Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm

Trước sự phát triển có tính bước

ngoặt của tình hình đất nước do tác

động trực tiếp của các sự kiện lịch sử

“Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không

năm 1972” mười hai ngày đêm ở Hà Nội

và “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,

lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký

kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973 tại

Paris, ngày 06/3/1973 Chủ nhiệm ủy

ban KHXH Việt Nam với tầm nhìn

chiến lược đã ký quyết định thành lập

Ban Thông tin KHXH trực thuộc ủy

ban. Chánh Văn phòng, Tổng Thư ký

Hội đồng khoa học của ủy ban, đồng chí

Võ Hồng Cương - được bổ nhiệm làm

Trưởng ban, đồng chí Hoàng Vĩ Nam -

làm Phó Trưởng ban.

Một tuần lễ sau sự kiện lịch sử

30/4/1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng

thay mặt Hội đồng Chính phủ đã ký

Quyết định số 93/CP ngày 08/5/1975 về

việc thành lập Viện Thông tin KHXH

trực thuộc ủy ban, trên cơ sở thống

nhất Thư viện KHXH và Ban Thông tin

KHXH. Quyết định ghi rõ: “Viện có chức

năng nghiên cứu, thông báo, cung cấp

tin tức và tư liệu về khoa học xã hội cho

các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các

tổ chức quần chúng có trách nhiệm đối

với công tác khoa học xã hội”. Đây là

văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà

nước Việt Nam về thông tin KHXH,

đánh dấu bước chuyển biến lớn của

nhận thức về sự cần thiết của công tác

thông tin khoa học, đồng thời cũng cho

thấy sự quan tâm, tin cậy và đòi hỏi của

nhân dân và lãnh đạo đất nước đối với

cơ quan thông tin KHXH trong công

cuộc phát triển và bảo vệ đất nước sau

chiến tranh.

 

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 1

Trang 1

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 2

Trang 2

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 3

Trang 3

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 4

Trang 4

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 5

Trang 5

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 6

Trang 6

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 7

Trang 7

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 8

Trang 8

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 9

Trang 9

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 8360
Bạn đang xem tài liệu "Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm

Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm
Viện Thông tin khoa học xã hội 40 năm. 
Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm 
Lại Văn Toàn(*) 
I. Những quyết định lịch sử phản ánh xu thế thời đại 
Tr−ớc sự phát triển có tính b−ớc 
ngoặt của tình hình đất n−ớc do tác 
động trực tiếp của các sự kiện lịch sử 
“Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 
năm 1972” m−ời hai ngày đêm ở Hà Nội 
và “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, 
lập lại hòa bình ở Việt Nam” đ−ợc ký 
kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973 tại 
Paris, ngày 06/3/1973 Chủ nhiệm ủy 
ban KHXH Việt Nam với tầm nhìn 
chiến l−ợc đã ký quyết định thành lập 
Ban Thông tin KHXH trực thuộc ủy 
ban. Chánh Văn phòng, Tổng Th− ký 
Hội đồng khoa học của ủy ban, đồng chí 
Võ Hồng C−ơng - đ−ợc bổ nhiệm làm 
Tr−ởng ban, đồng chí Hoàng Vĩ Nam - 
làm Phó Tr−ởng ban. 
Một tuần lễ sau sự kiện lịch sử 
30/4/1975, Thủ t−ớng Phạm Văn Đồng 
thay mặt Hội đồng Chính phủ đã ký 
Quyết định số 93/CP ngày 08/5/1975 về 
việc thành lập Viện Thông tin KHXH 
trực thuộc ủy ban, trên cơ sở thống 
nhất Th− viện KHXH và Ban Thông tin 
KHXH. Quyết định ghi rõ: “Viện có chức 
năng nghiên cứu, thông báo, cung cấp 
tin tức và t− liệu về khoa học xã hội cho 
các cơ quan của Đảng, Nhà n−ớc và các 
tổ chức quần chúng có trách nhiệm đối 
với công tác khoa học xã hội”. Đây là 
văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà 
n−ớc Việt Nam về thông tin KHXH, 
đánh dấu b−ớc chuyển biến lớn của 
nhận thức về sự cần thiết của công tác 
thông tin khoa học, đồng thời cũng cho 
thấy sự quan tâm, tin cậy và đòi hỏi của 
nhân dân và lãnh đạo đất n−ớc đối với 
cơ quan thông tin KHXH trong công 
cuộc phát triển và bảo vệ đất n−ớc sau 
chiến tranh. (*) 
Điểm qua đôi nét nh− vậy về bối 
cảnh ra đời của Viện là để hiểu rõ thêm 
về nguyên nhân hối thúc việc thành lập 
Viện, về lý do tồn tại của Viện với t− 
cách là cơ quan thông tin KHXH trong 
đời sống khoa học và chính trị của cả 
n−ớc mà lãnh đạo ủy ban KHXH Việt 
Nam và Nhà n−ớc ta đã nhìn xa thấy 
tr−ớc: Đất n−ớc sau chiến tranh cần rất 
nhiều thông tin khoa học về thế giới và 
cũng rất cần có nhiều thông tin về đất 
n−ớc gửi ra thế giới, đến với bạn bè, các 
n−ớc! 
L−u ý đến thời điểm lịch sử Viện ra 
đời còn là để gợi nhớ và hình dung cụ 
thể những khó khăn mà lãnh đạo và lớp 
(*) GS.TS., Nguyên Viện tr−ởng Viện Thông tin 
KHXH. 
Viện Thông tin Khoa học xã hội 40 năm 27 
cán bộ đầu tiên của Viện đã v−ợt qua. 
Ngoài những khó khăn của thời “bao 
cấp” mà nhân dân cả n−ớc đều phải 
gánh chịu sau chiến tranh, họ còn phải 
đối mặt với những khó khăn của việc 
thực hiện lần đầu tiên ở n−ớc ta mô 
hình thống nhất th− viện với thông tin, 
và đặc biệt là khó khăn phải chiếm lĩnh 
một lĩnh vực khoa học còn mới mẻ là 
thông tin học. 
Thống nhất hai tổ chức đ−ợc hoạt 
động theo các chức năng, nhiệm vụ và 
mục tiêu khác nhau là không đơn giản. 
Cần phải có thời gian; có biết bao việc 
phải làm và làm theo cách mới, nhiều 
việc phải làm mới từ đầu; phải chỉnh 
đốn, sắp xếp, tổ chức lại tất cả từ chức 
năng, nhiệm vụ, mục tiêu đến ph−ơng 
thức hoạt động và hình thức phục vụ... 
sao cho phù hợp với chức năng, nhiệm 
vụ... mới của một cơ quan thông tin 
KHXH. Vốn t− liệu về KHXH, chẳng 
hạn, phải đ−ợc xây dựng theo yêu cầu 
