Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận

Nghiên cứu này nhằm cung cấp thông tin về các đặc trưng sinh thái của quần xã rong biển tự nhiên tại vùng

biển ven quần đảo Phú Quý. Bằng phương pháp khảo sát dây mặt cắt (Line - intercept method) có sử dụng thiết bị

lặn (SCUBA), chúng tôi tiến hành nghiên cứu 24 mặt cắt cố định trong 2 năm 2017-2018 tại vùng biển ven quần đảo

Phú Quý, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 136 loài, 36 họ, 21 bộ thuộc 4

ngành rong. Trong đó, ngành rong đỏ (Rhodophyta) có số loài được xác định nhiều nhất (chiếm 44,85%). Khu hệ

rong biển mang tính chất nhiệt đới (P = 3,3). Nền đáy cứng là nơi tập trung hầu hết số loài từ vùng triều đến vùng

dưới triều tới độ sâu 20m. Một số khu vực phân bố tập trung loài, nhóm loài rong có sinh khối lớn, mật độ cao như ở

Hòn Tranh có nhóm rong guột (Caulerpa) đạt độ phủ 100%, sinh lượng từ 500-10.880g tươi/m2; phía Đông, Tây Bắc

Phú Quý và khu Mộ Thầy có nhóm rong mơ (Sargassum) đạt độ phủ từ 35-60%, sinh lượng đạt từ 600-6.200g

tươi/m2. Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho các nhà khoa học, nhà quản lý định hướng công tác bảo tồn và

phát triển nguồn lợi rong biển tại đảo Phú Quý.

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 1

Trang 1

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 2

Trang 2

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 3

Trang 3

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 4

Trang 4

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 5

Trang 5

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 6

Trang 6

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 7

Trang 7

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 8

Trang 8

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 9

Trang 9

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 10740
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận

Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 875-884 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 875-884 
www.vnua.edu.vn 
875 
ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI QUẦN XÃ RONG BIỂN VEN QUẦN ĐẢO PHÚ QUÝ, TỈNH BÌNH THUẬN 
Đinh Thanh Đạt*, Đỗ Anh Duy, Trần Văn Hướng 
Viện Nghiên cứu Hải sản 
Tác giả liên hệ: dtdatrimf@gmail.com 
Ngày nhận bài: 31.08.2020 Ngày chấp nhận đăng: 06.05.2021 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này nhằm cung cấp thông tin về các đặc trưng sinh thái của quần xã rong biển tự nhiên tại vùng 
biển ven quần đảo Phú Quý. Bằng phương pháp khảo sát dây mặt cắt (Line - intercept method) có sử dụng thiết bị 
lặn (SCUBA), chúng tôi tiến hành nghiên cứu 24 mặt cắt cố định trong 2 năm 2017-2018 tại vùng biển ven quần đảo 
Phú Quý, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 136 loài, 36 họ, 21 bộ thuộc 4 
ngành rong. Trong đó, ngành rong đỏ (Rhodophyta) có số loài được xác định nhiều nhất (chiếm 44,85%). Khu hệ 
rong biển mang tính chất nhiệt đới (P = 3,3). Nền đáy cứng là nơi tập trung hầu hết số loài từ vùng triều đến vùng 
dưới triều tới độ sâu 20m. Một số khu vực phân bố tập trung loài, nhóm loài rong có sinh khối lớn, mật độ cao như ở 
Hòn Tranh có nhóm rong guột (Caulerpa) đạt độ phủ 100%, sinh lượng từ 500-10.880g tươi/m2; phía Đông, Tây Bắc 
Phú Quý và khu Mộ Thầy có nhóm rong mơ (Sargassum) đạt độ phủ từ 35-60%, sinh lượng đạt từ 600-6.200g 
tươi/m2. Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho các nhà khoa học, nhà quản lý định hướng công tác bảo tồn và 
phát triển nguồn lợi rong biển tại đảo Phú Quý. 
Từ khoá: Quần xã, quần thể, sinh thái, rong biển, Phú Quý. 
Ecological Characteristics of Seaweed Communities 
at Phu Quy Archipelago, Binh Thuan province 
ABSTRACT 
This study aimed to obtain more knowledge about the ecological characteristics of the natural seaweed 
communities in the coastal areas of Phu Quy archipelago, Binh Thuan province. Using the line-intercept method and 
SCUBA diving, we conducted a study of 24 survey stations in the coastal areas of Phu Quy archipelago from 2017 to 
2018. The results showed that a total of 136 species belonging to 36 families, 21 orders of 4 seaweed phyla was 
identified. Of the identified scpecies, the red seaweed (Rhodophyta) was the most abundant group with 67 species 
(44.85%). The seaweed species in Phu Quy archipelago were recorded in the tropical floras (P = 3.3). The seaweed 
species were mostly concentrated on hard bottoms from the tidal zone to the sub-tidal zone and a depth of 20m. The 
high biomass and density of seaweed were calculated at Hon Tranh Island. For example, the average coverage of 
seagrapes (Caulerpa) was 100% and the wet biomass weight from 500 to 10,880 g/m2 in Hon Tranh Island; the 
coverage of brown seaweed (Sargassum) was from 35 to 60% and the wet biomass weight from 600 to 6.200 g/m2 in 
the Mo Thay area, the East and Northwest of Phu Quy island. These research results are scientific bases for the 
conservation and development of seaweed communities in Phu Quy archipelago. 
Keywords: Biome, population, ecology, seaweed, Phu Quy. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Quần đảo Phú Quý, huyện Phú Quý, tỉnh 
Bình Thuận có 6 đảo nổi gồm: Phú Quý, Hòn 
Tranh, Hòn Trứng ở phía Nam, Hòn Đỏ, Hòn 
