Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực

LTS: Trong so sánh với các nước trong khu vực, kể cả khu vực Đông Nam á và

khu vực Đông Bắc á, khi nói về khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, nhiều

người thường chỉ nói đến những hạn chế, những yếu kém của nền KHXH nước

nhà; dường như KHXH Việt Nam và hoạt động KHXH ở Việt Nam chẳng có

“quả chuông” nào khả dĩ có thể đem “đấm nước người”.

Không hoàn toàn đồng ý với định kiến này, ngày 11/01/2010, tại Hội nghị

tổng kết công tác năm 2009 của Viện KHXH Việt Nam có Phó Thủ tướng

Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân và nhiều lãnh đạo Bộ, ngành tới dự, Viện

Thông tin KHXH đã trình bày tham luận góp phần đánh giá lại vai trò của

KHXH đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam hai mươi năm qua, trong đó

có nhìn lại thực lực và vị thế của Thư viện KHXH và kiến nghị Chính phủ cần

có dự án xây dựng một Thư viện KHXH tầm cỡ khu vực.

Tham luận nhấn mạnh, đúng là rất khó để KHXH và nhân văn Việt Nam

cạnh tranh hoặc sánh ngang với các nền khoa học mạnh trong khu vực trong

khoảng 10, 20 năm tới. Thế nhưng, nếu có dự án xây dựng một Thư viện

KHXH xứng tầm với những tư liệu quý mà nó đang sở hữu, thì chỉ trong một

thời gian ngắn, đất nước chắc chắn có một Trung tâm thông tin - thư viện tầm

cỡ về KHXH mà tất cả những ai quan tâm đến phương Đông và Việt Nam đều

không thể không thừa nhận.

Với nhiều lĩnh vực, các nhà khoa học Việt Nam rất có thể sẽ chỉ là người đi

sau, vì đó là những lĩnh vực mà ta phải học hỏi cái mà thế giới đã sáng tạo ra.

Nhưng nếu biết khai thác di sản của cha ông còn chứa đựng trong những tư

liệu tại Thư viện KHXH ở 26 Lý Thường Kiệt (Hà Nội), thì biết đâu KHXH

Việt Nam có thể sẽ có những đóng góp như là những nghiên cứu tiên phong, ít

ra là về đặc thù văn hoá Việt Nam và phương Đông.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một phần bản tham luận này.

 

Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực trang 1

Trang 1

Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực trang 2

Trang 2

Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực trang 3

Trang 3

Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực trang 4

Trang 4

Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 6380
Bạn đang xem tài liệu "Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực

Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực
 Về MộT THƯ VIệN KHOA HọC Xã HộI TầM Cỡ KHU VựC 
Hồ Sĩ Quý(*) 
LTS: Trong so sánh với các n−ớc trong khu vực, kể cả khu vực Đông Nam á và 
khu vực Đông Bắc á, khi nói về khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, nhiều 
ng−ời th−ờng chỉ nói đến những hạn chế, những yếu kém của nền KHXH n−ớc 
nhà; d−ờng nh− KHXH Việt Nam và hoạt động KHXH ở Việt Nam chẳng có 
“quả chuông” nào khả dĩ có thể đem “đấm n−ớc ng−ời”. 
Không hoàn toàn đồng ý với định kiến này, ngày 11/01/2010, tại Hội nghị 
tổng kết công tác năm 2009 của Viện KHXH Việt Nam có Phó Thủ t−ớng 
Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân và nhiều lãnh đạo Bộ, ngành tới dự, Viện 
Thông tin KHXH đã trình bày tham luận góp phần đánh giá lại vai trò của 
KHXH đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam hai m−ơi năm qua, trong đó 
có nhìn lại thực lực và vị thế của Th− viện KHXH và kiến nghị Chính phủ cần 
có dự án xây dựng một Th− viện KHXH tầm cỡ khu vực. 
Tham luận nhấn mạnh, đúng là rất khó để KHXH và nhân văn Việt Nam 
cạnh tranh hoặc sánh ngang với các nền khoa học mạnh trong khu vực trong 
khoảng 10, 20 năm tới. Thế nh−ng, nếu có dự án xây dựng một Th− viện 
KHXH xứng tầm với những t− liệu quý mà nó đang sở hữu, thì chỉ trong một 
thời gian ngắn, đất n−ớc chắc chắn có một Trung tâm thông tin - th− viện tầm 
cỡ về KHXH mà tất cả những ai quan tâm đến ph−ơng Đông và Việt Nam đều 
không thể không thừa nhận. 
Với nhiều lĩnh vực, các nhà khoa học Việt Nam rất có thể sẽ chỉ là ng−ời đi 
sau, vì đó là những lĩnh vực mà ta phải học hỏi cái mà thế giới đã sáng tạo ra. 
Nh−ng nếu biết khai thác di sản của cha ông còn chứa đựng trong những t− 
liệu tại Th− viện KHXH ở 26 Lý Th−ờng Kiệt (Hà Nội), thì biết đâu KHXH 
Việt Nam có thể sẽ có những đóng góp nh− là những nghiên cứu tiên phong, ít 
ra là về đặc thù văn hoá Việt Nam và ph−ơng Đông. 
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một phần bản tham luận này. 
h− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng 
Kiệt th−ờng đ−ợc gọi là “Th− viện 
Viện Thông tin KHXH”, nh−ng thực 
chất là Th− viện KHXH của Viện 
KHXH Việt Nam, do Viện Thông tin 
KHXH quản lý và chịu trách nhiệm tổ 
chức hoạt động. Th− viện chính thức 
đ−ợc thành lập năm 1968, nh−ng thực 
ra đã có lịch sử hơn 100 năm do kế thừa 
đ−ợc di sản của Học viện Viễn Đông 
Bác(*)cổ Pháp (EFEO, thành lập năm 
1901, năm 1957 Pháp bàn giao lại Th− 
viện EFEO cho phía Việt Nam). 
Hiện Th− viện có hơn 160.000 tập 
thần tích, thần sắc của khoảng 9.000 
làng Việt (với khoảng 230.000 trang t− 
(*) GS., TS., Viện Thông tin KHXH. 
www.hosiquy.com; Hosiquy@fpt.vn. 
T 
Về một th− viện KHXH ... 11
liệu viết tay(*)); 1.225 bản h−ơng −ớc 
đ−ợc viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, bằng 
bút lông trên giấy dó, trong đó có 
khoảng 50 văn bản soạn vào thế kỷ 
XVIII-XIX; hơn 5.000 bản h−ơng −ớc 
bằng chữ quốc ngữ, viết tay; hơn 3.000 
bản kê bằng chữ Hán, chữ Nôm các 
dạng văn hóa làng xã nh− thần sắc, văn 
bia, địa bạ, khoán lệ... và bản kê địa 
danh làng xã năm 1923 của hầu hết các 
tỉnh, thành trong cả nuớc. 
Trong kho bản đồ còn l−u giữ 1.370 