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của 
thông tin nhằm tạo ra các dòng tin có 
giá trị khoa học cao, hệ thống và có cơ 
cấu hợp lý, đáp ứng trúng yêu cầu và 
đúng nhu cầu thông tin của ng−ời dùng 
tin là các nhà hoạch định đ−ờng lối, 
chính sách của Đảng và Nhà n−ớc, các 
cơ sở nghiên cứu KHXH. Vốn t− liệu 
sách báo về KHXH khi đó sẽ trở nên 
“sống động” hơn, đ−ợc khai thác có hiệu 
quả hơn, góp phần đáp ứng kịp thời và 
đầy đủ hơn nhu cầu của ng−ời dùng tin. 
Nh−ng cần phải có sự chỉ đạo thống 
nhất về mặt khoa học. Đề cập đến khó 
khăn gặp phải khi thực hiện mô hình 
thống nhất th− viện và thông tin, Viện 
tr−ởng Hoàng Vĩ Nam trong báo cáo 
tổng kết m−ời năm tr−ởng thành của 
Viện (1975-1985) viết: “Chúng ta đã 
phải trải qua phần lớn thời gian trạng 
thái cộng sinh giữa th− viện và thông 
tin”; sự thống nhất “bằng một quyết 
định chỉ mới có nghĩa là thống nhất về 
mặt tổ chức”; “giai đoạn đầu của quá 
trình đó không thể tránh khỏi là thời kỳ 
cộng sinh, thời kỳ sống trong sự liên hệ 
chặt chẽ với nhau một cách cân đối và 
cả hai bên đều nghĩ đến mình hơn đến 
ng−ời” (Hoàng Vĩ Nam, 1985, tr.3). 
Và còn một khó khăn khác nữa đặc 
tr−ng cho lớp ng−ời mở đ−ờng và cũng 
không thể giải quyết trong ngày một 
ngày hai. Nh− đã nhắc đến ở trên, đó là 
việc chiếm lĩnh lĩnh vực thông tin học 
vốn còn mới mẻ đối với n−ớc ta 40 năm 
về tr−ớc. V−ợt qua khó khăn này không 
thể chỉ bằng “ý chí”, “nhiệt tình cách 
mạng”, mà cần phải có cả tri thức. Không 
có cách nào khác là phải học, vừa học vừa 
làm - học để làm, vừa làm vừa học - làm 
ngay trong khi đang học, học đến đâu làm 
đến đó. Quả thực là gian khổ nh−ng đó là 
cách mà lớp ng−ời mở đ−ờng của Viện đã 
thực hiện thành công, chẳng những đã 
chứng minh và chứng m ... u đề 
là Thông tin chuyên ngành, S−u tập 
chuyên đề hay Cái mới trong KHXH, 
Niên giám thông tin KHXH,v.v... 
Nét nổi bật của Viện trong thời gian 
qua là luôn tập trung làm tốt chức năng 
thông tin phục vụ lãnh đạo, thông tin 
mũi nhọn phục vụ những nhu cầu thời 
sự trong mối quan hệ hài hòa với thông 
tin phục vụ nghiên cứu - thông tin về các 
vấn đề lý luận cơ bản, 
Nh− chúng ta biết, Đảng lãnh đạo 
bằng đ−ờng lối, chủ tr−ơng đ−ợc thể chế 
hóa thành pháp luật và chính sách quản 
lý và phát triển đất n−ớc. 
Hoạch định đ−ờng lối chiến l−ợc, 
chủ tr−ơng, các ch−ơng trình phát triển 
kinh tế - xã hội là lĩnh vực lao động 
sáng tạo, nghiêm túc và có trách nhiệm 
rất cao, vừa là khoa học vừa là nghệ 
thuật tổng kết thực tiễn kết hợp với 
nghiên cứu lý luận. Đ−ờng lối đổi mới, 
chẳng hạn, là kết tinh trí tuệ của Đảng 
và của toàn thể nhân dân ta đ−ợc thể 
hiện tập trung tại Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ VI của Đảng, cũng là sự 
phản ánh sâu sắc tình hình đất n−ớc 
lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội 
trầm trọng ở thời kỳ sau chiến tranh; là 
thành quả của đổi mới t− duy lý luận - 
của t− duy mới tôn trọng quy luật khách 
quan, nhận thức và hành động theo quy 
luật khách quan; cũng là kết quả của sự 
tìm tòi, bám sát thực tế, nghiên cứu và 
tổng kết thực tiễn theo yêu cầu của cách 
tiếp cận “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ 
sự thật”. Chỉ có bám sát thực tiễn theo 
cách nh− vậy mới có thể rút ra đ−ợc kết 
luận đủ tin cậy làm căn cứ cho việc 
hoạch định và chỉ đạo thực hiện thành 
