Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm
Trước sự phát triển có tính bước
ngoặt của tình hình đất nước do tác
động trực tiếp của các sự kiện lịch sử
“Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không
năm 1972” mười hai ngày đêm ở Hà Nội
và “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký
kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973 tại
Paris, ngày 06/3/1973 Chủ nhiệm ủy
ban KHXH Việt Nam với tầm nhìn
chiến lược đã ký quyết định thành lập
Ban Thông tin KHXH trực thuộc ủy
ban. Chánh Văn phòng, Tổng Thư ký
Hội đồng khoa học của ủy ban, đồng chí
Võ Hồng Cương - được bổ nhiệm làm
Trưởng ban, đồng chí Hoàng Vĩ Nam -
làm Phó Trưởng ban.
Một tuần lễ sau sự kiện lịch sử
30/4/1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
thay mặt Hội đồng Chính phủ đã ký
Quyết định số 93/CP ngày 08/5/1975 về
việc thành lập Viện Thông tin KHXH
trực thuộc ủy ban, trên cơ sở thống
nhất Thư viện KHXH và Ban Thông tin
KHXH. Quyết định ghi rõ: “Viện có chức
năng nghiên cứu, thông báo, cung cấp
tin tức và tư liệu về khoa học xã hội cho
các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các
tổ chức quần chúng có trách nhiệm đối
với công tác khoa học xã hội”. Đây là
văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam về thông tin KHXH,
đánh dấu bước chuyển biến lớn của
nhận thức về sự cần thiết của công tác
thông tin khoa học, đồng thời cũng cho
thấy sự quan tâm, tin cậy và đòi hỏi của
nhân dân và lãnh đạo đất nước đối với
cơ quan thông tin KHXH trong công
cuộc phát triển và bảo vệ đất nước sau
chiến tranh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Viện thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm
Viện Thông tin khoa học xã hội 40 năm. Đôi điều nhớ lại và suy ngẫm Lại Văn Toàn(*) I. Những quyết định lịch sử phản ánh xu thế thời đại Tr−ớc sự phát triển có tính b−ớc ngoặt của tình hình đất n−ớc do tác động trực tiếp của các sự kiện lịch sử “Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không năm 1972” m−ời hai ngày đêm ở Hà Nội và “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đ−ợc ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973 tại Paris, ngày 06/3/1973 Chủ nhiệm ủy ban KHXH Việt Nam với tầm nhìn chiến l−ợc đã ký quyết định thành lập Ban Thông tin KHXH trực thuộc ủy ban. Chánh Văn phòng, Tổng Th− ký Hội đồng khoa học của ủy ban, đồng chí Võ Hồng C−ơng - đ−ợc bổ nhiệm làm Tr−ởng ban, đồng chí Hoàng Vĩ Nam - làm Phó Tr−ởng ban. Một tuần lễ sau sự kiện lịch sử 30/4/1975, Thủ t−ớng Phạm Văn Đồng thay mặt Hội đồng Chính phủ đã ký Quyết định số 93/CP ngày 08/5/1975 về việc thành lập Viện Thông tin KHXH trực thuộc ủy ban, trên cơ sở thống nhất Th− viện KHXH và Ban Thông tin KHXH. Quyết định ghi rõ: “Viện có chức năng nghiên cứu, thông báo, cung cấp tin tức và t− liệu về khoa học xã hội cho các cơ quan của Đảng, Nhà n−ớc và các tổ chức quần chúng có trách nhiệm đối với công tác khoa học xã hội”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà n−ớc Việt Nam về thông tin KHXH, đánh dấu b−ớc chuyển biến lớn của nhận thức về sự cần thiết của công tác thông tin khoa học, đồng thời cũng cho thấy sự quan tâm, tin cậy và đòi hỏi của nhân dân và lãnh đạo đất n−ớc đối với cơ quan thông tin KHXH trong công cuộc phát triển và bảo vệ đất n−ớc sau chiến tranh. (*) Điểm qua đôi nét nh− vậy về bối cảnh ra đời của Viện là để hiểu rõ thêm về nguyên nhân hối thúc việc thành lập Viện, về lý do tồn tại của Viện với t− cách là cơ quan thông tin KHXH trong đời sống khoa học