Ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác nhau đến thành thục sinh dục của cá nâu (Scatophagus argus linnaeus, 1766)
Nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của điều kiện sinh thái khác nhau (lồng đặt trong ao
lót bạt, bể composite và lồng trên đầm phá) đến khả năng thành thục của cá nâu. Thí nghiệm được tiến hành từ
20/4 đến 20/7/2020. Mẫu được thu hàng tháng để đánh giá hệ số thành thục, đường kính trứng, tỷ lệ thành thục
và sức sinh sản của đàn cá bố mẹ. Kết quả cho thấy, cá nâu bố mẹ có khả năng thành thục trong cả 3 điều kiện
môi trường nuôi vỗ. Tuy nhiên, nuôi vỗ cá trong lồng trên đầm phá cho kết quả về tỷ lệ thành thục, hệ số thành
thục của cá cái và đường kính trứng cao hơn so với nuôi trong lồng đặt trong ao và bể composite (P <0,05). Cá
đực khi nuôi trong cả 3 điều kiện môi trường đều cho tỷ lệ thành thục tương đối cao và thời gian thành thục sớm
hơn cá cái. Hệ số thành thục và chất lượng thành thục của cá đực không có sự sai khác lớn giữa các nghiệm
thức trong thời gian thí nghiệm.
Từ khóa: Các điều kiện sinh thái, nuôi vỗ, Scatophagus argus, thành thục sinh dục.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác nhau đến thành thục sinh dục của cá nâu (Scatophagus argus linnaeus, 1766)
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 885-893 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 885-893 www.vnua.edu.vn 885 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC ĐIỀU KIỆN SINH THÁI KHÁC NHAU ĐẾN THÀNH THỤC SINH DỤC CỦA CÁ NÂU (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) Nguyễn Văn Huy*, Võ Điều, Võ Đức Nghĩa Khoa Thủy sản, Trường Đại học Nông Lâm, Đại Học Huế *Tác giả liên hệ: huy.nguyen@hueuni.edu.vn Ngày nhận bài: 02.11.2020 Ngày chấp nhận dăng: 22.02.2021 TÓM TẮT Nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của điều kiện sinh thái khác nhau (lồng đặt trong ao lót bạt, bể composite và lồng trên đầm phá) đến khả năng thành thục của cá nâu. Thí nghiệm được tiến hành từ 20/4 đến 20/7/2020. Mẫu được thu hàng tháng để đánh giá hệ số thành thục, đường kính trứng, tỷ lệ thành thục và sức sinh sản của đàn cá bố mẹ. Kết quả cho thấy, cá nâu bố mẹ có khả năng thành thục trong cả 3 điều kiện môi trường nuôi vỗ. Tuy nhiên, nuôi vỗ cá trong lồng trên đầm phá cho kết quả về tỷ lệ thành thục, hệ số thành thục của cá cái và đường kính trứng cao hơn so với nuôi trong lồng đặt trong ao và bể composite (P <0,05). Cá đực khi nuôi trong cả 3 điều kiện môi trường đều cho tỷ lệ thành thục tương đối cao và thời gian thành thục sớm hơn cá cái. Hệ số thành thục và chất lượng thành thục của cá đực không có sự sai khác lớn giữa các nghiệm thức trong thời gian thí nghiệm. Từ khóa: Các điều kiện sinh thái, nuôi vỗ, Scatophagus argus, thành thục sinh dục. Effects of Ecological Conditions on Maturation of Spotted scat (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) ABSTRACT This study was to evaluate the effects of ecological conditions (high-density polyethylene (HDPE) lined pond, tank and lagoon) on the maturation of Scatophagus argus (Linnaeus, 1766). The experiment was conducted from 20th April to 20th July 2020. Broodstock samples were randomly collected monthly to evaluate Gonado-somatic index (GSI), egg diameter, maturation rate, fecundity. The results show that the broodstock Scatophagus argus were able to mature under different ecological conditions. However, the maturation in the lagoon condition was better in Gonado-somatic index, egg diameter; and maturation rate than that of in pond and tank conditions (P <0.05). Similarly, the male had a higher maturation rate when cultured in the lagoon. The male, stocked under three environmental conditions, had a relatively high maturation rate with an earlier maturation period. Gonado-somatic index and sperm quality were not changed during the experiment. Keywords: Ecological conditions, Broodstock management, Scatophagus argus, reproductive maturation. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sinh trưởng và phát triển của cá xương bị ảnh hưởng trực tiếp bởi rất nhiều yếu tố môi trường như nhiệt độ, ánh sáng, độ mặn (Taylor & cs., 2005). Chất lượng thành thục của đàn cá bố mẹ được xem là yếu tố then chốt trong quy trình sản xuất giống, vì quá trình nuôi vỗ quyết định đến chất lượng trứng, tỷ lệ nở, tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của đàn cá con. Để thành công trong sản xuất giống thủy sản, vấn đề quan trọng là kiểm soát được quá trình sinh sản của cá để đạt được chất lượng con giống tốt cần đảm bảo chất lượng trứng và tinh trùng (Memiþ & cs., 2007). Trong quá trình thành thục, cá bố mẹ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi hai nhóm yếu tố chính là dinh dưỡng và môi trường thông qua quá trình điều tiết hoocmone sinh sản, quá trình tích lũy và chuyển hóa dinh dưỡng. Có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ vai trò của các hoocmone Ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác nhau đến thành thục sinh dục của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) 886 nội tiết tố và yếu tố sinh thái trong quá trình thành thục và sinh sản của cá. Về cơ bản, sự phát triển của giao tử (trứng và tinh trùng) và quá trình thành thục của cá được điều khiển bởi các loại hoocmone khác nhau từ não, tuyến yên và cơ quan sinh dục (buồng trứng và tinh sào). Sự tiết xuất các hoocmone follicle-stimulating hormone (FSH) và luteinizing hormone (LH) từ tuyến yên được điều khiển bởi não thông qua hoạt động kích thích của của gonadotropin-releasing hormone (Peter & Yu, 1997) Cá nâu (Scatophagus argus) là loài cá giá trị kinh tế và phân bố ở nhiều vùng đầm phá, vụng vịnh ven biển trên cả nước. Đây là loài cá bản địa được đánh giá có triển vọng phát triển nuôi ở Thừa Thiên Huế. Với tập tính ăn tạp (Nguyễn Thanh Phương & cs., 2005), có thể sống trong cả môi trường nước ngọt, lợ và nước mặn (Barry & Fast, 1992), cá nâu đã trở thành một trong những đối tượng thích hợp cho mô hình nuôi xen ghép ở tỉnh Thừa Thiên Huế, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước. Tuy là loài có giá trị cao và có triển vọng nuôi nhưng đến nay nguồn giống cá nâu ở Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói chung chủ yếu được khai thác từ tự nhiên, không đáp ứng được nhu cầu cho người nuôi. Ngoài số lượng con giống khai thác từ tự nhiên ngày càng hạn chế, ... TB). Nguyễn Văn Huy, Võ Điều, Võ Đức Nghĩa 889 Hình 2. Biến động nhiệt độ và ánh sáng ở các lồng/bể thí nghiệm Trong quá trình thí nghiệm, nhiệt độ nước dao động trong khoảng 21,6-35,7C, trung bình là 31,2C (Hình 2). Biên độ nhiệt độ dao động trong ngày có khi lên đến 4C. Cường độ ánh sáng trung bình trong thời gian nuôi vỗ ở NT1, NT2, NT3 lần lượt là 2.576 lux, 2.347 lux và 2.753 lux. Hầu hết các loài cá xương, sự thành thục sinh dục đều bị ảnh hưởng của ít nhất 3 yếu tố môi trường (Stacey, 2003), trong đó yếu tố nhiệt độ và ánh sáng đóng vai trò rất quan Ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác nhau đến thành thục sinh dục của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) 890 trọng. Các yếu tố bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tuyến sinh dục của cá vì chúng tác động đến quá trình điều hòa hoạt động của hormone (Asturiano, 2000) nên chúng ảnh hưởng đến chất lượng trứng. Theo Su & cs. (2019) khi nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn đến thành thục của cá nâu (ở các mức 5‰, 15‰, 25‰ và 35‰) đã báo cáo, cá nuôi ở độ mặn 25‰ có hệ số thành thục sinh dục (GSI) cao nhất. