Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên

ắm bắt được các các qui định về điện trở nối đất dựa vào các trị sốnối đất

tiêu chuẩn theo từng cấp điện áp.

Điện trở nối đất an toàn của hệ thống không được lớn hơn các trị số nối đất

tiêu chuẩn đã được quy định trong các quy phạm cụ thể:

1. Đối với các thiết bị có U > 1000V có dòng chạm đất lớn (I > 500A) như

các thiết bị điện ở mạng điện có điện áp từ 110kV trở lên thì điện trở nối đất tiêu

chuẩn: Rđ ≤ 0,5.

Với các mạng có dòng chạm đất lớn này, khi có sự chạm đất (chạm vỏ) thì

điện áp trên vỏ thiết bị so với đất (đã thoả mãn điều kiện Rđ ≤ 0,5) vẫn có thể

đạt trị số lớn (hàng trăm thậm chí hàng ngàn vôn) nhưng khi có cân bằng thì điện

áp tiếp xúc không vượt quá 250-300V. Rõ ràng điện áp này vẫn nguy hiểm cho

người nhưng với cấp điện áp này thì khi có sự chạm đất, chạm vỏ thì rơle bảo vệ

sẽ tác động cắt nhanh phần sự cố. Mặt khác, với cấp điện áp này không cho phép

con người tiếp xúc trực tiếp (khi không có thiết bị bảo vệ) với thiết bị khi chưa

cắt điện nên xác suất người bị điện giật rất bé.

Trong mạng điện có dòng chạm đất lớn, bắt buộc phải có nối đất nhân tạo

trong mọi trường hợp không phụ thuộc vào điện trở nối đất tự nhiên. Ngay cả khi

điện trở nối đất tự nhiên thoả mãn yêu cầu (Rđ ≤ 0,5) vẫn phải thực hiện nối đất

nhân tạo trị số điện trở nhân tạo không được lớn hơn 1 (Rnt ≤ 1 ).

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 1

Trang 1

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 2

Trang 2

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 3

Trang 3

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 4

Trang 4

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 5

Trang 5

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 6

Trang 6

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 7

Trang 7

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 8

Trang 8

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 9

Trang 9

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 55 trang baonam 17342
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên

Giáo trình An toàn lao động (Phần 2) - Lê Thị Như Quyên
Bài 4. Qui định về nối tiếp đất thiết bị hạ áp 
4.1. Qui định điện trở nối đất 
Mục tiêu 
Nắm bắt được các các qui định về điện trở nối đất dựa vào các trị sốnối đất 
tiêu chuẩn theo từng cấp điện áp. 
Điện trở nối đất an toàn của hệ thống không được lớn hơn các trị số nối đất 
tiêu chuẩn đã được quy định trong các quy phạm cụ thể: 
1. Đối với các thiết bị có U > 1000V có dòng chạm đất lớn (I > 500A) như 
các thiết bị điện ở mạng điện có điện áp từ 110kV trở lên thì điện trở nối đất tiêu 
chuẩn: Rđ ≤ 0,5. 
Với các mạng có dòng chạm đất lớn này, khi có sự chạm đất (chạm vỏ) thì 
điện áp trên vỏ thiết bị so với đất (đã thoả mãn điều kiện Rđ ≤ 0,5) vẫn có thể 
đạt trị số lớn (hàng trăm thậm chí hàng ngàn vôn) nhưng khi có cân bằng thì điện 
áp tiếp xúc không vượt quá 250-300V. Rõ ràng điện áp này vẫn nguy hiểm cho 
người nhưng với cấp điện áp này thì khi có sự chạm đất, chạm vỏ thì rơle bảo vệ 
sẽ tác động cắt nhanh phần sự cố. Mặt khác, với cấp điện áp này không cho phép 
con người tiếp xúc trực tiếp (khi không có thiết bị bảo vệ) với thiết bị khi chưa 
cắt điện nên xác suất người bị điện giật rất bé. 
Trong mạng điện có dòng chạm đất lớn, bắt buộc phải có nối đất nhân tạo 
trong mọi trường hợp không phụ thuộc vào điện trở nối đất tự nhiên. Ngay cả khi 
điện trở nối đất tự nhiên thoả mãn yêu cầu (Rđ ≤ 0,5) vẫn phải thực hiện nối đất 
nhân tạo trị số điện trở nhân tạo không được lớn hơn 1 (Rnt ≤ 1 ). 
2. Đối với các thiết bị điện có U > 1000V có dòng chạm đất bé (I < 500 A) 
như các thiết bị ở mạng điện 3-35kV thì quy định điện trở nối đất tiêu chuẩn tại 
thời điểm bất kỳ trong năm như sau: 
* Khi hệ thống nối đất chỉ dùng cho các thiết bị có U > 1000V: 
đ
đ
I
250
R (nhưng phải thoả mãn: Rđ ≤ 10) (4.1) 
* Khi hệ thống nối đất dùng cho cả thiết bị có U < 1000V: 
đ
đ
I
125
R (Rđ ≤ 10) (4.2) 
Trong mạng có dòng chạm đất bé (mạng có trung tính cách ly) khi có 1 pha 
chạm đất, các thiết bị rơle bảo vệ thường không cắt phần sự cố. Vì vậy chạm đất 
1 pha có thể bị kéo dài làm tăng xác suất người tiếp xúc với điện áp nguy hiểm. 
Do dó người ta mới qui định điện áp lớn nhất cho phép trên hệ thống nối đất là 
250V (khi U > 1000V) và 125V (khi U < 1000V) với dòng chạm đất là Iđ. 
3. Đối với các thiết bị điện trong các mạng có U < 1000V có trung tính cách 
ly thì điện trở nối đất tại mọi thời điểm trong năm không quá 4. 
Riêng với các thiết bị nhỏ mà công suất tổng của máy phát điện hoặc máy 
biến áp có công suất không quá 100kVA thì cho phép: Rđ ≤ 10. 
Đối với các thiết bị có U > 1000V có dòng chạm đất bé và các thiết bị có U 
< 1000V có trung tính cách ly nên sử dụng nối đất tự nhiên có sẵn. Nếu trị số của 
điện trở nối đất tự nhiên nhỏ hơn trị số của điện trở nối đất tiêu chuẩn mà qui 
phạm đã qui định thì cho phép không cần phải thực hiên nối đất nhân tạo. 