và chính trị của cả n−ớc mà lãnh đạo ủy ban KHXH Việt Nam và Nhà n−ớc ta đã nhìn xa thấy tr−ớc: Đất n−ớc sau chiến tranh cần rất nhiều thông tin khoa học về thế giới và cũng rất cần có nhiều thông tin về đất n−ớc gửi ra thế giới, đến với bạn bè, các n−ớc! L−u ý đến thời điểm lịch sử Viện ra đời còn là để gợi nhớ và hình dung cụ thể những khó khăn mà lãnh đạo và lớp (*) GS.TS., Nguyên Viện tr−ởng Viện Thông tin KHXH. Viện Thông tin Khoa học xã hội 40 năm 27 cán bộ đầu tiên của Viện đã v−ợt qua. Ngoài những khó khăn của thời “bao cấp” mà nhân dân cả n−ớc đều phải gánh chịu sau chiến tranh, họ còn phải đối mặt với những khó khăn của việc thực hiện lần đầu tiên ở n−ớc ta mô hình thống nhất th− viện với thông tin, và đặc biệt là khó khăn phải chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học còn mới mẻ là thông tin học. Thống nhất hai tổ chức đ−ợc hoạt động theo các chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau là không đơn giản. Cần phải có thời gian; có biết bao việc phải làm và làm theo cách mới, nhiều việc phải làm mới từ đầu; phải chỉnh đốn, sắp xếp, tổ chức lại tất cả từ chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu đến ph−ơng thức hoạt động và hình thức phục vụ... sao cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ... mới của một cơ quan thông tin KHXH. Vốn t− liệu về KHXH, chẳng hạn, phải đ−ợc xây dựng theo yêu cầu thực hiện chức năng và nhiệm vụ của thông tin nhằm tạo ra các dòng tin có giá trị khoa học cao, hệ thống và có cơ cấu hợp lý, đáp ứng trúng yêu cầu và đúng nhu cầu thông tin của ng−ời dùng tin là các nhà hoạch định đ−ờng lối, chính sách của Đảng và Nhà n−ớc, các cơ sở nghiên cứu KHXH. Vốn t− liệu sách báo về KHXH khi đó sẽ trở nên “sống động” hơn, đ−ợc khai thác có hiệu quả hơn, góp phần đáp ứng kịp thời và đầy đủ hơn nhu cầu của ng−ời dùng tin. Nh−ng cần phải có sự chỉ đạo thống nhất về mặt khoa học. Đề cập đến khó khăn gặp phải khi thực hiện mô hình thống nhất th− viện và thông tin, Viện tr−ởng Hoàng Vĩ Nam trong báo cáo tổng kết m−ời năm tr−ởng thành của Viện (1975-1985) viết: “Chúng ta đã phải trải qua phần lớn thời gian trạng thái cộng sinh giữa th− viện và thông tin”; sự thống nhất “bằng một quyết định chỉ mới có nghĩa là thống nhất về mặt tổ chức”; “giai đoạn đầu của quá trình đó không thể tránh khỏi là thời kỳ cộng sinh, thời kỳ sống trong sự liên hệ chặt chẽ với nhau một cách cân đối và cả hai bên đều nghĩ đến mình hơn đến ng−ời” (Hoàng Vĩ Nam, 1985, tr.3). Và còn một khó khăn khác nữa đặc tr−ng cho lớp ng−ời mở đ−ờng và cũng không thể giải quyết trong ngày một ngày hai. Nh− đã nhắc đến ở trên, đó là việc chiếm lĩnh lĩnh vực thông tin học vốn còn mới mẻ đối với n−ớc ta 40 năm về tr−ớc. V−ợt qua khó khăn này không thể chỉ bằng “ý chí”, “nhiệt tình cách mạng”, mà cần phải có cả tri thức. Không có cách nào khác là phải học, vừa học vừa làm - học để làm, vừa làm vừa học - làm ngay trong khi đang học, học đến đâu làm đến đó. Quả thực là gian khổ nh−ng đó là cách mà lớp ng−ời mở đ−ờng của Viện đã thực hiện thành công, chẳng những đã chứng minh và chứng m ... u đề là Thông tin chuyên ngành, S−u tập chuyên đề hay Cái mới trong KHXH, Niên giám thông tin KHXH,v.v... Nét nổi bật của Viện trong thời gian qua là luôn tập trung làm tốt chức năng thông tin phục vụ lãnh đạo, thông tin mũi nhọn phục vụ những nhu cầu thời sự trong mối quan hệ hài hòa với thông tin phục vụ nghiên cứu - thông tin về các vấn đề lý luận cơ bản, Nh− chúng ta biết, Đảng lãnh đạo bằng đ−ờng lối, chủ tr−ơng đ−ợc thể chế hóa thành pháp luật và chính sách quản lý và phát triển đất n−ớc. Hoạch định đ−ờng lối chiến l−ợc, chủ tr−ơng, các ch−ơng trình phát triển kinh tế - xã hội là lĩnh vực lao động sáng tạo, nghiêm túc và có trách nhiệm rất cao, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận. Đ−ờng lối đổi mới, chẳng hạn, là kết tinh trí tuệ của Đảng và của toàn thể nhân dân ta đ−ợc thể hiện tập trung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, cũng là sự phản ánh sâu sắc tình hình đất n−ớc lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở thời kỳ sau chiến tranh; là thành quả của đổi mới t− duy lý luận - của t− duy mới tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức và hành động theo quy luật khách quan; cũng là kết quả của sự tìm tòi, bám sát thực tế, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn theo yêu cầu của cách tiếp cận “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”. Chỉ có bám sát thực tiễn theo cách nh− vậy mới có thể rút ra đ−ợc kết luận đủ tin cậy làm căn cứ cho việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện thành công đ−ờng lối đổi mới. Công cuộc đổi mới trong suốt 30 năm qua đạt đ−ợc những thành quả to lớn mà giờ đây Đảng ta và nhân dân ta đang tổng kết và ch−a hẳn đã thấy hết ngay đ−ợc giá trị to lớn của đ−ờng lối đổi mới mà Đảng ta là ng−ời khởi x−ớng và trực tiếp chỉ đạo thực hiện, là tạo nên sức bật của cả dân tộc, không chỉ trong lĩnh vực đổi mới t− duy kinh tế mà còn cả trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Cũng nh− bất kỳ một hoạt động sáng tạo nào khác, sáng tạo đ−ờng lối đòi hỏi đ−ợc cung cấp những thông tin kịp thời và chính xác. Đó là những luận cứ khoa học và những thông tin - kết luận rút ra từ sự tổng kết thực tiễn phát triển mới nhất của đời sống hiện thực. Trong xây dựng và thực hiện đ−ờng lối chiến l−ợc, thông tin KHXH giữ một vai trò t−ơng tự nh− đối với hoạt động nghiên cứu phát triển khoa học. Thông tin KHXH không phải là tất cả nh−ng chiếm một tỷ trọng không nhỏ và quan trọng trong các kênh cung cấp thông tin chiến l−ợc mang tầm quốc sách, phục vụ sự hình thành và xây dựng các quan điểm chỉ đạo định h−ớng phát triển, xác định mục tiêu chiến l−ợc, phân tích thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội, các nguồn lực, nhất là nguồn lực con ng−ời, lựa chọn các giải pháp,v.v..., tức là góp phần “vào việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung 32 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2015 cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đ−ờng lối chủ tr−ơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, tr.112). Việc thực hiện thành công đ−ờng lối chiến l−ợc đòi hỏi hoạt động tự giác của đông đảo các tầng lớp nhân dân, dựa trên một sự nhận biết và quán triệt đầy đủ các mục tiêu và nhiệm vụ - nội dung cơ bản của đ−ờng lối, chiến l−ợc phát triển. Phục vụ đ−ờng lối, thông tin KHXH tuy không trực tiếp sản sinh ra tri thức mới - “luận cứ khoa học” - nh−ng, nh− đã trình bày, lại giữ một vai trò rất quan trọng trong sự hình thành tri thức và nhất là trong khai thác, dẫn truyền, phổ biến, đ−a nội dung đ−ờng lối, chiến l−ợc phát triển vào đời sống xã hội - làm rõ những mục tiêu và nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm đ−ợc đề ra trong đ−ờng lối, chiến l−ợc phát triển. Việc hoạch định đ−ờng lối chiến l−ợc đúng đắn có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ, phát triển đất n−ớc, nh−ng ch−a phải là tất cả. Tổ chức lực l−ợng xã hội thành