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy cá nâu sinh trưởng và phát triển tốt ở điều kiện nhiệt độ nước 26,0 ± 2,0°C, pH bằng 7,2-8,5, oxy hòa tan (DO) bằng 5,2-6,1 mg/l, chu kỳ quang xấp xỉ 14L: 10D (14 giờ sáng: 10 giờ tối). Với kết quả nghiên cứu này cho thấy điều kiện môi trường nuôi vỗ cá nâu của thí nghiệm là phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển và thành thục của cá. 3.2. Hệ số thành thục sinh dục cá nâu Hệ số thành thục (GSI) là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức độ thành thục sinh dục của cá. Kết quả theo dõi hệ số thành thục của cá nâu cái và đực ở 3 điều kiện sinh thái nuôi vỗ qua các tháng được trình bày như ở Bảng 3. Kết quả cho thấy, hệ số thành thục của cá cái bắt đầu tăng nhanh vào giai đoạn từ 20/6- 20/7 và có sự sai khác có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức nuôi vỗ trên đầm phá so với 2 nghiệm thức còn lại (P <0,05). Trong khi đó, hệ số thành thục của cá đực tăng chậm qua các tháng nuôi vỗ và không có sự sai khác giữa các nghiệm thức (P <0,05). Ở cá nâu cái, hệ số thành thục của cá ở các nghiệm thức nuôi trong hai tháng đầu (20/4- 20/6) không có sự sai khác lớn, tuy nhiên ở tháng nuôi thứ 3 (tháng 7) hệ số thành thục của cá nuôi ở NT3 tăng nhanh và tạo sự khác biệt với hai nghiệm thức còn lại (P <0,05). Kết quả trên đã khẳng định, nuôi vỗ thành thục cá nâu bằng lồng đặt trên đầm phá (NT3) phù hợp nhất (trong 3 điều kiện nuôi vỗ) cho sự phát triển của tuyến sinh dục cá cá nâu cái. GSI là chỉ số rất quan trọng trong nghiên cứu sinh học sinh sản của cá (Nandikeswari & cs., 2014), có giá trị tăng dần theo sự phát triển của tuyến sinh dục, cụ thể là sự chín muồi sinh dục của các tế bào trứng, khi tế bào trứng đạt đến kích thước tối đa (thường giai đoạn IV của tế bào trứng) thì hệ số GSI cũng đạt giá trị cao nhất. Hệ số này giúp cho chúng ta xác định chính xác mùa vụ sinh sản của từng loài cá trong tự nhiên (Shafi, 2012). Kết quả này phù hợp với nhận định của Takemura & cs. (2008), khi cho rằng quá trình thành thục của cá, đặc biệt là sự phát triển tế bào trứng đối với các loài cá rạn san hô thường liên quan đến chu kỳ trăng, có nghĩa là liên quan đến chu kỳ lên xuống và biên độ của thủy triều. Hơn nữa, sự biến động của hoocmone sinh sản ở cá xương liên quan đến ánh sáng vào ban đêm (trăng), từ trường và đặc biệt là chu kỳ triều (Takemura & cs., 2010). Bảng 3. Hệ số thành thục (%) của cá cái và cá đực ở các nghiệm thức thí nghiệm Nghiệm thức Ngày kiểm tra 20/4 20/5 20/6 20/7 Hệ số thành thục của cá cái ở các nghiệm thức NT1 - Cái 3,14 a ± 0,96 4,94 a ± 0,82 6,38 a ± 0,82 8,11 b ± 0,86 NT2 - Cái 3,03 a ± 0,58 5,25 a ± 0,81 6,71 a ± 0,81 7,75 b ± 0,72 NT3 - Cái 2,97 a ± 0,54 5,58 a ± 0,53 7,31 a ± 0,53 10,18 a ± 0,81 Hệ số thành thục của cá đực ở các nghiệm thức NT1 - Đực 1,59 a ± 0,09 1,54 a ± 0,15 1,65 a ± 0,10 1,68 a ± 0,13 NT2 - Đực 1,61 a ± 0,09 1,57 a ± 0,21 1,66 a ± 0,13 1,71 a ± 0,12 NT3 - Đực 1,69 a ± 0,13 1,65 a ± 0,14 1,71 