Đen, Hòn Giữa ở phía Bắc. Phú Quý là đảo lớn 
nhất, có diện tích 16km2, chiếm đến 97% diện 
tích nổi của toàn huyện đảo. Đảo Phú Quý có 
dạng hình chữ nhật lệch, chiều dài Bắc - Nam 
khoảng 7km, chiều rộng Đông - Tây khoảng 
4,5km. Phần bãi triều và dưới triều của quần 
đảo Phú Quý bao gồm các dạng: bãi triều rạn đá 
gốc điển hình (bãi triều được hình thành do các 
lớp đá gốc nằm chồng chất lên nhau); bãi triều 
Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 
876 
rạn đá - cát (là loại hình có cấu trúc phần cao 
triều là đá gốc điển hình, phần giáp ranh là 
vùng trung - cao triều là cát và đá gốc); bãi đá 
tảng - cát (gồm các tảng đá lớn nhỏ có nguồn gốc 
từ các bãi đá gốc); bãi cát - san hô và bãi rong, 
cỏ biển - san hô (Khương Văn Hải, 2012). 
Rong biển thuộc nhóm thực vật thủy sinh 
bậc thấp, thích nghi với điều kiện ngập nước, có 
khả năng chịu đựng được các ngưỡng dinh 
dưỡng, độ muối, độ sâu, nhiệt độ, thời gian phơi 
cạn và mức độ sóng vỗ, v.v khác nhau tùy theo 
từng loài, từng vĩ độ địa lý và thời gian trong 
năm (Nguyễn Hữu Đại, 1999). Cơ thể rong biển 
có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Các tế bào 
trong cơ thể chứa hệ thống sắc tố giúp cho quá 
trình quang hợp tạo ra các sản phẩm hữu cơ từ 
các chất vô cơ, nhờ đó chúng có khả năng tự 
dưỡng. Cũng như các quần xã sinh vật khác, về 
mặt sinh thái quần xã rong biển được đặc trưng 
bởi tính đa dạng, thành phần loài, sự phân bố, 
các mối quan hệ sinh thái và hiện tượng khống 
chế sinh học,... 
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu đặc điểm 
sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú 
Quý. Đây là cơ sở khoa học quan trọng cho việc 
bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn lợi rong biển, 
phục vụ nhu cầu phá ...  diện tích các nền đáy có rong phân bố là 
không nhiều và mật độ thưa, sinh lượng thấp. 
* Phân bố theo độ sâu: Độ sâu phân bố của 
rong biển ven đảo là không lớn lắm. Hầu hết các 
loài rong biển chỉ phân bố từ độ sâu 20m trở vào 
bờ. Chế độ bán nhật triều ở vùng biển ven quần 
đảo Phú Quý có biên độ thuỷ triều tương đối lớn 
nên việc phân chia vùng triều và vùng dưới 
triều là rõ nét. Về cơ bản có hai dạng phân bố 
theo độ sâu của rong biển là phân bố vùng triều 
và phân bố vùng dưới triều. 
- Vùng triều: Trong 136 loài rong biển được 
ghi nhận, có rất nhiều loài có độ sâu phân bố từ 
vùng triều xuống tới vùng dưới triều. Sự khác 
nhau về độ sâu phân bố chỉ thể hiện ở tỷ lệ sinh 
lượng và tần suất xuất hiện ở vùng triều hay 
dưới triều. Tuy nhiên cũng có nhiều loài và nhóm 
loài chỉ được ghi nhận ở một kiểu sinh thái hoặc 
vùng triều hoặc vùng dưới triều (Bảng 2). 
- Vùng dưới triều: Sự khác nhau về phân bố 
của rong biển vùng dưới triều thể hiện khá rõ 
nét. Phần lớn các loài rong tập trung phân bố và 
có sinh lượng cao nhất ở phần trên vùng dưới 
triều; ở phần dưới vùng dưới triều số lượng loài 
ít hơn và sinh lượng khá thấp (Bảng 3). 
3.3. Quan hệ giữa các loài trong quần xã 
rong biển ven quần đảo Phú Quý 
* Tính ưu thế loài, nhóm loài và diện phân 
bố: Tính ưu thế của một loài hay nhóm loài được 
thể hiện thông qua độ phủ và diện tích phân bố 
của loài và nhóm loài. Quần đảo Phú Quý có 
diện tích vùng triều tương đối rộng lớn, đây 
cũng là nơi phân bố của nhiều loài rong biển ven 
bờ. Các loài rong biển trong vùng triều phổ biến 
là các loài thuộc ngành rong lục như rong guột 
