A-B: Loài Bradybaena similaris, C-D: Ganesella perakensis, E-F: Succinea tenuis, G: Gulella bicolor, H: Allopeas clavulinum Ốc cạn ngoại lai (Mollusca: Gastropoda) tại Tây Bắc Việt Nam: rủi ro hiện hữu và tiềm tàng 950 Ít nhất 5 loài ốc cạn ngoại lai (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris, Gulella bicolor) được ghi nhận ở Tây Bắc đóng vai trò là vật chủ trung gian truyền bệnh (giun tròn, giun dẹp, động vật đơn bào), tiêu biểu như loài giun phổi Angiostrongylus cantonensis ký sinh ở chuột, nhưng vật chủ trung gian là một số loài ốc cạn và sên trần (Carvalho & cs, 2017). Những rủi ro có thể xảy ra do ốc cạn ngoại lai gây ra tại Việt Nam nói chung, vùng Tây Bắc nói riêng cho thấy sự cần thiết của các biện pháp an toàn sinh học để bảo tồn khu hệ ốc cạn bản địa và đa dạng sinh học nói chung. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định “việc ngăn chặn sự xâm nhập hơn là kiểm soát sau này”, là phương châm quan trọng nhất để ngăn chặn sự xâm nhập của các loài ngoại lai (Alicata, 1965; Sherley, 2000; Brodie & Barker, 2011; Groom & cs., 2015; Carvalho & cs., 2017). Mặc dù về phương diện kỹ thuật, việc diệt trừ các loài ngoại lai gây hại có thể rất khó thực hiện, nhưng việc ngăn chặn sự xâm nhập, hoặc ngăn chặn sự lây lan của chúng có nhiều khả năng thành công khi tiến hành các chiến lược nhằm nâng cao nhận thức tại mỗi địa phương. Đối với loài có nguy cơ gây hại cao như Lissachatina fulica và Allopeas gracile, các chiến lược kiểm soát nên bao gồm việc cung cấp và phổ biến các biện pháp phòng ngừa sức khỏe cho cả cộng đồng địa phương. Một số biện pháp cần phải sớm được triển khai nhằm hạn chế tác động của ốc cạn ngoại lai tại Tây Bắc, gồm đánh giá đầy đủ (sinh học, sinh thái, sinh sản và phát triển) để có thông tin toàn diện đối với mỗi loài; bổ sung các loài ốc cạn ngoại lai gây hại (Lissachatina fulica, Sarika resplendens, Allopeas gracile) vào danh sách loài sinh vật ngoại lai xâm hại; nâng cao nhận thức trong cộng đồng về tác hại của các loài ngoại lai gây hại; thúc đẩy việc giám sát các quần thể, đặc biệt về số lượng cá thể và nơi chúng phân bố. 5. KẾT LUẬN Đã xác định được 9 loài ốc cạn ngoại lai tại vùng Tây Bắc Việt Nam, thuộc 5 họ, bộ Stylommatophora, lớp Thân mềm Chân bụng, ngành Thân mềm, với các thông tin đầy đủ về tên khoa học, đặc điểm định loại, phạm vi phân bố và mức độ gây hại. Số loài ốc cạn ngoại lai chiếm khoảng 4,5% trong tổng số 200 loài ghi nhận cho toàn vùng. 5 loài (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris và Succinea tenuis) đã được ghi nhận phân bố ở nhóm sinh cảnh bị tác động thường xuyên, 3 loài (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis infantilis và Gulella bicolor) ở nhóm sinh cảnh bị tác động không thường xuyên và 1 loài (Ganesella perakensis) ở sinh cảnh tự nhiên. Đã xác định có 3 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại thấp (Allopeas clavulinum, Chalepotaxis infantilis, Ganesella perakensis), 2 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại trung bình (Gulella bicolor, Succinea tenuis) và 4 loài thuộc nhóm nguy cơ gây hại cao (Lissachatina fulica, Allopeas gracile, Sarika resplendens, Bradybaena similaris). LỜI CẢM ƠN Chúng tôi chân thành cảm ơn Anna Sulikowska-Drozd (Trường Đại học Lodz, Ba Lan) và các sinh viên ngành Sư phạm Sinh học, khóa 47 đến 55 (giai đoạn 2012-2018), Trường Đại học Tây Bắc đã hỗ trợ công tác thực địa. TÀI LIỆU THAM KHẢO Alicata J.E. (1965). Biology and distribution of the rat lungworm, Angiostrongylus cantonensis, and its relationship to eosinophilic meningoencephalitis and other neurological disorders of man and animals. Advances in Parasitology. 