a ± 0,12 1,83 a ± 0,18 Ghi chú: Giá trị ở bảng là TB ± SD. Ký tự a, b trên cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05). Nguyễn Văn Huy, Võ Điều, Võ Đức Nghĩa 891 Kết quả này phù hợp với báo cáo của Nguyễn Văn Huy & cs. (2020) khi cho rằng, cá nâu cái nuôi vỗ ở Thừa Thiên Huế thành thục sinh dục và tham gia sinh sản bắt đầu vào tháng 7 và cá đực bắt đầu thành thục từ tháng 4-8. Theo nghiên cứu của Lý văn Khánh & cs. (2010), hệ số GSI của cá nâu cái tăng nhanh từ 3,65 ± 1,87 ở buồng trứng giai đoạn III lên 9,87 ± 3,42 ở giai đoạn IV và 12,01 ± 3,30 ở giai đoạn V và tuyến sinh dục cá nâu cái đã thành thục (buồng trứng đã đạt giai đoạn IV) có thể tham gia sinh sản. Nhận định này cũng phù hợp với nghiên cứu của Cui & cs. (2013) về hệ số GSI của cá nâu cái dao động từ 1,2 đến 14,5% (ở buồng trứng giai đoạn V). Hệ số thành thục của cá nâu đực thường thấp hơn so với cá nâu cái và chỉ đạt ở mức nhỏ hơn 2% (Gandhi & cs., 2014). 3.3. Sự phát triển về kích thước trứng cá nâu Cùng với hệ số thành thục, đường kính trứng là một trong những chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá mức độ thành thục của cá. Trong thời gian gần đây, chỉ tiêu này đã được nhiều nghiên cứu đã áp dụng để xác định mức độ thành thục sinh dục của cá phụ vụ cho sinh sản nhân tạo. Qua thu mẫu và phân tích cho thấy, kích thước trứng cá nâu ở các nghiệm thức nuôi tăng nhanh theo thời gian nuôi, kết quả được trình bày ở bảng 4. Bảng 4. Sự phát triển đường kính trứng cá Nâu qua các đợt kiểm tra (bổ sung đơn vị kích thước trứng) Thời điểm kiểm tra NT1 NT2 NT3 Bắt đầu thí nghiệm (20/4/2020) 208,69 a ± 20,20 213,83 a ± 22,42 225,93 a ± 21,47 20/5/2020 247,73 a ± 26,34 236,97 a ± 26,62 281,39 a ± 32,79 20/6/2020 339,11 a ± 30,58 327,29 a ± 44,31 361,39 a ± 21,01 20/7/2020 397,30 b ± 19,40 374,98 b ± 25,53 465,48 a ± 27,76 Ghi chú: Giá trị ở bảng là TB ± SD. Các ký tự trên cùng hàng thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05). Bảng 5. Tỷ lệ thành thục của cá sau nuôi vỗ Nghiệm thức Cá cái Cá đực Số cá kiểm tra (con) Thành thục (con) Tỷ lệ thành thục (%) Số cá kiểm tra (con) Thành thục (con) Tỷ lệ thành thục (%) NT1 9 3 33,33 9 6 66,67 9 4 44,44 9 6 66,67 9 4 44,44 9 7 77,78 TB ± SD 40,74 b ± 6,41 70,37 b ± 6,41 NT2 9 2 22,22 9 6 66,67 9 3 33,33 9 5 55,56 9 4 44,44 9 5 55,56 TB ± SD 33,33 b ± 6,41 66,67 b ± 11,11 NT3 9 6 66,67 9 7 77,78 9 6 66,67 9 8 88,89 9 8 88,89 9 8 88,89 TB ± SD 74,07 a ± 11,31 85,19 a ± 2,14 Ghi chú: Cá thành thục: Cá cái có GSI > 8% và đường kính trứng > 400µm; cá đực GSI > 1,5% có tinh trùng vận động nhanh; phân bố đều; Các ký tự trên cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05). Ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác nhau đến thành thục sinh dục của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) 892 Bảng 6. Sức sinh sản của cá nâu Mô hình nuôi Khối lượng cơ thể Sức sinh sản tuyệt đối (trứng/con) Sức sinh sản tương đối (trứng/g) NT1 391,1 a ± 21,2 374.773 a ± 25.931 958,0 b ± 35 NT2 403,5 a ± 34,7 381.188 a ± 52.730 941,7 b ± 52,5 NT3 398,6 a ± 15,7 429.667 a ± 35.977 1.077,0 a ± 53,6 Ghi chú: Giá trị ở bảng là TB ± SD. Ký tự trên cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05). Bảng 4 cho thấy, đường kính của trứng cá nâu tăng mạnh trong tháng nuôi thứ 2 ở tất cả các nghiệm thức, với mức tăng trưởng về đường kính trứng 28,34-38,11% so với tháng trước. Sự tăng trưởng của đường kính trứng trong hai tháng nuôi đầu tuy có sự sai khác giữa các nghiệm thức nhưng không lớn. Tuy nhiên, ở tháng nuôi thứ 3, đường kính trứng của cá nâu ở NT3 đạt cao nhất, với kích thước trung bình đạt 465,48 ± 27,76µm và tạo ra sự sai khác rõ rệt với các nghiệm thức còn lại (P <0,05). Kết quả trên cũng cho thấy, nuôi vỗ cá nâu trong lồng đặt trực tiếp trên đầm phá (NT3) là hình thức nuôi phù hợp nhất cho sự phát triển của trứng. Với đường kính trứng đạt được lớn hơn 400µm, cá nâu nuôi ở NT3 có thể tham gia sinh sản (Barry & Fast, 1988; Gandhi & cs., 2014; Nguyễn Văn Huy & cs., 2020). 