(Caulerpa), rong cải biển (Ulva), rong lông cứng 
(Cladophora),; ngành rong nâu như nhóm rong 
quạt (Padina), rong bóng trơn (Colpomenia)...; 
ngành rong đỏ như nhóm rong đông (Hypena), 
rong mào gà (Laurencia)... phân bố rải rác tại 
các vũng nước còn đọng lại trong vùng triều khi 
triều rút. 
Bảng 2. Các loài và nhóm loài rong biển phân bố ở vùng triều ven quần đảo Phú Quý 
Phân chia mức triều Loài và nhóm loài rong phân bố 
Vùng trên triều Không có rong biển phân bố. 
Mực trung bình triều dâng nhiệt đới 
Vùng triều Vùng triều cao Oscillatoria, Phormidium, Symploca. 
Mực trung bình triều dâng xích đạo 
Vùng triều giữa Ulva, Mastophora, Chaetomorpha. 
Mực trung bình triều rút xích đạo 
Vùng triều thấp Gelidiella, Halimeda, Liagora, Galaxaura, Jania, Titanophora, Boodlea, Padina, 
Sargassum, Turbinaria, Lobophora, Ulva, Bryopsis, Amphiroa, Actinotrichia, 
Chaetomorpha, Enteromorpha, Colpomenia. 
Mực trung bình triều rút nhiệt đới - 0m 
Bảng 3. Các loài và nhóm loài rong biển phân bố ở vùng dưới triều ven quần đảo Phú Quý 
Phân chia mức triều Loài và nhóm loài rong phân bố 
Vùng dưới triều Phần trên Portieria, Peyssonnelia, Caulerpa, Codium, Halimeda, Liagora, Galaxaura, Jania, Titanophora, 
Boodlea, Padina, Sargassum, Turbinaria, Lobophora, Boodlea, Ulva, Bryopsis, Amphiroa, 
Actinotrichia, Gracilaria, Dictyota, Dictyosphaeria, Colpomenia, Valonia, Chnoospora, 
Wurdemannia, Hypnea, Peyssonnelia. 
Mực trung bình triều rút nhiệt đới - 15m 
Phần dưới Jania, Amphiroa, Actinotrichia, Dictyota, Chnoospora, Wurdemannia, Peyssonnelia. 
Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 
882 
Vùng triều dưới là nơi tập trung nhiều hơn 
cả các loài rong biển phân bố so với vùng triều 
trên và triều giữa, nơi đây bắt đầu xuất hiện 
phân bố của những nhóm loài rong có sinh 
lượng lớn như rong mơ (Sargassum), rong bao 
(Turbinaria), rong hải cốt (Halimeda),... Dù vậy, 
phần trên của vùng dưới triều vẫn là nơi rong 
biển có độ phủ và sinh lượng cao nhất. Dải độ 
sâu rong biển quần đảo Phú Quý phân bố tập 
trung từ 0m hải đồ đến 7-8m nước, đây cũng là 
nơi tập trung hầu hết của các nhóm loài rong 
biển có sinh lượng cao nhất. 
* Tính ưu thế về sinh lượng và mật độ phân 
bố: Quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý 
luôn được đặc trưng bởi các thảm rong biển, nó 
thể hiện ở sự ưu thế của một loài hay một nhóm 
loài rong biển trong một khu vực phân bố rộng 
lớn. Điển hình là nhóm rong gai 
(Palisada concreta) với độ phủ từ 45-70%, sinh 
lượng đạt 600-5.400g tươi/m2; rong guột 
(Caulerpa) có diện tích hàng chục ha, với độ phủ 
cao (50-90%), nhiều nơi độ phủ đạt 100%, sinh 
lượng đạt 500-10.880g tươi/m2. Các thảm rong 
này phân bố tập trung tại khu vực Hòn Tranh 
và phía tây bắc đảo. Khu vực phía Đông, phía 
Tây Bắc và khu vực Mộ Thầy có các thảm rộng 
lớn của rong mơ (Sargassum) với độ phủ từ 35-
60% và sinh lượng đạt khoảng 600-6.200g 
tươi/m2; rong guột (Caulerpa) phân bố với độ 
phủ từ 80-90%. Khu vực phía Bắc và Đông Nam 
có các thảm rong cải biển (Ulva) cũng có sinh 
lượng khá cao và phân bố trên diện tích hàng 
chục ha. Những thảm rong biển đơn loài, phủ 
kín một vùng rộng lớn và là đặc điểm nổi bật 
của hệ sinh thái rong biển nơi đây. Ngoài ra một 
số loài như Padina, Halimeda, Hypnea, cũng 
tạo thành những thảm rong lớn phân bố rải rác 
xung quanh đảo Phú Quý. 