Chú ý trong các trường hợp có nhiều thiết bị điện có điện áp khác nhau nên 
thực hiện nối đất chung. Trị số điện trở nối đất chung cần phải thỏa mãn yêu cầu 
của hệ thống nối đất nào đòi hỏi điện trở nối đất có giá trị nhỏ nhất. 
4. Đối với đường dây tải điện trên không: 
Với các đường dây tải điện trên không ta phân biệt các trường hợp sau: 
* Khi điện áp của mạng điện U ≥ 110kV. Trong trường hợp này thì nối đất 
ở các cột điện chỉ để chống sét và qui phạm không yêu cầu nối đất bảo vệ các cột 
điện ở các mạng có dòng chạm đất lớn này vì: 
- Trong các mạng điện này khi có sự chạm đất thì rơle bảo vệ tác động cắt 
nhanh sự cố với thời gian từ 0,12-0,8s nên xác suất người bị điện giật do điện áp 
tiếp xúc là rất bé. 
- Dòng điện chạm đất trong mạng này rất lớn nên điện áp xuất hiện trên hệ 
thống cột nối đất cũng rất lớn, do vậy việc thực hiện nối đất cho các cột điện rất 
phức tạp và tốn kém. 
Thí dụ: Với dòng điện chạm đất từ 1,5-2kA và giả sử điện trở nối đất an toàn 
của cột là 10 thì điện áp trên hệ thống nối đất của cột sẽ có trị số là: 
U = IđRđ = 15-20kV (4.3) 
* Với các mạng điện có dòng chạm đất bé (mạng 3-35kV có trung tính cách 
ly). 
Trong mạng này vì dòng chạm đất có trị số bé (thường từ 10-30A) nên điện 
áp trên hệ thống nối đất cột sẽ có trị số bé do đó có thể bảo đảm an toàn cho người 
bằng cách nối đất các cột điện (chẳng hạn, nếu điện trở nối đất của cột điện là 10 
thì điện áp xuất hiện trên hệ thống nối đất là khoảng 100-300V). 
Như vậy nối đất cột điện ở mạng có dòng chạm đất bé có thể vừa chống sét, 
vừa bảo vệ an toàn và qui định như sau: 
Phải thực hiện nối đất các cột của đường dây 35kV. Với các đường dây từ 3-
22kV cho phép chỉ nối đất các cột trong vùng có dân cư và nối đất các cột các 
thiết bị chống sét hay thiết bị thao tác đo lường. Điện trở nối đất của các cột điện 
qui định ở bảng 4.1. 
* Trong các mạng điện U < 1000V có trung tính cách ly, các cột thép và bê 
tông cốt thép phải có điện trở nối đất không quá 50. 
Bảng 4.1. Điện trở nối đất của cột đường dây cao áp. 
Điện trở suất của đất (cm) Trị số cực đ ... ỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơ thể, gây đau nhiều hơn, dễ bị sốc 
và nhiễm khuẩn. Ðối với người lớn nếu bỏng từ 15% trở lên và trẻ em từ 10% trở 
lên phải được coi là bỏng nặng và phải được chuyển tới bệnh viện. 
Có nhiều phương pháp tính diện tích vết bỏng tiện lợi, dễ nhớ như sau: một 
là, phương pháp số 9 của Wallace - Glumov, tổng diện tích da của cơ thể là 100%, 
vùng đầu mặt cổ là 9%; một chi trên là 9%; một chi dưới là 18 % (9% x 2); thân 
trước là 18%; thân sau: 18%; bộ phận sinh dục ngoài: 1%; hai là, phương pháp 
bàn tay của Blokhin: diện tích một gan bàn tay của bệnh nhân bằng 1-1,25% diện 
tích cơ thể. Như vậy chỉ việc ướm gan bàn tay của bệnh nhân lên vùng bỏng là 
đánh giá được diện tích bỏng, ví dụ vùng bỏng ướm bằng 3 lần gan bàn tay bệnh 