công đ−ờng lối đổi mới. Công cuộc đổi 
mới trong suốt 30 năm qua đạt đ−ợc 
những thành quả to lớn mà giờ đây 
Đảng ta và nhân dân ta đang tổng kết 
và ch−a hẳn đã thấy hết ngay đ−ợc giá 
trị to lớn của đ−ờng lối đổi mới mà Đảng 
ta là ng−ời khởi x−ớng và trực tiếp chỉ 
đạo thực hiện, là tạo nên sức bật của cả 
dân tộc, không chỉ trong lĩnh vực đổi 
mới t− duy kinh tế mà còn cả trong 
nhiều lĩnh vực khác nữa. 
Cũng nh− bất kỳ một hoạt động 
sáng tạo nào khác, sáng tạo đ−ờng lối 
đòi hỏi đ−ợc cung cấp những thông tin 
kịp thời và chính xác. Đó là những luận 
cứ khoa học và những thông tin - kết 
luận rút ra từ sự tổng kết thực tiễn phát 
triển mới nhất của đời sống hiện thực. 
Trong xây dựng và thực hiện đ−ờng 
lối chiến l−ợc, thông tin KHXH giữ một 
vai trò t−ơng tự nh− đối với hoạt động 
nghiên cứu phát triển khoa học. 
Thông tin KHXH không phải là tất 
cả nh−ng chiếm một tỷ trọng không nhỏ 
và quan trọng trong các kênh cung cấp 
thông tin chiến l−ợc mang tầm quốc 
sách, phục vụ sự hình thành và xây 
dựng các quan điểm chỉ đạo định h−ớng 
phát triển, xác định mục tiêu chiến l−ợc, 
phân tích thực trạng tình hình phát 
triển kinh tế - xã hội, các nguồn lực, 
nhất là nguồn lực con ng−ời, lựa chọn 
các giải pháp,v.v..., tức là góp phần “vào 
việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực 
tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung 
32 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2015 
cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch 
định đ−ờng lối chủ tr−ơng, chính sách 
phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng 
sản Việt Nam, 2001, tr.112). 
Việc thực hiện thành công đ−ờng lối 
chiến l−ợc đòi hỏi hoạt động tự giác của 
đông đảo các tầng lớp nhân dân, dựa 
trên một sự nhận biết và quán triệt đầy 
đủ các mục tiêu và nhiệm vụ - nội dung 
cơ bản của đ−ờng lối, chiến l−ợc phát 
triển. Phục vụ đ−ờng lối, thông tin 
KHXH tuy không trực tiếp sản sinh ra 
tri thức mới - “luận cứ khoa học” - 
nh−ng, nh− đã trình bày, lại giữ một vai 
trò rất quan trọng trong sự hình thành 
tri thức và nhất là trong khai thác, dẫn 
truyền, phổ biến, đ−a nội dung đ−ờng 
lối, chiến l−ợc phát triển vào đời sống 
xã hội - làm rõ những mục tiêu và 
nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ 
trọng tâm đ−ợc đề ra trong đ−ờng lối, 
chiến l−ợc phát triển. Việc hoạch định 
đ−ờng lối chiến l−ợc đúng đắn có ý 
nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây 
dựng và bảo vệ, phát triển đất n−ớc, 
nh−ng ch−a phải là tất cả. Tổ chức lực 
l−ợng xã hội thành phong trào thực 
tiễn thực hiện thành công đ−ờng lối 
chiến l−ợc trong cuộc sống có ý nghĩa 
quyết định không thua kém. Thực hiện 
nhiệm vụ phổ biến, đ−a đ−ờng lối chiến 
l−ợc vào đời sống hiện thực có ý nghĩa 
to lớn nh− vậy, thông tin KHXH vừa 
khai thác, vừa gia nhập vào việc tổ 
chức các dòng tin khoa học phục vụ kịp 
thời lãnh đạo. 
Năm 1991, tại Đại hội VII, Đảng ta 
lần đầu tiên khẳng định nền kinh tế 
n−ớc ta là “nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần theo định h−ớng xã hội chủ 
nghĩa vận hành theo cơ chế thị tr−ờng có 
sự quản lý của Nhà n−ớc”. Sau đó tại Đại 
hội VIII (1996), Đảng ta lại khẳng định: 
“tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều 
thành phần vận hành theo cơ chế thị 
tr−ờng có sự quản lý của Nhà n−ớc theo 
định h−ớng xã hội chủ nghĩa” (Đảng 