3.4. Hiện tượng khống chế sinh học của 
quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý 
Chúng tôi đã ghi nhận được hiện tượng số 
lượng cá thể của một quần thể rong biển nào đó 
bị số lượng cá thể của một quần thể rong biển 
khác chiếm ưu thế kìm hãm ở vùng biển ven 
quần đảo Phú Quý. Nhờ tính ưu thế loài chúng 
chiếm hầu hết diện tích và không gian phân bố 
làm giảm cơ hội có mặt của các loài rong khác, 
không cho chúng có mặt trong không gian phân 
bố của loài. Thực tế đã ghi nhận chỉ có vài loài 
rong thuộc chi Amphiroa, Lobophora, 
Actinotrichia, Hypnea, Colpomenia và một số 
loài rong khác có mặt trong các thảm rong gai 
(Palisada concreta), thảm rong mơ (Sargassum) 
nhưng số lượng cá thể rất ít, chỉ mang tính chất 
định tính. Các thảm rong guột (Caulerpa), rong 
cải biển (Ulva) cũng tạo thành những vùng 
phân bố ưu thế, lẫn trong vùng phân bố của 
chúng chỉ có số ít tản rong thuộc chi 
Actinotrichia, Hypnea, Laurencia, 
Chaetomorpha và vài loài rong khác với sinh 
lượng rất thấp. Các thảm rong hải cốt 
(Halimeda), rong mào gà (Laurencia), rong quạt 
(Padina) và một số nhóm rong khác cũng tạo 
thành những vùng chiếm ưu thế với diện tích 
phân bố khác nhau và cũng có tính chất tương 
tự như các chi rong đã trình bày ở trên. Tuy 
nhiên, cũng không có quần thể rong biển nào 
chiếm ưu thế tuyệt đối, mỗi quần thể ưu thế 
cũng chỉ chiếm những phần không gian phân bố 
nhất định thích nghi với sự sinh trưởng và phát 
triển của loài và nhóm loài. Mức độ đa dạng loài 
tương đối cao (với tổng số 136 loài được ghi 
nhận) và diện tích phân bố của các loài và nhóm 
loài ưu thế cũng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trên tổng 
diện tích vùng triều xung quanh đảo. Đây chính 
là đặc tính tự cân bằng của các quần thể rong 
biển, nhờ vậy mà hàng trăm loài rong biển ở đây 
đều có những không gian phân bố nhất định với 
diện tích phân bố và % độ phủ khác nhau tạo 
nên tính đa đạng và cân bằng sinh học cho quần 
xã rong biển ven quần đảo Phú Quý. 
4. THẢO LUẬN 
Kết quả khảo sát cho thấy vùng bãi triều 
ven quần đảo Phú Quý khá bằng phẳng. Đặc 
biệt các bãi triều ở phía tây, tây nam và phía 
bắc của đảo rộng từ 200-500m tạo ra môi trường 
sống, phân bố lý tưởng các loài động vật, thực 
vật xung quanh đảo. Các loài rong biển thường 
sống chung với nhau làm thành các thảm thực 
vật rất đa dạng, khi triều xuống thấp có thể 
nhìn thấy các thảm rong biển với các màu sắc 
khác nhau bao quanh đảo. 
Đinh Thanh Đạt, Đỗ Anh Duy, Trần Văn Hướng 
883 
 Bảng 4. So sánh số lượng loài rong biển ven quần đảo Phú Quý 
với các đảo khu vực phía Nam 
Tên quần đảo Năm nghiên cứu Số loài Nguồn tài liệu 
Phú Quý 2017, 2018 136 Nghiên cứu này 
Phú Quý 2012 228 Đỗ Anh Duy (2012) 
Phú Quý 2013 153 Đỗ Anh Duy & cs. (2013) 
Phú Quốc 2011 106 Đỗ Anh Duy & cs. (2013) 
Thổ Chu 2017, 2018 69 Đinh Thanh Đạt & cs. 
(2019) 
Nam Du 2017, 2018 96 Đỗ Anh Duy & cs. (2019) 
 Bảng 5. So sánh % và giá trị P số loài của các ngành rong biển Phú Quý 
với các đảo Tây Nam Bộ 
Tên đảo 
Tỷ lệ % ngành rong 
Giá trị P Nguồn tài liệu 
Rong đỏ Rong lục Rong nâu Rong lam 
Phú Quý 44,9 30,9 22,8 1,4 3,3 Nghiên cứu này 
Phú Quý 46,9 31,1 14,9 7,0 4,1 Đỗ Anh Duy (2012) 
Nam Du 45,8 26,0 24,0 4,2 3,0 Đỗ Anh Duy & cs. (2019) 
Thổ Chu 55,1 29,0 14,5 1,4 5.8 Đinh Thanh Đạt & cs. (2019) 
Để đánh giá mức độ đa dạng loài của quần 
xã rong biển ven quần đảo Phú Quý với quần xã 