nhân thì diện tích bỏng khoảng 3-3,75%. 
c) Vị trí vết bỏng trên cơ thể: 
Bỏng ở những vùng khác nhau cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tính mạng và 
quá trình hồi phục, chẳng hạn như: 
- Bỏng ở vùng mặt, cổ có thể gây phù nề chèn ép đường thở dễ bị sẹo xấu và 
sự biến dạng 
- Bỏng ở mắt có thể dẫn đến mù. 
- Bỏng ở bàn tay hoặc vùng các khớp có thể dẫn đến co cứng, mất hoặc giảm 
chức năng hoạt động... 
- Bỏng vùng lưng, vùng hậu môn sinh dục và những vùng gần hậu môn sinh 
dục thường có nguy cơ nhiễm khuẩn cao, kéo dài thời gian lành vết bỏng. 
- Nếu nạn nhân hít phải khói, hơi nóng thì có thể gây bỏng đường hô hấp làm 
phù nề đường hô hấp, gây tắc nghẽn dẫn đến suy hô hấp và rất dễ dẫn đến viêm 
phổi... 
6.3.2. Cắt đứt nguyên nhân gây bỏng 
Đây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bị bỏng sâu và rộng thêm. 
- Dập tắt lửa trên da (bằng nước hoặc cát, áo khoác, chăn, vảikhông dùng 
vải nhựa, nilon đẻ dập lửa), tháo bỏ quần áo chỗ cháy hay thấm nước nóng (bỏng 
nước sôi, dầu, bỏng do ngã vào hố vôi nóng) hay các dung dịch hóa chất, cắt 
nguồn điện nếu là bỏng do điện, bỏng do acid thì rửa bằng nước vôi loãng hoặc 
nước xà phòng, bỏng do kiềm thì đắp dấm ăn dung dịch 0,5 đến 5% hay nước 
chanh quả, bọc vùng bỏng chắc chắn rồi đổ nước lạnh lên như trình bày trong hình 
6.1, có thể cho vòi nước máy chảy trực tiếp lên vùng bỏng từ 20-30 phút, hoặc 
ngâm phần chi bị bỏng trong nước lạnh 3-4 phút 1 lần cho đến khi nạn nhân 
cảm thấy đỡ đau rát. 
- Tháo bỏ các vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng, nhẫn trước khi 
vết bỏng sưng nề. 
- Băng vô khuẩn vết bỏng sau khi đã rửa sạch vết bỏng bằng nước muối đẳng 
trương. 
Lưu ý: 
+ Không dùng nước đá để làm mát các vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể 
vào trong nước. 
+ Tháo bỏ quần áo bị cháy đã được làm mát, không lột quần áo mà dùng kéo 
cắt. 
6.3.3. Phòng chống sốc 
Hình 6.1. Sơ cứu vết bỏng: làm nguội vết bỏng bằng nước 
lạnh. 
- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm, nghỉ ngơi yên tĩnh. 
- Động viên, an ủi nạn nhân. 
- Khi nạn nhân tỉnh táo, không nôn, chướng bụng và không có những chấn 
thương khác, cho nạn nhân uống dịch A (Natribicarbonat 4g+đường 100g+nước 
vừa đủ 1 lít trong 24 giờ uống 1-2 lít), nước chè đường nóng hoặc ORS, ủ ấm 
(nếu trời rét). 
- Các thuốc giảm đau, an thần: Phong bế novocain dung dịch 0,25%, dùng 
hỗn hợp giảm đau gồm: 
+ Promedol dung dịch 2% từ 1ml đến 2ml. 
+ Dimedrol dung dịch 2% từ 1ml đến 2ml. 
+ Pipolphen dung dịch 2,5% từ 1ml đến 2ml. 
3 thứ trộn lẫn tiêm bắp. Sau khi tiêm 10-12 phút, đa số người bệnh ngủ thiếp, 
đau đớn giảm, còn có tác dụng chóng phù, nôn và kháng Histamin (chống sốc). 
Dịch truyền (Ringerlactat, NaCl 0,9%). Nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương 
khác bên trong thì không dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh. 