3.4. Tỷ lệ thành thục sinh dục của cá nâu Qua 3 tháng nuôi vỗ cá nâu ở cả 3 nghiệm thức đều thành thục sinh dục. Tỷ lệ thành thục của cá đực ở các nghiệm thức cao hơn cá cái (Bảng 5). Bảng 5 cho thấy, tỷ lệ thành thục sinh dục có sự sai khác giữa các nghiệm thức (P <0,05). Tỷ lệ thành thục của cá nâu cái và cá nâu đực đạt cao nhất ở NT3 với 74,07% cá cái và 85,19% cá đực thành thục. Trong khi đó, cá nâu cái khi nuôi vỗ trong ao và trong bể có tỷ lệ thành thục tương ứng lần lượt là 40,74% và 33,33%; của cá nâu đực là 70,73% và 66,67%. Với kết quả trên cho thấy, cá nâu bố mẹ có thể thành thục sinh dục trong các điều kiện sinh thái nuôi vỗ khác nhau, trong đó hình thức nuôi vỗ trong lồng đặt ở đầm phá (NT3) là hình thức nuôi phù hợp nhất. 3.5. Sức sinh sản của cá nâu Bảng 6 cho thấy, sức sinh sản tuyệt đối của cá nâu nuôi vỗ ở các điều kiện sinh thái khác nhau không có sự sai khác (P >0,05). Sức sinh sản tuyệt đối trung bình của cá thay đổi từ 374.773 ± 25.931 đến 429.667 ± 35.977 trứng/cá thể. Trong khi đó, sức sinh sản tương đối ở khi nuôi vỗ trên đầm phá cao nhất và có sự sai khác với nghiệm thức nuôi vỗ trong ao và trong bể (P <0,05). Điều này chứng tỏ khi nuôi trên đầm phá, trứng của cá phát triển và chín đồng đều hơn so với nuôi trong ao và bể. Kết quả trên cho thấy sức sinh sản tuyệt đối và tương đối của cá nâu ở nghiên cứu này thấp hơn cá nâu khai thác ở Cà Mau (519.547 237.776 trứng/cá cái và 1.915.579 880.509 trứng/kg cá cái) của tác giả (Nguyễn Thanh Phương & cs., 2005). Gandhi & cs. (2014) cho rằng, sức sinh sản tuyệt đối của cá nâu phụ thuộc vào kích thước cơ thể, cá càng to sức sinh sản càng lớn, đối với cá có khối lượng cơ thể dao động từ 300-450 g, sức sinh sản cũng dao động trong khoảng 300.000-400.000 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối ở trong nghiên cứu này gần tương đương với công bố của Su & cs. (2019) khoảng 1.200 trứng/g. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. Kết luận Cá nâu là loài dễ nuôi, chúng có thể thành thục sinh dục khi nuôi trong ao, trong bể và trong lồng trên đầm phá. Mặc dù vậy, nuôi vỗ trên đầm phá cho hệ số thành thục và đường kính của trứng cao hơn nuôi trong ao và bể. 4.2. Kiến nghị Tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật nuôi vỗ thành thục cá nâu phù hợp với điều kiện thời tiết của Nguyễn Văn Huy, Võ Điều, Võ Đức Nghĩa 893 tỉnh Thừa Thiên Huế nhằm hạn chế ảnh hưởng của lũ lụt, chủ động nguồn cá nâu bố mẹ cho sản xuất giống nhân tạo góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất giống loài cá có giá trị kinh tế này. LỜI CẢM ƠN Tác giả chân thành cảm ơn sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế đã tài trợ cho nghiên cứu này (TTH.2018-KC.02). TÀI LIỆU THAM KHẢO Asturiano Juan (2000). Hormonal regulation of the European sea bass reproductive cycle: an individualized female approach. Journal of Fish Biology. 