rong biển ở khu vực Đông và Tây Nam Bộ, 
chúng tôi so sánh số liệu hiện tại với số liệu của 
các tác giả đã công bố gần đây (Bảng 4). 
Kết quả so sánh cho thấy quần xã rong biển 
ven quần đảo Phú Quý có số lượng loài nhiều 
nhất so với các đảo thuộc khu vực Đông và Tây 
Nam Bộ. Tổng số lượng loài rong biển ở đây gấp 
gần 2 lần số lượng loài rong biển thuộc quần đảo 
Thổ Chu, gấp hơn 1,4 lần số rong biển Nam Du 
và gấp gần 1,3 lần số lượng loài rong biển của 
đảo Phú Quốc. Tuy nhiên, việc xem xét mức đa 
dạng của quần xã rong biển ven quần đảo Phú 
Quý qua các năm thấy rằng mức độ đa dạng đã 
bị giảm đi theo thời gian. Trong các lần khảo sát 
thì năm 2012 là năm ghi nhận quần xã rong 
biển ven quần đảo Phú Quý có số lượng loài 
nhiều nhất và ít dần đi ở các lần khảo sát sau. 
Hiện tại số lượng loài rong biển ở ven quần đảo 
Phú Quý đã bị suy giảm trên 40% so với thời kỳ 
2012. Sự suy giảm này là đáng kể, rất cần được 
đầu tư nghiên cứu nguyên nhân và đề ra các 
giải pháp cụ thể góp phần vào công tác bảo tồn 
và phát triển nguồn lợi rong biển nơi đây. 
So sánh thành phần loài rong biển trong 
quần xã rong ven quần đảo Phú Quý với quần 
xã rong ở một số đảo khác cho thấy, các đảo đều 
có sự tương đồng về tỷ lệ các ngành rong và theo 
xu thế ngành rong đỏ chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp 
đến là ngành rong lục, rong nâu và thấp nhất là 
ngành rong lam. Tỷ lệ số loài ngành rong đỏ 
tương đồng với đảo Nam Du nhưng thấp hơn 
đảo Thổ Chu. Ngược lại, tỷ lệ % loài rong lam 
hai đảo này (quần đảo Phú Quý, Thổ Chu) bằng 
nhau nhưng lại thấp hơn 3 lần đảo Nam Du. So 
với nghiên cứu năm 2012 thì tỷ lệ % ngành rong 
đỏ và rong lục không có sự thay đổi nhiều, 
ngành rong nâu tăng lên khoảng 8 %, ngành 
rong lam giảm tới 5,6 % (Bảng 5). 
Giá trị P cho thấy quần xã rong biển ven 
quần đảo Phú Quý và quần xã rong biển ở các 
đảo vùng Tây Nam Bộ đều nằm trong khoảng 3 
≤ P ≤ 6. Như vậy, các quần xã rong biển ở các 
đảo này đều mang tính chất nhiệt đới hay tính 
hỗn hợp (Bảng 5). 
Đặc điểm sinh thái quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 
884 
5. KẾT LUẬN 
Đã xác định được 136 loài thuộc 4 ngành rong 
biển được ghi nhận ở vùng biển ven quần đảo Phú 
Quý, trong đó ngành rong đỏ (Rhodophyta) có số 
lượng loài nhiều nhất (61 loài), ngành rong lam 
(Cyanobacteria) có số loái ít nhất (2 loài). 
Quần xã rong biển ven quần đảo Phú Quý 
mang tính chất của khu hệ rong biển nhiệt đới 
(P = 3,3); Nền đáy cứng là kiểu nền phổ biến tại 
đảo và là nơi phân bố hầu hết của các loài rong 
so với kiểu nền đáy cát, sỏi vụn san hô. Rong 
biển chủ yếu phân bố từ ven bờ đến độ sâu 20m, 
loài và nhóm loài có sự phân bố đặc trưng theo 
mức triều. 
Tính chất đặc trưng của quần xã rong biển 
ven quần đảo Phú Quý thể hiện ở tính ưu thế 
quần thể loài và nhóm loài (Palisada concreta, 
Caulerpa, Ulva, Sargassum, Padina, 
Galaxaura,). 
Nghiên cứu này đã ghi nhận hiện tượng 
khống chế sinh học ở một số loài rong đối với các 
loài rong khác sống trong vùng phân bố ưu thế 
của chúng. Điển hình là loài rong gai 
(Palisada concreta), nhóm rong guột (Caulerpa) 
và nhóm rong cải biển (Ulva). 
LỜI CẢM ƠN 
Xin chân thành cảm ơn Viện Nghiên cứu 
Hải sản và Ban chủ nhiệm đề tài KC.09.05/16-
20: “Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng nguồn lợi 
và khả năng khai thác, nuôi trồng các loài rong 