- Theo dõi dấu hiệu sinh tồn, đảm bảo nhịp thở trên 12lần/phút. 
- Vận chuyển nạn nhân nhẹ nhàng đến cơ sở điều trị càng sớm càng tốt. 
6.3.4. Duy trì đường hô hấp 
Nạn nhân bị bỏng vùng đầu mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy có 
dầu, đồ đạc, bàn ghế, phim nhựa, polyme đang bốc cháy thì nạn nhân sẽ hít 
phải các khí khói độc, đặc biệt là khí oxytcacbon gây hội chứng: tổn thương do 
hít thở - inhalation injury, gây co thắt thanh môn, phế quản, phù phổi, rối loạn 
nhịp tim, khó thở, nhức đầu, chóng mặt, đau ngực, co giật Những trường hợp 
này phải ưu tiên cấp cứu số 1 và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Phải theo 
dõi sát nạn nhân và đảm bảo sự thông thoáng đường hô hấp: 
+ Đưa bệnh nhân ra nơi thoáng khí 
+ Thở oxy nếu cần. 
+ Giữ bệnh nhân ở tư thế đứng. 
+ Đặt nội khí quản. 
+ Mở khí quản nếu nguy cấp. 
6.3.5. Phòng chống nhiễm khuẩn 
Nhiễm khuẩn cũng là một vấn đề rất quan trọng đối với nạn nhân bỏng, là 
một trong những yếu tố quyết định thành công trong việc điều trị và chăm sóc 
bệnh nhân bỏng. Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải 
rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: 
+ Không sử dụng nước không sạch để dội, đắp vào vết bỏng trong khi sơ cứu 
nạn nhân. 
+ Không sờ mó vào vết bỏng. 
+ Không chọc vỡ các nốt phỏng. 
+ Người cán bộ y tế nên rửa sạch tay trước khi sơ cứu vết thương nạn nhân. 
+ Nên có các tấm ga hoặc săng vô trùng để quấn, bọc bệnh nhân. 
+ Sử dụng thuốc kháng sinh (augmentin, cephalosporin, aminoglycosid). 
6.3.6. Băng bó vết bỏng 
+ Không được bôi dầu, mỡ, dung dịch cồn, kem kháng sinh vào vết bỏng. 
+ Không được bóc da hoặc cố bóc mảnh quần áo dính vào vết bỏng. 
+ Bỏng độ I không cần băng để hở, độ II có nốt phỏng, độ III có hoại tử ướt 
cần băng để che chở, chống nhiễm khuẩn, có hoại tử khô không cần băng. 
+ Vết bỏng sẽ chảy nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết 
bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng. 
+ Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào 1 túi nhựa rồi băng lỏng cổ 
tay, làm như vậy nạn nhân có thể vẫn cử động được các ngón tay và tránh làm bẩn 
vết bỏng. 
+ Nếu bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn 
hoặc vải sạch sau đó cho vào túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng 
trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng để chống sưng nề các 
ngón, hướng dẫn nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được 
để tránh co da, dính khớp. 
6.4. Thực hành sơ cứu người bị bỏng 
- Chuẩn bị dụng cụ sơ cứu gồm: 
+ Gạc vô trùng. 
+ Băng cá nhân đủ kích cỡ. 
+ Băng dính vải dùng để cố định gạc. 
+ Khăn lau khử trùng và thuốc mỡ kháng sinh. 
+ Kéo, nhíp... 
Bài 7. Cấp cứu người bị điện giật 
Trong khi làm việc hoặc trong cuộc sống, nếu thấy có người bị điện giật, bất 