bản đồ các loại, trong đó có 986 bản đồ 
về Việt Nam và Đông D−ơng đ−ợc vẽ 
hoặc in rất sớm từ năm 1584 đến năm 
1942. Có nhiều bản đồ đ−ợc coi là quý, 
chẳng hạn bản đồ Hà Nội năm 1831, 
1873; bản đồ Sài Gòn năm 1902(**). Tại 
Th− viện, các học giả EFEO đã s−u tầm 
đ−ợc hơn 400 bản sắc phong của triều 
Nguyễn và các triều đại phong kiến thời 
tr−ớc, bản cổ nhất mà Th− viện có đ−ợc 
là vào thế kỷ XVI. 
Kho ảnh của Th− viện gồm khoảng 
40.000 ảnh về Việt Nam và Đông 
D−ơng. Năm 1957, gần 10.000 ảnh đã 
đ−ợc ng−ời Pháp đ−a về Paris tr−ớc khi 
bàn giao. Kho ảnh này đ−ợc hình thành 
chủ yếu từ các công trình nghiên cứu 
của các nhà sử học, kiến trúc s−, khảo 
cổ học, dân tộc học... ng−ời Pháp và 
ng−ời Việt Nam. Một phần khác là ảnh 
do các công chức thuộc các cơ quan hành 
chính thuộc địa cung cấp. Nội dung 
những tấm ảnh rất phong phú và đa 
(*)
 Đã in trong “Th− mục thần tích, thần sắc, 
h−ơng −ớc”, Viện Thông tin KHXH xuất bản 
năm 1996. 
(**)
 Để thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - 
Hà Nội, trong năm nay, theo dự kiến, Viện 
KHXH Việt Nam sẽ công bố bản đồ Hà Nội năm 
1831 (Số liệu bản đồ theo CSDL nhập từ tủ mục 
lục). 
dạng, mô tả về con ng−ời Việt Nam thời 
tr−ớc, những nét văn hóa - phong tục - 
tập quán độc đáo, những phong cảnh 
đẹp và ấn t−ợng, những hoạt động sản 
xuất và đời sống th−ờng nhật của các 
dân tộc ở khắp các vùng miền đất n−ớc. 
UNESCO đã đề nghị Viện Thông tin 
KHXH làm hồ sơ để bộ s−u tập ảnh này 
đ−ợc đăng ký công nhận là Ký ức thế 
giới (Memory of the World). Hiện chúng 
tôi đang tiến hành việc này. 
Hiện tại, tài nguyên sách và báo chí 
ấn bản của Th− viện gồm khoảng 
1.000.000 bản với gần 500.000 sách, hơn 
2.000 loại báo và tạp chí tiếng Việt và 
tiếng n−ớc ngoài thuộc các lĩnh vực khác 
nhau, trong đó hơn 400 loại báo và tạp 
chí tiếng n−ớc ngoài “sống” (đ−ợc bổ 
sung đủ và th−ờng xuyên)(*). Bộ s−u tập 
sách Nhật cổ có 11.000 bản, Trung Quốc 
cổ có 31.000 bản(**), Trung Quốc hiện đại 
có 11.000 bản, sách Latinh có 40.000 
bản... Bản sách cổ nhất của Th− viện có 
niên đại từ thế kỷ XIV. Bản độc đáo 
nhất của Th− viện có dấu “Ngự” của 
Triều Thanh Trung Quốc (thế kỷ 
XVIII). Một phần bộ “Vĩnh lạc đại điển” 
và một phần bộ “Tứ khố toàn th−” là 
những sách có giá trị đặc biệt mà ngay 
tại nơi sinh ra nó là Trung Quốc cũng 
không có đủ, thì tại Th− viện KHXH 
vẫn s−u tập và l−u giữ đ−ợc. 
(*)
 Khoảng 1.500 loại không đ−ợc bổ sung đầy đủ 
và liên tục là do đ−ợc biếu tặng thất th−ờng, do 
bản thân các tạp chí đó đình bản, do không đặt 
hàng đ−ợc và do các nguyên nhân khách quan 
khác. 
(**)
 Dự án “Số hóa T− liệu cổ tịch Trung văn thế 
giới” đã ngỏ ý mời Viện Thông tin KHXH tham 
gia. Trong số 600.000 cổ tịch Trung văn, Th− 
viện KHXH đã có 31.000 đơn vị tài liệu, đứng thứ 
4 sau Th− viện quốc gia Bắc Kinh, Th− viện Đại 
học Tokyo, và Th− viện quốc gia Đài Loan. 
Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2010 12
Trình bày những điều trên chúng 
tôi muốn nói rằng, Th− viện KHXH tại 
26 Lý Th−ờng Kiệt là một địa chỉ có tên 
tuổi không chỉ ở tầm Việt Nam. Th− 
viện đ−ợc đông đảo giới khoa học trong 
và ngoài n−ớc biết đến không chỉ vì nó 