biển kinh tế tại các đảo tiền tiêu phục vụ phát 
triển kinh tế - xã hội” đã hỗ trợ về kinh phí và 
cho phép chúng tôi sử dụng số liệu để hoàn 
thành bài báo này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Cheney D.P. (1977). R and C/P - A new and improved 
ratio for comparing seaweed floras. Journal of 
Phycology. 13 (Suppl.): 1-13. 
Đinh Thanh Đat, Đỗ Anh Duy, Trần Văn Hướng & 
Phùng Văn Giỏi (2019). Quần xã rong biển ven 
quần đảo Thổ Chu, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên 
Giang. Tuyển tập Báo cáo khoa học, Diễn đàn 
Khoa học toàn quốc (2019) - Sinh học biển và phát 
triển bền vững. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên 
và Công nghệ. tr. 378-393. 
Đỗ Anh Duy (2012). Đa dạng thành phần loài rong 
biển ven đảo Phú Quý, Bình Thuận. Tuyển tập báo 
cáo tóm tắt Hội nghị Khoa học Đại học Khoa học 
Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tiểu ban Sinh 
học, Hà Nội. tr. 10-11. 
Đỗ Anh Duy & Đỗ Văn Khương (2013). Hiện trạng về 
đa dạng thành phần loài rong biển ở các đảo đã 
khảo sát thuộc vùng biển Việt Nam. Tạp chí Khoa 
học và Công nghệ Biển. 13(2): 105-115. 
Đỗ Anh Duy & Đỗ Văn Khương (2013). Thành phần 
loài và phân bố của rong biển đảo Phú Quý, tỉnh 
Bình Thuận. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn. tr. 100-108. 
Đỗ Anh Duy, Đinh Thanh Đạt & Đàm Đức Tiến 
(2019). Đa dạng loài và phân bố rong biển quần 
đảo Nam Du, Kiên Giang. Tạp chí Khoa học, 
Trường Đại học Cần Thơ. 55(4A): 71-81. 
Feldmann J. (1937). Recherches sur la végétation 
marine de la Méditerranée, La côtes des Albères, 
Revue algol. 10: 1-339. 
Khương Văn Hải (2012). Ảnh hưởng nước biển dân 
đến tài nguyên nước ngầm huyện đảo Phú Quý. 
Luận văn Thạc sĩ khoa học, Đại học Khoa học Tự 
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. tr. 11-12. 
Nguyễn Hữu Dinh, Huỳnh Quang Năng, Trần Ngọc 
Bút & Nguyễn Văn Tiến (1993). Rong biển Việt 
Nam (Phần phía Bắc). Nhà xuất bản Khoa học và 
Kỹ thuật, Hà Nội. 364tr. 
Nguyễn Hữu Đại (1999). Thực vật thuỷ sinh (Phần I - 
Tảo). Nhà xuất bản Nông nghiệp, thành phố Hồ 
Chí Minh. 290tr. 
Phạm Hoàng Hộ (1969). Rong biển Việt Nam (Phần 
phía Nam). Trung tâm Học liệu xuất bản. Sài Gòn. 
Segawa S. (1962). The Seaweeds of Japan. Hoikusha. 
Osaka. 175p. 
Stephenson T.A. & Stephenson A. (1949). The 
universal features of zonation between Aid-mard 
on rosky coats, Jour. ecol. 37(2). 
Taylor W.R. (1960). Marine algae of the eastern 
tropical and subtropical coasts of the Americas. 
William Randolph Taylor. The University of 
Michigan Press, Ann Arbor. 870p. 
Tseng C.K. (1983). Common Seaweeds of China. 
Beijing: Science Press. 
Tsutsui Isao, Huỳnh Quang Năng, Nguyễn Hữu Dinh, 
Arai Shogo & Yushida Tadao (2005). Thực vật 
biển thường thấy ở phía Nam. Hội rong biển Nhật 
Bản. Hoozuki-Syoseki Inc. Nagano. 250tr. 
Trono Jr. (1998). The Living Marine Resources of the 
Western Central Pacific - Volume 1: Seaweeds, 
corals, bivalves and gastropods. FAO, Rome. 
Uỷ ban Khoa học & Kỹ thuật Nhà nước (1981). Quy 
phạm điều tra rong biển. Trong: Quy phạm tạm 
thời điều tra tổng hợp biển. Nhà xuất bản Khoa học 
và Kỹ thuật, Hà Nội. tr. 1-45. 
Yoshida T. (1998). Marine algae of Japan. Tokyo: 
Uchida Rokakuho Publishing. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_sinh_thai_quan_xa_rong_bien_ven_quan_dao_phu_quy_ti.pdf