phong trào thực tiễn thực hiện thành công đ−ờng lối chiến l−ợc trong cuộc sống có ý nghĩa quyết định không thua kém. Thực hiện nhiệm vụ phổ biến, đ−a đ−ờng lối chiến l−ợc vào đời sống hiện thực có ý nghĩa to lớn nh− vậy, thông tin KHXH vừa khai thác, vừa gia nhập vào việc tổ chức các dòng tin khoa học phục vụ kịp thời lãnh đạo. Năm 1991, tại Đại hội VII, Đảng ta lần đầu tiên khẳng định nền kinh tế n−ớc ta là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị tr−ờng có sự quản lý của Nhà n−ớc”. Sau đó tại Đại hội VIII (1996), Đảng ta lại khẳng định: “tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr−ờng có sự quản lý của Nhà n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, tr.168). Vậy là từ đầu những năm 1990, vấn đề kinh tế thị tr−ờng, trên thực tế, đã đ−ợc Đảng ta chính thức đặt ra. Đây là vấn đề lý luận cơ bản, đồng thời cũng là vấn đề mũi nhọn cần thu thập thông tin, nh− một nhiệm vụ cấp bách mang tính thời sự phải tập trung nghiên cứu, thông tin. Khái niệm “kinh tế thị tr−ờng” không mới và cũng nh− bất kỳ một khái niệm, phạm trù kinh tế học nào khác, luôn vận động và nảy sinh thêm những khía cạnh mới, nh−ng lại là rất mới (và thậm chí lúc đầu ít nhiều còn “bị thành kiến”) đối với những n−ớc nhiều năm đã gắn bó với kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay vừa mới bắt đầu quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị tr−ờng. Nhận thức đ−ợc tầm quan trọng cả về ph−ơng diện lý luận và thực tiễn, xuất phát từ trách nhiệm là cơ quan thông tin KHXH, Viện đã tổ chức nghiên cứu, thu thập và xử lý thông tin nhằm làm rõ nội hàm khoa học của khái niệm này và nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan. Kết quả là, Viện đã kịp thời đ−a ra phục vụ một loạt S−u tập chuyên đề về kinh tế thị tr−ờng, đáp ứng kịp thời nhu cầu nghiên cứu của các đối t−ợng ng−ời dung tin gồm các nhà khoa học và lãnh đạo n−ớc ta trong những năm 1990, nh−: Kinh tế thị tr−ờng: Thực chất và triển vọng (1992), Quan hệ sở hữu trong kinh tế thị tr−ờng (1993), Đạo đức trong kinh tế thị tr−ờng (1995), Cơ chế thị tr−ờng và các vấn đề xã hội (1997), Viện Thông tin Khoa học xã hội 40 năm 33 Tệ nạn xã hội (trong kinh tế thị tr−ờng): Căn nguyên, biểu hiện, ph−ơng thức khắc phục (1997), Vai trò của nhà n−ớc trong kinh tế thị tr−ờng (1998), Thị tr−ờng lao động trong kinh tế thị tr−ờng (1999), Nông thôn trong kinh tế thị tr−ờng (1999)... cùng với hàng trăm bài viết - nghiên cứu mới của các học giả n−ớc ngoài và các nhà nghiên cứu trong n−ớc về các khía cạnh lý luận, về kinh nghiệm thực tiễn đã đ−ợc các n−ớc tổng kết một cách khoa học về chủ đề lớn này. Đây không hẳn là thông tin lý luận cơ bản, cũng không thể khẳng định đây là thông tin mũi nhọn - phục vụ nhu cầu thời sự hay nhiệm vụ cấp thiết, mà thực chất đây vừa là thông tin nghiên cứu lý luận cơ bản vừa là thông tin mũi nhọn. 2. Thông tin khoa học phục vụ lãnh đạo là nhiệm vụ, là trách nhiệm và cũng là niềm tự hào, niềm vui của đội ngũ cán bộ của Viện trong suốt 40 năm qua. Phấn khởi biết bao đối với những ng−ời làm công tác thông tin khoa học khi thấy thành quả lao động của mình đáp ứng đ−ợc nhu cầu tin của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà n−ớc các cấp, góp phần cung cấp những luận điểm, những vấn đề mới mà lý luận và tình hình thực tiễn phát triển đặt ra. Nhiều cán bộ của Viện đến nay vẫn còn nhớ, cuối những năm 1980 - đầu những năm 1990, mô hình XHCN bị sụp đổ ở các n−ớc Đông Âu và Liên bang Xô Viết bị tan vỡ. Cùng với những thông