cứ người nào cũng phải có nhiệm vụ cứu chữa nạn nhân. Yêu cầu đặt ra là kịp 
thời, nhanh chóng, đúng phương pháp. 
Theo thống kê, nếu bị tai nạn điện giật mà được cấp cứu kịp thời và đúng 
phương pháp thì tỷ lệ nạn nhân được cứu sống rất cao. 
Nếu nạn nhân được cấp cứu ngay trong phút đầu tiên thì khả năng cứu sống 
là đến 98 %. Còn đến phút thứ 5 thì cơ hội cứu sống chỉ còn 25% như trong bảng 
7.1. 
Bảng 7.1. So sánh cơ hội cứu sống nạn nhân bị điện giật theo thời gian. 
Thời gian (phút) 1 2 3 4 5 
Tỷ lệ % nạn nhân 
được cứu sống 
98 90 70 50 25 
Có hai bước để cứu người bị tai nạn điện là: 
- Tách nạn nhân ra khỏi mạch điện. 
- Cấp cứu nạn nhân tại chỗ. 
7.1. Phương pháp tách nạn nhân ra khỏi mạng điện 
Mục tiêu 
Nắm bắt được các phương pháp tách nạn nhân ra khỏi mạng điện trong 
trường hợp cắt/không cắt được điện, từ đó có biện pháp thích hợp để cách li nạn 
nhân ra khỏi mạng điện. 
7.1.1. Trường hợp cắt được điện 
Phương pháp tốt nhất là tức khắc cắt điện bằng những thiết bị đóng cắt gần 
nhất như: Cầu dao, áp tô mát, công tắc điện, cầu chì, hoặc rút phích cắm... Nhưng 
khi cắt điện cần phải chú ý: 
- Nếu mạch điện bị cắt sẽ mất ánh sáng thì phải chuẩn bị ngay nguồn ánh 
sáng khác để thay thế 
- Nếu người bị nạn ở trên cao thì phải có phương tiện hứng đỡ. 
7.1.2. Trường hợp không cắt được mạch điện 
a) Nếu ở mạch điện hạ áp: 
Người đi cấp cứu phải có biện pháp an toàn cá nhân tốt như : Đứng trên bàn, 
ghế gỗ khô, đi dép hoặc ủng cao su, đeo găng cao su để dùng tay kéo nạn nhân 
tách ra khỏi mạch điện. Nếu không có các phương tiện trên có thể dùng tay nắm 
áo, quần khô của nạn nhân để kéo ra, hoặc dùng gậy gỗ, tre khô gạt dây điện hoặc 
đẩy nạn nhân để tách ra khỏi mạch điện như minh hoạ trong hình 7.1. Cũng có thể 
dùng kìm cách điện, búa, rìu có cán bằng gỗ để cắt đứt dây điện đang gây tai nạn. 
Tuyệt đối không được chạm trực tiếp vào nạn nhân khi không đủ biện pháp an 
toàn. 
b) Nếu ở mạch điện cao áp: 
Tốt nhất là người đi cứu phải được trang bị các dụng cụ cách điện như: ủng 
và găng tay cách điện, sào cách điện cao áp. Dùng sào cách điện để gạt hoặc đẩy 
nạn nhân ra khỏi mạch điện và lưu ý đến các biện pháp an toàn hứng đỡ nạn nhân. 
Trong các trường hợp không đủ khả năng xử lý đối với lưới điện cao áp thì 
tốt nhất phải điện thoại để đơn vị quản lý vận hnh thiết bị hoặc báo điều độ cho 
cắt điện ngay. 
7.2. Phương pháp cấp cứu người bị điện giật 
Mục tiêu 
Nắm bắt được các phương pháp cấp cứu người bị điện giật tuỳ thuộc vào 
từng thể trạng của nạn nhân. 
Sau khi nạn nhân được tách khỏi mạch điện thì phải tiến hành cấp cứu ngay 
trên cơ sở thể trạng nạn nhân như sau: 
7.2.1. Trường hợp nạn nhân chưa mất tri giác 
Nạn nhân chỉ hôn mê bất tỉnh trong chốc lát, còn thở yếu... thì phải đưa nạn 
nhân đến chỗ thoáng khí, nới lỏng quần áo, thắt lưng và chăm sóc theo dõi, đồng 