là một th− viện tổng hợp đầu ngành về 
KHXH, mà còn vì ở đây hiện đang l−u 
giữ một vốn t− liệu phong phú, quí hiếm 
vào loại bậc nhất ở khu vực Đông Nam 
á về Đông ph−ơng học đ−ợc s−u tầm, 
biên soạn khoảng cuối thế kỷ XIX đầu 
thế kỷ XX. Có thể nói, tại Việt Nam tính 
đến thời điểm hiện nay, nếu ng−ời đọc 
muốn tìm hiểu căn cứ xác tín nhất về 
thần tích, thần sắc và h−ơng −ớc, về các 
tài liệu Hán cổ và Nhật cổ, về ảnh và 
bản đồ thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ 
XX, về các ấn phẩm của EFEO thời 
Pháp, về các tạp chí KHXH thế giới 
(tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nga), và cả về 
sách báo tiếng Nga và văn hoá Xô Viết, 
về các tạp chí và tài liệu khoa học trực 
tuyến (đ−ợc các tổ chức khoa học thế 
giới cho phép truy cập)... thì Th− viện 
KHXH chính là địa chỉ tin cậy nhất có 
thể đáp ứng đ−ợc. 
Trên thực tế, đây là th− viện có vị 
thế có một không hai trong lịch sử khoa 
học và lịch sử văn hóa khoa học của Việt 
Nam, xứng đáng là niềm tự hào của giới 
KHXH Việt Nam nói riêng và của Việt 
Nam nói chung. Các học giả trong và 
ngoài n−ớc ít nhiều đều biết về Th− viện 
KHXH. Gần nh− tất cả những trí thức 
đã từng sống ở Hà Nội trong khoảng 50 
năm nay đều ít nhất đã có 1 lần là độc 
giả của Th− viện. Trong nhiều ấn phẩm 
nghiên cứu, trên Websites của EFEO ở 
Paris cũng nh− ở Hongkong và Hà Nội, 
Th− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt 
cũng là một địa chỉ không thể không 
nhắc tới, vì nó là một phần lịch sử và là 
niềm tự hào của EFEO. Trên các tài liệu 
của Hiệp hội th− viện thế giới (IFLA), 
một số từ điển về KHXH, thậm chí trên 
một số tài liệu về du lịch, Th− viện 
KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt cũng đ−ợc 
trân trọng giới thiệu. Chỉ riêng các bộ 
s−u tập, chẳng hạn, Bản đồ, Sắc phong, 
Thần tích - Thần sắc, H−ơng −ớc, ảnh, 
Phim, hay sách Hán cổ, Nhật cổ, Hán 
Nôm, Nga... cũng có thể xứng đáng là 
những Trung tâm l−u trữ chuyên ngành 
hay những bộ s−u tập có thể tính đến 
khả năng đăng ký vào các loại hình di 
sản văn hóa của nhân loại. Theo đánh 
giá của một số chuyên gia, trong đó có 
GS. Tu Weiming - Nguyên Giám đốc Đại 
học Harvard Yenching, Th− viện KHXH 
tại 26 Lý Th−ờng Kiệt không thua kém 
gì một số th− viện uy tín trong khu vực. 
Tiếc rằng, vì nhiều lý do khác nhau, 
trong đó có lý do đất n−ớc phải qua nhiều 
năm chiến tranh, nền kinh tế còn ch−a 
giàu, trình độ quản lý và khai thác của 
chính Th− viện bất cập... nên đến tận 
hôm nay, Th− viện KHXH vẫn còn ở 
trong tình trạng, có thể nói là, gần nh− 
bị để ngủ quên với hạ tầng vật chất kỹ 
thuật ở mức kém cỏi(*). 
Bởi vậy Viện Thông tin KHXH kiến 
nghị: Cần có dự án xây dựng một Th− 
(*)
 Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém: hệ thống kho 
tàng, phòng đọc, phòng nghiệp vụ... chật chội, 
không đủ tiêu chuẩn, xuống cấp nghiêm trọng. 
Điều kiện và trình độ bảo quản tài liệu thủ công, 
không đáp ứng nhu cầu của một th− viện. Không 
đủ điều kiện để bảo quản, phục chế, đ−a kho bản 
đồ, sắc phong, tranh, ảnh... phục vụ bạn đọc. 
Không đủ kinh phí để bổ sung tài liệu truyền 
thống (báo, tạp chí đã có đều đặn trong nguồn t− 
liệu của th− viện từ hàng chục năm nay). Hạ 