tin tổng quan về nguyên nhân dẫn đến sự biến lịch sử khiến cả thế giới (ph−ơng Đông cũng nh− ph−ơng Tây) bất ngờ này, Viện đã tổ chức dịch và phổ biến theo chế độ “tài liệu mật” cuốn Thất bại lớn: Sự ra đời và cái chết của chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX của Z. Brzezinski (1992) và cuốn Đế chế tan vỡ: Cuộc nổi dậy của các dân tộc ở Liên Xô của H. C. d’ Encausse (1993). Riêng cuốn Thất bại lớn: Sự ra đời và cái chết của chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX của Z. Brzezinski, theo gợi ý và tạo điều kiện (kể cả một phần kinh phí) của Văn phòng Trung −ơng, Viện đã cung cấp - phục vụ theo chế độ trách nhiệm về sử dụng tài liệu mật của Viện thời đó - gửi đến 146 ủy viên trung −ơng đang họp Hội nghị Trung −ơng 4 Khóa VII (tại Hà Nội, tháng 1/1993), sau đó gửi thêm tới Tổng Bí th− Đỗ M−ời 10 bản (theo yêu cầu và qua Văn phòng Tổng Bí th−) và gửi 5 bản đến cố vấn Nguyễn Văn Linh (theo đề nghị của đồng chí). Tất cả 161 bản này đều phục vụ miễn phí và đ−ợc đánh số sử dụng do Văn phòng Trung −ơng chịu trách nhiệm quản lý. Với cuốn sách này, Viện cung cấp thêm những thông tin dự báo từ cách tiếp cận mới của một nhà lý luận ph−ơng Tây, từng là cố vấn về an ninh của Tổng thống Mỹ, về “các nhân tố quy định cuộc khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết”. Tính đến năm 2001, Viện đã khẳng định đ−ợc vai trò của mình trong hệ thống thông tin khoa học phục vụ lãnh đạo. Vì vậy, cuối tháng 12/2001, Viện đ−ợc Th−ờng trực Ban Bí th− Trung −ơng Đảng giao cho nhiệm vụ là một trong ba đầu mối của Trung tâm KHXH&NV Quốc gia cung cấp các thông tin chiến l−ợc phục vụ Ban Bí th− Trung −ơng. Phòng Thông tin chiến l−ợc đ−ợc thành lập lúc đầu do Viện tr−ởng trực tiếp phụ trách. Ngoài một số cán bộ cơ hữu của phòng, Viện đã thực hiện chế 34 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2015 độ cộng tác viên linh hoạt về những vấn đề liên quan. Nhờ vậy bắt đầu từ tháng 2/2002 Viện đã có thể gửi tới Ban Bí th− (qua Văn phòng Trung −ơng) những thông tin d−ới hình thức các tổng thuật phân tích, kèm theo các kiến nghị đ−ợc rút ra từ xử lý các tài liệu Viện có hay đ−ợc Văn phòng Trung −ơng cung cấp. Đó là thông tin về chiến l−ợc của các n−ớc lớn, về đối sách của các n−ớc đối với toàn cầu hóa, về an ninh quốc gia, về những vấn đề và kinh nghiệm phòng chống tham nhũng ở các n−ớc nh− Singapore, Trung Quốc,v.v... 3. Về mối quan hệ giữa thông tin và nghiên cứu - nghiên cứu và thông tin. Xét cả về cơ chế tác động lẫn tính mục đích, hoạt động thông tin khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học luôn kết gắn mật thiết với nhau trong một thể thống nhất là quá trình tạo tri thức khoa học. Nghiên cứu khoa học bao giờ cũng đòi hỏi những thông tin chính xác, kịp thời nh− “sữa từ bầu sữa mẹ” vậy; và thông tin khoa học tuy không trực tiếp tạo ra tri thức mới nh−ng lại xảy ra nh− một khâu trong quá trình nghiên cứu tạo tri thức mới. (Điều này không phụ thuộc vào việc ai chuẩn bị, cung cấp thông tin cho nghiên cứu, là chính nhà nghiên cứu hay là ng−ời làm thông tin). Thêm nữa hoạt động thông tin cũng giả định - đòi hỏi phải nghiên cứu, bởi chỉ có nghiên cứu mới đ−a lại những thông tin khoa học chính xác. ở đây nghiên cứu nhằm mục đích thông tin, tr−ớc hết là để đ−a ra đ−ợc những tri thức - thông tin khoa học và có tính cập nhật đáp ứng trúng yêu cầu và đúng nhu cầu của ng−ời dùng tin là nhà quản lý, hoạt động thực tiễn hay là nhà khoa học. Thế nh−ng nghiên cứu nhằm mục đích thông tin phải quán