thời khẩn cấp đi mời cán bộ y tế gần nhất đế cấp cứu. Trường hợp không có y sĩ, 
bác sĩ thì phải nhanh chóng chuyển nạn nhân đến cơ quan y tế gần nhất. 
Hình 7.1. Phương pháp tách nạn nhân ra khỏi mạng 
điện. 
7.2.2. Trường hợp nạn nhân bất tỉnh (còn thở nhẹ) 
Nếu nạn nhân nhân mất tri giác nhưng vẫn còn thở nhẹ, tim đập yếu thì phải 
nhanh chóng đưa nạn nhân đế nơi thoáng khí, nới rộng quần áo, thắt lưng, đồng 
thời moi trong miệng nạn nhân xem có đờm, máu, nôn... để lấy ra, sau đó xoa 
nóng người nạn nhân, đồng thời khẩn trương đi mời cán bộ y tế. 
7.2.3. Trường hợp nạn nhân ngừng thở 
Nếu nạn nhân tắt thở, tim ngừng đập, toàn thân bị co giật thì phải nhanh 
chóng đưa nạn nhân đến nơi thoáng khí, nới lỏng quần áo, thắt lưng, bành miệng 
ra để kiểm tra xem có đờm, máu, nôn... lấy ra, sau đó làm hô hấp nhân tạo hoặc 
hà hơi thổi ngạt kết hợp ép tim ngoài lồng ngực cho đến khi nào có bác sĩ, y sĩ 
đến và cho ý kiến quyết định mới thôi. 
7.3. Các phương pháp hô hấp nhân tạo 
Mục tiêu 
Nắm bắt được các phương pháp hô hấp nhân tạo bao gồm các động tác hỗ 
trợ hô hấp, hồi phục nhịp đập của tim, hồi sức nạn nhân. Đặc biệt cần phải thành 
thạo trong các thao tác hô hấp nhân tạo, ấn tim lồng ngực. 
7.3.1. Phương pháp đặt nạn nhân nằm sấp 
Nhanh chóng cởi áo, nới thắt lưng để khỏi cản trở hô hấp. Đặt nạn nhân nằm 
sấp, một tay gối vào đầu, một tay duỗi thẳng, mặt nghiêng về phía tay duỗi, moi 
rớt rãi trong mồm và kéo lưỡi (nếu lưỡi thụt vào). Người làm hô hấp quỳ trên lưng 
nạn nhân, 2 đầu gối quỳ xuống kẹp vào hai bên hông nạn nhân, hai bàn tay để vào 
hai bên cạnh sườn, hai ngón tay cái để sát sống lưng, ấn tay đếm nhẩm từ một đến 
ba rồi lại từ từ thả tay, thẳng người và tiếp tục làm lại. Cứ làm như vậy 12 lần/phút, 
đều đều theo nhịp thở của mình, làm cho đến khi nạn nhân thở được hoặc theo ý 
kiến của y, bác sĩ mới thôi. Phương pháp này thường được áp dụng khi chỉ có một 
người cứu như minh hoạ trong hình 7.2. 
Hình 7.2. Phương pháp nằm sấp: a) Thở ra; b) 
Hít vào. 
a) b) 
Nhược điểm của phương pháp này là khối lượng không khí vào trong phổi 
ít. Ưu điểm của phương pháp nằm sấp là các chất dịch vị và nước miếng không 
theo đường khí quản vào bên trong và cản trở sự hô hấp. 
7.3.2. Phương pháp đặt nạn nhân nằm ngửa 
Nhanh chóng cởi áo, nới thắt lưng để khỏi cản trở hô hấp. Đặt nạn nhân nằm 
ngửa, dưới thắt lưng đặt gối mềm hoặc quần áo vo tròn lại, để đầu hơi ngửa, kéo 
mồm há ra, moi rớt rãi trong mồm và và kéo lưỡi ra và một người ngồi bên cạnh 
giữ lưỡi như minh hoạ trong hình 7.3. Nếu mồm mím chặt thì thì lấy que cứng 
(không sắc cạnh) để cạy ra. Người cứu ngồi phía đầu, cách đầu 20-30 cm, hai tay 
cầm lấy hai tay nạn nhân (chỗ gần khuỷu tay), từ từ đưa lên phía trên đầu sao cho 
hai bàn tay nạn nhân gần chạm vào nhau. Sau 2-3s nhẹ nhàng đưa tay nạn nhân 
gập lại và lấy sức mình ép hai tay nạn nhân lên ngực. Sau 2-3s lặp lại động tác 