Cộng sản Việt Nam, 1996, tr.168). 
Vậy là từ đầu những năm 1990, vấn 
đề kinh tế thị tr−ờng, trên thực tế, đã 
đ−ợc Đảng ta chính thức đặt ra. Đây là 
vấn đề lý luận cơ bản, đồng thời cũng là 
vấn đề mũi nhọn cần thu thập thông 
tin, nh− một nhiệm vụ cấp bách mang 
tính thời sự phải tập trung nghiên cứu, 
thông tin. 
Khái niệm “kinh tế thị tr−ờng” 
không mới và cũng nh− bất kỳ một khái 
niệm, phạm trù kinh tế học nào khác, 
luôn vận động và nảy sinh thêm những 
khía cạnh mới, nh−ng lại là rất mới (và 
thậm chí lúc đầu ít nhiều còn “bị thành 
kiến”) đối với những n−ớc nhiều năm đã 
gắn bó với kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung hay vừa mới bắt đầu quá trình 
chuyển đổi sang kinh tế thị tr−ờng. 
Nhận thức đ−ợc tầm quan trọng cả 
về ph−ơng diện lý luận và thực tiễn, xuất 
phát từ trách nhiệm là cơ quan thông tin 
KHXH, Viện đã tổ chức nghiên cứu, thu 
thập và xử lý thông tin nhằm làm rõ nội 
hàm khoa học của khái niệm này và 
nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn liên 
quan. Kết quả là, Viện đã kịp thời đ−a 
ra phục vụ một loạt S−u tập chuyên đề 
về kinh tế thị tr−ờng, đáp ứng kịp thời 
nhu cầu nghiên cứu của các đối t−ợng 
ng−ời dung tin gồm các nhà khoa học và 
lãnh đạo n−ớc ta trong những năm 
1990, nh−: Kinh tế thị tr−ờng: Thực chất 
và triển vọng (1992), Quan hệ sở hữu 
trong kinh tế thị tr−ờng (1993), Đạo đức 
trong kinh tế thị tr−ờng (1995), Cơ chế 
thị tr−ờng và các vấn đề xã hội (1997), 
Viện Thông tin Khoa học xã hội 40 năm 33 
Tệ nạn xã hội (trong kinh tế thị 
tr−ờng): Căn nguyên, biểu hiện, ph−ơng 
thức khắc phục (1997), Vai trò của nhà 
n−ớc trong kinh tế thị tr−ờng (1998), 
Thị tr−ờng lao động trong kinh tế thị 
tr−ờng (1999), Nông thôn trong kinh tế 
thị tr−ờng (1999)... cùng với hàng trăm 
bài viết - nghiên cứu mới của các học 
giả n−ớc ngoài và các nhà nghiên cứu 
trong n−ớc về các khía cạnh lý luận, về 
kinh nghiệm thực tiễn đã đ−ợc các n−ớc 
tổng kết một cách khoa học về chủ đề 
lớn này. 
Đây không hẳn là thông tin lý luận 
cơ bản, cũng không thể khẳng định đây 
là thông tin mũi nhọn - phục vụ nhu cầu 
thời sự hay nhiệm vụ cấp thiết, mà thực 
chất đây vừa là thông tin nghiên cứu lý 
luận cơ bản vừa là thông tin mũi nhọn. 
2. Thông tin khoa học phục vụ lãnh 
đạo là nhiệm vụ, là trách nhiệm và cũng 
là niềm tự hào, niềm vui của đội ngũ 
cán bộ của Viện trong suốt 40 năm qua. 
Phấn khởi biết bao đối với những 
ng−ời làm công tác thông tin khoa học 
khi thấy thành quả lao động của mình 
đáp ứng đ−ợc nhu cầu tin của các cơ 
quan lãnh đạo của Đảng, Nhà n−ớc các 
cấp, góp phần cung cấp những luận 
điểm, những vấn đề mới mà lý luận và 
tình hình thực tiễn phát triển đặt ra. 
Nhiều cán bộ của Viện đến nay vẫn còn 
nhớ, cuối những năm 1980 - đầu những 
năm 1990, mô hình XHCN bị sụp đổ ở 
các n−ớc Đông Âu và Liên bang Xô Viết 
bị tan vỡ. Cùng với những thông tin 
tổng quan về nguyên nhân dẫn đến sự 
biến lịch sử khiến cả thế giới (ph−ơng 
Đông cũng nh− ph−ơng Tây) bất ngờ 
này, Viện đã tổ chức dịch và phổ biến 
theo chế độ “tài liệu mật” cuốn Thất bại 
lớn: Sự ra đời và cái chết của chủ nghĩa 
cộng sản trong thế kỷ XX của Z. 
Brzezinski (1992) và cuốn Đế chế tan vỡ: 
Cuộc nổi dậy của các dân tộc ở Liên Xô 
của H. C. d’ Encausse (1993). 
Riêng cuốn Thất bại lớn: Sự ra đời 
và cái chết của chủ nghĩa cộng sản trong 