tầng thông tin và công nghệ thông tin lạc hậu. 
Không đủ điều kiện để kết nối và phục vụ trực 
tuyến cho đông đảo bạn đọc. Tài nguyên của Th− 
viện đ−ợc số hóa quá ít; không đáp ứng đ−ợc yêu 
cầu phục vụ trực tuyến... 
Về một th− viện KHXH ... 13
viện KHXH tầm cỡ khu vực. Xin luận 
chứng sơ bộ cho kiến nghị này nh− sau: 
1. Mặc dù trụ sở mới của Th− viện ở 
số 1 Liễu Giai đã khởi công, đang đ−ợc 
hoàn thiện và khi đ−a vào sử dụng năm 
2011 thì đây là một b−ớc thỏa mãn mơ 
−ớc của nhiều thế hệ những ng−ời làm 
công tác th− viện, tuy nhiên, với khoảng 
5.000 m2 của tòa nhà 16 tầng thì về lý 
thuyết, cũng vẫn ch−a đạt tới trình độ 
tiêu chuẩn cho một th− viện với hơn 1 
triệu đầu sách và các loại tài liệu khác 
nh− tranh, ảnh, đĩa DVD&CD, phim... 
hoạt động. Hơn thế nữa, th− viện đang 
xây dựng không có không gian khuôn 
viên, nghĩa là không có gara ô tô, không 
có hệ thống sân v−ờn cây xanh, ch−a thể 
nghĩ tới các trung tâm kỹ thuật nh− số 
hóa, phục chế, bảo quản, in ấn..., không 
có hạ tầng dịch vụ để phục vụ bạn đọc ở 
xa và bạn đọc n−ớc ngoài... Chúng tôi 
muốn nói rằng một trụ sở nh− vậy cũng 
ch−a xứng với tầm vóc thực sự của Th− 
viện. Chỉ nên coi trụ sở Th− viện KHXH 
ở số 1 Liễu Giai là b−ớc trung gian để 
Việt Nam có một Th− viện KHXH xứng 
với tầm vóc của nó. 
2. Trong so sánh với một số th− viện 
đ−ợc quảng bá ồn ào ở trong n−ớc và ở 
n−ớc ngoài, thì Th− viện KHXH tại 26 
Lý Th−ờng Kiệt không thiếu nguồn lực, 
không thiếu những tiêu chuẩn của một 
th− viện có giá trị, chỉ thiếu cơ sở hạ 
tầng. Đây chính là điều mà những ng−ời 
làm th− viện mong muốn Nhà n−ớc 
quan tâm thỏa đáng để sao cho 5-10 
năm tới Th− viện KHXH có đ−ợc một 
trụ sở xứng với tầm vóc và giá trị của 
nó. Chúng tôi kính đề nghị Chính phủ 
và Viện KHXH Việt Nam chú ý đến 
kiến nghị này và sớm lên kế hoạch cho 
dự án xây dựng một Th− viện KHXH 
tầm cỡ khu vực. 
Thiết nghĩ dự án này không viển vông, 
không hoang phí và cũng không phải là 
quá khó so với khả năng hiện tại của đất 
n−ớc và của Viện KHXH Việt Nam. 
3. Chúng ta đang mong muốn và 
cũng đã từng b−ớc đầu t− để nền khoa 
học n−ớc nhà trong t−ơng lai có thể sánh 
với các n−ớc trong khu vực và không cách 
quá xa so với khoa học thế giới. Nhìn vào 
thực trạng hiện nay thì khả năng cạnh 
tranh hoặc có thể sánh ngang với các nền 
khoa học mạnh trong khu vực trong 
khoảng 10-20 năm tới là khó hoặc rất 
khó. Thế nh−ng, nếu có dự án xây dựng 
một Th− viện KHXH tầm cỡ, thì chỉ trong 
một thời gian ngắn, đất n−ớc chắc chắn có 
một Trung tâm thông tin-th− viện tầm cỡ 
về KHXH mà tất cả những ai quan tâm 
đến ph−ơng Đông và Việt Nam đều không 
thể không thừa nhận. 
4. Với bản thân nền KHXH, chúng 
tôi muốn nói rằng, trong số những t− 
liệu ch−a đ−ợc khai thác tại Th− viện 
KHXH nh− sắc phong, h−ơng −ớc, bản 
đồ, t− liệu cổ tiếng Nhật, tiếng Hoa... 
biết đâu lại đang chứa những điều bí 
mật, những chỉ dẫn đáng giá của cha 
ông, hoặc những kết luận giá trị của các 
nhà khoa học đi tr−ớc mà tiếc rằng, do 
ch−a đ−ợc khai thác nên các nhà nghiên 
cứu chúng ta lại phải một lần nữa mất 
rất nhiều công sức để mò mẫm tìm kiếm 
cái đã đ−ợc ghi trong văn tự. Với nhiều 