trên. Cố gắng làm từ 16-18 lần trong một phút. Làm thật đều và đếm "1-2-3" cho 
lúc hít vào, "4-5-6" cho lúc thở ra. Làm liên tục cho đến khi nạn nhân tự thở được 
hoặc có ý kiến của y, bác sĩ mới thôi. Phương pháp này không khí đưa vào phổi 
được nhiều hơn phương pháp nằm sấp, nhưng phải có hai người. 
7.3.3. Phương pháp hà hơi thổi ngạt 
Đây là phương pháp mang lại hiệu quả cao nhất, đang được áp dụng rộng rãi 
và rất phổ biến. Để nạn nhân nằm ngửa, nới rộng quần áo, thắt lưng, moi nhớt dãi 
trong mồm nạn nhân ra, đặt đầu nạn nhân hơi ngửa ra phía sau như minh hoạ trong 
hình 7.4. 
Người cứu đứng (hoặc quỳ) bên cạnh nạn nhân, đặt chéo hai bàn tay lên ngực 
trái (chỗ tim) rồi dùng cả sức mạnh thân người ấn nhanh, mạnh, làm lồng ngực 
nạn nhân bị nén xuống 3 đến 4 cm. Sau khoảng 1/3s thì buông tay ra để lồng ngực 
nạn nhân trở lại bình thường. Tốc độ ấn khoảng 60 lần/phút. 
Đồng thời với động tác ép tim, phải có người thứ hai để hà hơi thổi ngạt. 
Người cứu ngồi bên cạnh đầu, dùng một tay bịt mũi nạn nhân, một tay giữ cho 
mồm nạn nhân há ra (nếu lưỡi bị tụt vào thì kéo ra) hít thật mạnh để lấy nhiều 
a) b) 
Hình 7.3. Phương pháp nằm ngửa: a) Thở ra; b) 
Hít vào. 
không khí vào phổi rồi ghé sát mồm vào mồm nạn nhân rồi thổi cho lồng ngực 
phồng lên. Hà hơi thổi ngạt cho nạn nhân từ 14-16 lần/phút. 
Cách phối hợp: Cứ hà hơi thổi ngạt một lần thì làm động tác ép tim 4 nhịp. 
Làm liên tục cho đến khi nạn nhân tự thở được hoặc có ý kiến y, bác sĩ mới thôi. 
Nếu chỉ có một người cứu thì có thể làm như sau: lần lượt thay đổi động tác, 
cứ 2-3 lần hà hơi thổi ngạt thì lại chuyển sang 4-6 lần ấn vào lồng ngực. 
Chú ý: người bị điện giật trong tình trạng hôn mê, tim ngừng đập vẫn có thể 
cứu sống nếu được cấp cứu kịp thời. 
7.4. Thực hành các phương pháp hô hấp nhân tạo 
Căn cứ vào các phương pháp hô hấp nhân tạo, tổ chức nhóm từ 2-3 người để 
thực hành. 
Hình 7.4. Phương pháp hà hơi thổi ngạt kết hợp ép tim 
lồng ngực. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Tiêu chuẩn quốc gia - TCVN (2011), Qui phạm an toàn điện trong bưu chính 
viễn thông, Công báo. 
[2] Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (2010), Giáo trình an toàn điện, Lưu 
hành nội bộ. 
[3] Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2010), Giáo trình kĩ thuật an toàn và 
môi trường, Lưu hành nội bộ. 
[4] Bộ Công nghiệp (2006), Qui phạm trang bị điện, Công báo. 
[5] Nguyễn Đình Thắng (2004),Giáo trình an toàn điện, NXB Giáo dục. 
[6] Phan Thị Thu Vân (2002), Giáo trình an toàn điện, NXB Đại học Quốc gia 
TPHCM. 
[7] Nguyễn Xuân Phú, Trần Thành Tâm (2001), Kĩ thuật an toàn trong cung cấp 
và sử dụng điện, NXB Khoa học và Kĩ thuật. 
[8] Trường Trung cấp nghề KTCNNN Yên Thành (2009), Giáo trình an toàn 
điện, Lưu hành nội bộ. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_an_toan_lao_dong_phan_2_le_thi_nhu_quyen.pdf