56: 1155-1172. Barry T.P. & Fast A.W. (1992). Biology of spotted scat (Scatophagus argus) in the Philippines. Asian fishseries science. pp. 163-179. Barry T.P. & Fast A.W. (1988). Spawning induction and pond culture of the spotted scat (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) in the Philippines. Technical Report no. 39, Mariculture Research and Training Centre, Hawaii Institute of Marine Biology. Cui Dan, Zhiwei Liu, Nanxi Liu, Yingying Zhang & Junbin Zhang (2013). Histological study on the gonadal development of Scatophagus argus. Journal of Fisheries of China. 37: 696. Gandhi V., Venkatesan V. & Ramamoorthy N. (2014). Reproductive biology of the spotted scat Scatophagus argus (Linnaeus, 1766) from Mandapam waters, south-east coast of India, Indian J. Fish. 61(4): 55-59. Lý Văn Khánh, Trần Ngọc Hải & Nguyễn Thanh Phương (2010). Nghiên cứu biện pháp kích thích cá nâu (Scatophagus argus) sinh sản nhân tạo bằng các loại hormone khác nhau. Tạp chí Khoa học Đại học Huế. tr. 257-264. Memiþ Devrim, Çelikkale M.S. & Ertan Ercan (2007). Effects of different diets on growth performance and body composition of Russian sturgeon (Acipenser gueldenstaedtii, Brandt & Ratzenburg, 1833). Journal of Applied Ichthyology. 22: 287-290. Nandikeswari R., Sambasivam M. & Anandan V. (2014). Estimation of Fecundity and Gonadosomatic Index of Terapon jarbua from Pondicherry Coast, India. World Academy of Science, Engineering and Technology, International Journal of Biological, Biomolecular, Agricultural, Food and Biotechnological Engineering. 8: 61-65. Nguyễn Thanh Phương, Võ Thành Tiếm, Trần Thị Thanh Hiền, Phạm Trần Nguyên Thảo & Lý Văn Khánh (2005). Nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng và sinh sản của cá Nâu (Scatophagus argus, Linnaeus 1766). Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, Trường Đại học cần thơ. (2): 51-59. Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Anh Tuấn, Võ Đức Nghĩa, Nguyễn Đức Thành & Huỳnh Tấn Xinh (2020). Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1766) trong điều kiện nuôi lồng tại Thừa Thiên Huế. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 1: 123-131. Peter R.E. & Yu K.L. (1997). Neuroendocrine regulation of ovulation in fishes: basic and applied aspects. Reviews in Fish Biology and Fisheries. 7(2): 173-197. Shafi Shaheena (2012). Study on fecundity and GSI of Carassius carassius (Linneaus, 1758-introduced) from Dal Lake Kashmir. Journal of Biology, Agriculture and Healthcare. 2: 68-75. Stacey Norm (2003). Hormones, pheromones and reproductive behavior. Fish physiology and biochemistry. 28: 229-235. Su Maoliang, Zhengyu Duan, Hongwei Shi & Junbin Zhang (2019). The effects of salinity on reproductive development and egg and larvae survival in the spotted scat Scatophagus argus under controlled conditions. Aquaculture Research. Takemura A., Rahman M.S. & Park Y.J. (2010). External and internal controls of lunar-related reproductive rhythms in fishes. Journal of Fish Biology. 76(1): 7-26. Takemura Akihiro, Rena Oya, Yoriko Shibata, Yoko Enomoto, Miyuki Uchimura & Shigeo Nakamura (2008). Role of the Tidal Cycle in the Gonadal Development and Spawning of the Tropical Wrasse Halichoeres trimaculatus. Zoological science. 25: 572-579. Taylor John, Hervé Migaud, Porter M. & Bromage N. (2005). Photoperiod influences growth rate and insulin-like growth factor-I (IGF-I) levels in juvenile rainbow trout. General and Comparative Endocrinology. 142: 169-185.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_cac_dieu_kien_sinh_thai_khac_nhau_den_thanh_th.pdf