triệt yêu cầu nghiên cứu, xử lý gấp, cung cấp kịp thời các kết quả nghiên cứu. Thông tin phải đi tr−ớc một b−ớc. Xét về tính mục đích, thông tin cũng nh− nghiên cứu đều nhằm tạo ra những tri thức mới. Điểm khác biệt là ở chỗ, hoạt động thông tin, nh− đã trình bày, không trực tiếp tạo ra tri thức mới, nh−ng quá trình nghiên cứu - tạo ra tri thức mới lại phải dựa vào thông tin, thông tin đ−ợc hiểu là điều kiện cần thiết phải có, là khâu cơ hữu không thể thiếu của quá trình tạo tri thức mới. Viện luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ tham gia nghiên cứu. Trong đội ngũ cán bộ của Viện, có nhiều ng−ời viết và xuất bản nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, trong khi họ là những cán bộ làm thông tin giỏi. Nh− vừa trình bày ở trên, nghiên cứu chính là điều kiện không thể thiếu để có những thông tin có chất l−ợng. Trong điều kiện của “xã hội thông tin”, con ng−ời đứng tr−ớc một nghịch lý: trong khi chứng kiến một khối l−ợng thông tin tăng lên với tốc độ “bùng nổ” nh−ng lại “đói tri thức” nh− hai nhà dự báo học J. Naisbit và P. Aburdene từng nhận xét. Trong bối cảnh các luồng thông tin tăng lên nhanh chóng và có xu h−ớng đi vào độc tả chiều sâu chi tiết, gần nh− cùng đồng thời với tình trạng “nhiễu thông tin”. Tr−ớc tình hình đó, ng−ời làm thông tin không thể nào khác là phải có tri thức chuyên sâu và hơn thế, phải có thói quen t− duy logic suy nghĩ theo chiều sâu. Chỉ có sức mạnh của t− duy nh− vậy mới đủ sức phát hiện từ trong tổng thể các sự biến đâu là cái bản chất ẩn giấu sâu lắng th−ờng rất khó phát hiện với các hiện t−ợng bề Viện Thông tin Khoa học xã hội 40 năm 35 ngoài dễ nhận biết ngay cả với t− duy nhận thức nông cạn - để từ đó đ−a lại “thông tin - tri thức”, phân biệt với thông tin không mới thậm chí là “thông tin nhiễu” gây trở ngại. Hẳn sẽ không quá lời nếu cho rằng thông tin khoa học là một chuyên ngành khoa học nghiêm túc, sáng tạo và cũng gian khổ không thua kém so với hoạt động nghiên cứu khoa học Tài liệu tham khảo 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Hoàng Vĩ Nam (1985), “M−ời năm trr−ởng thành của Viện Thông tin khoa học xã hội“, Tạp chí Thông tin KHXH, số 7. 4. Nguyễn Khánh Toàn (1980), “Phát triển công tác thông tin khoa học xã hội, phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ cách mạng trong giai doạn tr−ớc mắt”, Tạp chí Thông tin KHXH, số 1. (Tiếp theo trang 61) Bên cạnh đó, từng ng−ời có thể có thêm một kế hoạch học tập, bồi d−ỡng ngoại ngữ thực sự, phải đ−ợc trù tính một cách lâu dài. Tất nhiên, nói đến chuyện học thêm hay tự học ngoại ngữ là nói đến một nỗ lực v−ợt gian khó thực sự, đòi hỏi rất nhiều khó nhọc. Nh−ng, vì hiệu quả của công tác thông tin khoa học, không có cách nào khác. Về mặt này, thế hệ chúng tôi có thể có không ít kinh nghiệm hữu ích với các cán bộ trẻ. Việc học ngoại ngữ, tr−ớc hết là việc của cá nhân tự học, nh−ng cũng rất bổ ích và cần thiết nữa có sự hỗ trợ của tập thể, của tổ chức, thông qua những hình thức động viên, tập hợp, những cố gắng gây không khí, gây phong trào, tạo điều kiện,... Trên đây là một vài ý kiến rút ra từ những năm tháng tôi làm việc ở Viện Thông tin KHXH, vừa gắn liền với sự vận hành công việc tập thể ở cơ quan, vừa là kinh nghiệm cá nhân. Tất nhiên, do phạm vi một bài viết, tôi chỉ bày tỏ đ−ợc rất ít trong số những điều muốn bày tỏ. Và rất mong có những dịp để tiếp tục trao đổi xung quanh chủ đề của bài viết này
File đính kèm:
- vien_thong_tin_khoa_hoc_xa_hoi_40_nam_doi_dieu_nho_lai_va_su.pdf