3: 223-248. Bavay A. & Dautzenberg P. (1909). Description de coquilles nouvelles de ľIndo-Chine (5e suite). Journal de Conchyliologie. 57: 81-105, 163-206, 279-288, 229-251. Bavay A. & Dautzenberg P. (1912). Description de coquilles nouvelles de ľIndo-Chine. Journal de Conchyliologie. 60: 1-54. Bộ Tài nguyên & Môi trường (2018). Thông tư 35/2018/TT-BTNMT (2018) – Quy định tiêu chí xác định và ban hành danh mục loài ngoại lai xâm hại, ngày 28/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường. Đỗ Đức Sáng, Nguyễn Thanh Sơn 951 Brodie G. & Barker G.M. (2011). Introduced land snails Fiji, the risks. Island invasives: eradication and management. pp. 32-36. Carvalho C.M., Cristina E., Bessa E.C.A. & D’Ávila S. (2017). Life history strategy of Bradybaena similaris (Fèrussac, 1821) (Mollusca, Pulmonata, Bradybaenidae). Molluscan Research. 28(3): 171-174. Do D.S. & Do V.N. (2014). The landsnail family Subulinidae (Gastropoda: Pulmonata) from Son La, Vietnam, with description of two new species. Tạp chí Sinh học. 36(4): 451-459. Do D.S., Nguyen T.H.T. & Do V.N. (2015). A checklist and classification of terrestrial prosobranch snails from Son La, north-western Vietnam. Ruthenica. 25: 117-132. Do D.S. & Do V.N. (2019). Family Cyclophoridae in Vietnam (Gastropoda: Cyclophoroidea): the genus Cyclophorus Montfort, 1810. Ruthenica. 29: 1-53. Đỗ Đức Sáng & Đỗ Văn Nhượng (2014). Dẫn liệu về ốc cạn (Mollusca: Gastropoda) dọc sông Đà, đoạn từ Sơn La đến Hòa Bình. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học Trái đất và Môi trường. 30(3): 27-36. Groom Q.J., Desmet P., Vanderhoeven S. & Adriaens T. (2015). The importance of open data for invasive alien species research, policy and management. Management of Biological Invasions. 6(2): 119-125. Morlet L. (1891). Contributions a la malacologique de ľIndo-Chine. Journal de Conchyliologie. 39: 230-254. Páll-Gergely B., Fehér Z., Otani J.U. & Asami T. (2016). An integrative taxonomic approach to infer the systematic position of Chalepotaxis Ancey, 1887 (Gastropoda: Stylommatophora: Helicarionidae). Molluscan Research. 37: 113-119. Páll-Gergely B., Hunyadi A., Do S.D., Naggs F. & Asami T. (2017). Revision of the Alycaeidae of China, Laos and Vietnam (Gastropoda: Cyclophoroidea) I: The genera Dicharax and Metalycaeus. Zootaxa. 4331: 1-124. Pagad S., Genovesi P., Carnevali L., Scalera R. & Clout M. (2015). IUCN SSC Invasive Species Specialist Group: invasive alien species information management supporting practitioners, policy makers and decision takers. Management of Biological Invasions. 6(2): 127-135. Panha S., Burch J.B. (2005). An introduction to the Microsnails of Thailand. Malacological Review. 37/38: 149. Schileyko A.A. (2011). Check-list of land pulmonate molluscs of Vietnam (Gastropoda: Stylommatophora). Ruthenica. 21: 1-68. Sherley G. (2000). Invasive species in the Pacific: A technical review and draft regional strategy. SPREP, Apia Samoa. 190p. Shine C., Williams N. & Gündling L. (2000). A Guide to Designing Legal and Institutional Frameworks on Alien Invasive Species. Environmental Policy and Law Paper No. 40 IUCN - Environmental Law Centre. A Contribution to the Global Invasive Species Programme IUCN- The World Conservation Union.
File đính kèm:
- oc_can_ngoai_lai_mollusca_gastropoda_tai_tay_bac_viet_nam_ru.pdf