thế kỷ XX của Z. Brzezinski, theo gợi ý 
và tạo điều kiện (kể cả một phần kinh 
phí) của Văn phòng Trung −ơng, Viện 
đã cung cấp - phục vụ theo chế độ trách 
nhiệm về sử dụng tài liệu mật của Viện 
thời đó - gửi đến 146 ủy viên trung 
−ơng đang họp Hội nghị Trung −ơng 4 
Khóa VII (tại Hà Nội, tháng 1/1993), 
sau đó gửi thêm tới Tổng Bí th− Đỗ 
M−ời 10 bản (theo yêu cầu và qua Văn 
phòng Tổng Bí th−) và gửi 5 bản đến cố 
vấn Nguyễn Văn Linh (theo đề nghị của 
đồng chí). Tất cả 161 bản này đều phục 
vụ miễn phí và đ−ợc đánh số sử dụng do 
Văn phòng Trung −ơng chịu trách 
nhiệm quản lý. Với cuốn sách này, Viện 
cung cấp thêm những thông tin dự báo 
từ cách tiếp cận mới của một nhà lý 
luận ph−ơng Tây, từng là cố vấn về an 
ninh của Tổng thống Mỹ, về “các nhân 
tố quy định cuộc khủng hoảng và sụp đổ 
mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết”. 
Tính đến năm 2001, Viện đã khẳng 
định đ−ợc vai trò của mình trong hệ 
thống thông tin khoa học phục vụ lãnh 
đạo. Vì vậy, cuối tháng 12/2001, Viện 
đ−ợc Th−ờng trực Ban Bí th− Trung 
−ơng Đảng giao cho nhiệm vụ là một 
trong ba đầu mối của Trung tâm 
KHXH&NV Quốc gia cung cấp các 
thông tin chiến l−ợc phục vụ Ban Bí th− 
Trung −ơng. 
Phòng Thông tin chiến l−ợc đ−ợc 
thành lập lúc đầu do Viện tr−ởng trực 
tiếp phụ trách. Ngoài một số cán bộ cơ 
hữu của phòng, Viện đã thực hiện chế 
34 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2015 
độ cộng tác viên linh hoạt về những vấn 
đề liên quan. Nhờ vậy bắt đầu từ tháng 
2/2002 Viện đã có thể gửi tới Ban Bí th− 
(qua Văn phòng Trung −ơng) những 
thông tin d−ới hình thức các tổng thuật 
phân tích, kèm theo các kiến nghị đ−ợc 
rút ra từ xử lý các tài liệu Viện có hay 
đ−ợc Văn phòng Trung −ơng cung cấp. 
Đó là thông tin về chiến l−ợc của các 
n−ớc lớn, về đối sách của các n−ớc đối 
với toàn cầu hóa, về an ninh quốc gia, về 
những vấn đề và kinh nghiệm phòng 
chống tham nhũng ở các n−ớc nh− 
Singapore, Trung Quốc,v.v... 
3. Về mối quan hệ giữa thông tin và 
nghiên cứu - nghiên cứu và thông tin. 
Xét cả về cơ chế tác động lẫn tính 
mục đích, hoạt động thông tin khoa học 
và hoạt động nghiên cứu khoa học luôn 
kết gắn mật thiết với nhau trong một 
thể thống nhất là quá trình tạo tri thức 
khoa học. Nghiên cứu khoa học bao giờ 
cũng đòi hỏi những thông tin chính xác, 
kịp thời nh− “sữa từ bầu sữa mẹ” vậy; 
và thông tin khoa học tuy không trực 
tiếp tạo ra tri thức mới nh−ng lại xảy ra 
nh− một khâu trong quá trình nghiên 
cứu tạo tri thức mới. (Điều này không 
phụ thuộc vào việc ai chuẩn bị, cung cấp 
thông tin cho nghiên cứu, là chính nhà 
nghiên cứu hay là ng−ời làm thông tin). 
Thêm nữa hoạt động thông tin cũng giả 
định - đòi hỏi phải nghiên cứu, bởi chỉ 
có nghiên cứu mới đ−a lại những thông 
tin khoa học chính xác. ở đây nghiên 
cứu nhằm mục đích thông tin, tr−ớc hết 
là để đ−a ra đ−ợc những tri thức - thông 
tin khoa học và có tính cập nhật đáp 
ứng trúng yêu cầu và đúng nhu cầu của 
ng−ời dùng tin là nhà quản lý, hoạt 
động thực tiễn hay là nhà khoa học. Thế 
nh−ng nghiên cứu nhằm mục đích 
thông tin phải quán triệt yêu cầu 
nghiên cứu, xử lý gấp, cung cấp kịp thời 
các kết quả nghiên cứu. Thông tin phải 
đi tr−ớc một b−ớc. 
Xét về tính mục đích, thông tin cũng 
nh− nghiên cứu đều nhằm tạo ra những 
tri thức mới. Điểm khác biệt là ở chỗ, 