lĩnh vực, các nhà khoa học Việt Nam 
mãi mãi chỉ là ng−ời đi sau, vì đó là 
những lĩnh vực mà ta đều phải học hỏi 
và tiếp thu từ bên ngoài. Nh−ng nếu 
biết khai thác di sản của cha ông còn 
chứa đựng trong những t− liệu quý 
hiếm này, thì rất có thể KHXH Việt 
Nam sẽ có những đóng góp nh− là 
những nghiên cứu tiên phong, ít ra là về 
Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2010 14
đặc thù văn hoá Việt Nam và ph−ơng 
Đông. 
Trên thực tế, ở một số lĩnh vực 
thuộc các khoa học nhân văn, nh− 
nghiên cứu Việt ngữ, nghiên cứu các 
dân tộc Việt Nam, nghiên cứu con ng−ời 
Việt Nam,... nếu các nhà KHXH Việt 
Nam không đủ tài để trở thành chuyên 
gia hàng đầu, thì khác với thời của 
Jacques Dournes, Goerges Condominas, 
Alexandre Yersin, Henri Maitre(*), ngày 
nay sẽ chẳng có ai gánh vác cho ta cái 
trách nhiệm ấy. 
(*) Các học giả thực dân nghiên cứu rất sâu về Việt 
Nam đầu thế kỷ XX. (Xem thêm: Henri Maitre. 
Rừng ng−ời Th−ợng. H.: Tri thức, 2008). 
Với những dữ liệu khách quan nêu 
trên và với cả tâm huyết của mình, Viện 
Thông tin KHXH kính đề nghị Thủ 
t−ớng Chính phủ và Chủ tịch Viện 
KHXH Việt Nam có kế hoạch cho dự án 
xây dựng một Th− viện KHXH tầm cỡ 
khu vực. Chúng tôi nghĩ rằng, việc có dự 
án xứng đáng cho Th− viện KHXH hiện 
đã là muộn. Nh−ng sẽ là hợp lý nếu 
chúng ta chọn thời điểm đầu t− là lúc 
này, khi đất n−ớc đã b−ớc vào ng−ỡng 
đầu tiên của dãy hành lang thu nhập 
trung bình – 1.000 USD/ng−ời/năm, tức 
là t−ơng đối có đủ nguồn lực, có đủ tầm 
nhìn để xây dựng một Th− viện KHXH 
mà mai sau, thế hệ kế tiếp không phải 
làm lạ. 
(Tiếp theo trang 42) 
Hơn nữa, doanh nhân Việt Nam còn 
phải biết phát triển các hoạt động kinh 
doanh nhằm quảng bá và phát huy các 
giá trị văn hóa truyền thống, nh− phát 
triển các dịch vụ để khôi phục các giá trị 
Nho giáo, chẳng hạn nh− phát triển các 
dịch vụ du lịch có liên quan đến các lễ 
hội, các hoạt động (th− họa chẳng hạn), 
các công trình kiến trúc của Nho giáo, 
đ−a các hình ảnh mang nét văn hóa 
Nho giáo vào việc thiết kế mẫu, mã của 
các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ xuất 
khẩu và tiêu dùng trong n−ớc... Những 
doanh nhân khi biết kinh doanh theo 
h−ớng này, chắc chắn sẽ đ−ợc ng−ời tiêu 
dùng trong n−ớc và cả ngoài n−ớc biết 
đến và ủng hộ. 
Tài liệu tham khảo 
1. Phạm Duy Hải. Vận dụng những giá 
trị của t− t−ởng Nho giáo vào việc 
xây dựng và phát triển đội ngũ 
doanh nhân Việt Nam trong tiến 
trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện 
nay. Đề tài khoa học cấp bộ, Mã số 
B2008 - 07 – 56. 
2. Câu lạc bộ doanh nghiệp Việt Nam. 
Doanh nhân Việt Nam x−a và nay. 
H.: Thống kê, 2004. 
3. Nguyễn Thanh Hà. Trí tuệ Nho gia 
và việc xây dựng đội ngũ doanh 
nhân hiện đại. 
aspx?ID=3830 
4. Đoàn Lê Giang. Nho giáo Nhật Bản 
và Nho giáo Việt Nam. 
 tháng 10/ 2007. 
5. Vi Chính Thông (Nguyễn Huy Quý, 
Nguyễn Kim Sơn... dịch). Nho gia với 
Trung Quốc ngày nay. H.: Chính trị 
Quốc gia, 1996. 
6. Quang Đạm. Nho giáo x−a và nay. 
H.: Văn hoá, 1994. 
7. Trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc. 
Vài nét về triết lý Nho Giáo mới ở 
Hàn Quốc -  

File đính kèm:

  • pdfve_mot_thu_vien_khoa_hoc_xa_hoi_tam_co_khu_vuc.pdf