hoạt động thông tin, nh− đã trình bày, 
không trực tiếp tạo ra tri thức mới, 
nh−ng quá trình nghiên cứu - tạo ra tri 
thức mới lại phải dựa vào thông tin, 
thông tin đ−ợc hiểu là điều kiện cần 
thiết phải có, là khâu cơ hữu không thể 
thiếu của quá trình tạo tri thức mới. 
Viện luôn khuyến khích và tạo điều 
kiện cho cán bộ tham gia nghiên cứu. 
Trong đội ngũ cán bộ của Viện, có nhiều 
ng−ời viết và xuất bản nhiều công trình 
nghiên cứu có giá trị, trong khi họ là 
những cán bộ làm thông tin giỏi. Nh− 
vừa trình bày ở trên, nghiên cứu chính 
là điều kiện không thể thiếu để có 
những thông tin có chất l−ợng. 
Trong điều kiện của “xã hội thông 
tin”, con ng−ời đứng tr−ớc một nghịch 
lý: trong khi chứng kiến một khối l−ợng 
thông tin tăng lên với tốc độ “bùng nổ” 
nh−ng lại “đói tri thức” nh− hai nhà dự 
báo học J. Naisbit và P. Aburdene từng 
nhận xét. Trong bối cảnh các luồng 
thông tin tăng lên nhanh chóng và có xu 
h−ớng đi vào độc tả chiều sâu chi tiết, 
gần nh− cùng đồng thời với tình trạng 
“nhiễu thông tin”. Tr−ớc tình hình đó, 
ng−ời làm thông tin không thể nào khác 
là phải có tri thức chuyên sâu và hơn 
thế, phải có thói quen t− duy logic suy 
nghĩ theo chiều sâu. Chỉ có sức mạnh 
của t− duy nh− vậy mới đủ sức phát 
hiện từ trong tổng thể các sự biến đâu là 
cái bản chất ẩn giấu sâu lắng th−ờng 
rất khó phát hiện với các hiện t−ợng bề 
Viện Thông tin Khoa học xã hội 40 năm 35 
ngoài dễ nhận biết ngay cả với t− duy 
nhận thức nông cạn - để từ đó đ−a lại 
“thông tin - tri thức”, phân biệt với 
thông tin không mới thậm chí là “thông 
tin nhiễu” gây trở ngại. 
Hẳn sẽ không quá lời nếu cho rằng 
thông tin khoa học là một chuyên ngành 
khoa học nghiêm túc, sáng tạo và cũng 
gian khổ không thua kém so với hoạt 
động nghiên cứu khoa học  
Tài liệu tham khảo 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
3. Hoàng Vĩ Nam (1985), “M−ời năm 
trr−ởng thành của Viện Thông tin 
khoa học xã hội“, Tạp chí Thông tin 
KHXH, số 7. 
4. Nguyễn Khánh Toàn (1980), “Phát 
triển công tác thông tin khoa học xã 
hội, phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ 
cách mạng trong giai doạn tr−ớc 
mắt”, Tạp chí Thông tin KHXH, số 1. 
(Tiếp theo trang 61) 
Bên cạnh đó, từng ng−ời có thể có 
thêm một kế hoạch học tập, bồi d−ỡng 
ngoại ngữ thực sự, phải đ−ợc trù tính 
một cách lâu dài. Tất nhiên, nói đến 
chuyện học thêm hay tự học ngoại ngữ 
là nói đến một nỗ lực v−ợt gian khó thực 
sự, đòi hỏi rất nhiều khó nhọc. Nh−ng, 
vì hiệu quả của công tác thông tin khoa 
học, không có cách nào khác. Về mặt 
này, thế hệ chúng tôi có thể có không ít 
kinh nghiệm hữu ích với các cán bộ trẻ. 
Việc học ngoại ngữ, tr−ớc hết là 
việc của cá nhân tự học, nh−ng cũng 
rất bổ ích và cần thiết nữa có sự hỗ trợ 
của tập thể, của tổ chức, thông qua 
những hình thức động viên, tập hợp, 
những cố gắng gây không khí, gây 
phong trào, tạo điều kiện,... 
Trên đây là một vài ý kiến rút ra từ 
những năm tháng tôi làm việc ở Viện 
Thông tin KHXH, vừa gắn liền với sự 
vận hành công việc tập thể ở cơ quan, 
vừa là kinh nghiệm cá nhân. Tất nhiên, 
do phạm vi một bài viết, tôi chỉ bày tỏ 
đ−ợc rất ít trong số những điều muốn 
bày tỏ. Và rất mong có những dịp để 
tiếp tục trao đổi xung quanh chủ đề của 
bài viết này  

File đính kèm:

  • pdfvien_thong_tin_khoa_hoc_xa_hoi_40_nam_doi_dieu_nho_lai_va_su.pdf