Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực
LTS: Trong so sánh với các nước trong khu vực, kể cả khu vực Đông Nam á và
khu vực Đông Bắc á, khi nói về khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, nhiều
người thường chỉ nói đến những hạn chế, những yếu kém của nền KHXH nước
nhà; dường như KHXH Việt Nam và hoạt động KHXH ở Việt Nam chẳng có
“quả chuông” nào khả dĩ có thể đem “đấm nước người”.
Không hoàn toàn đồng ý với định kiến này, ngày 11/01/2010, tại Hội nghị
tổng kết công tác năm 2009 của Viện KHXH Việt Nam có Phó Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân và nhiều lãnh đạo Bộ, ngành tới dự, Viện
Thông tin KHXH đã trình bày tham luận góp phần đánh giá lại vai trò của
KHXH đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam hai mươi năm qua, trong đó
có nhìn lại thực lực và vị thế của Thư viện KHXH và kiến nghị Chính phủ cần
có dự án xây dựng một Thư viện KHXH tầm cỡ khu vực.
Tham luận nhấn mạnh, đúng là rất khó để KHXH và nhân văn Việt Nam
cạnh tranh hoặc sánh ngang với các nền khoa học mạnh trong khu vực trong
khoảng 10, 20 năm tới. Thế nhưng, nếu có dự án xây dựng một Thư viện
KHXH xứng tầm với những tư liệu quý mà nó đang sở hữu, thì chỉ trong một
thời gian ngắn, đất nước chắc chắn có một Trung tâm thông tin - thư viện tầm
cỡ về KHXH mà tất cả những ai quan tâm đến phương Đông và Việt Nam đều
không thể không thừa nhận.
Với nhiều lĩnh vực, các nhà khoa học Việt Nam rất có thể sẽ chỉ là người đi
sau, vì đó là những lĩnh vực mà ta phải học hỏi cái mà thế giới đã sáng tạo ra.
Nhưng nếu biết khai thác di sản của cha ông còn chứa đựng trong những tư
liệu tại Thư viện KHXH ở 26 Lý Thường Kiệt (Hà Nội), thì biết đâu KHXH
Việt Nam có thể sẽ có những đóng góp như là những nghiên cứu tiên phong, ít
ra là về đặc thù văn hoá Việt Nam và phương Đông.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một phần bản tham luận này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về một thư viện khoa học xã hội tầm cỡ khu vực
Về MộT THƯ VIệN KHOA HọC Xã HộI TầM Cỡ KHU VựC Hồ Sĩ Quý(*) LTS: Trong so sánh với các n−ớc trong khu vực, kể cả khu vực Đông Nam á và khu vực Đông Bắc á, khi nói về khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, nhiều ng−ời th−ờng chỉ nói đến những hạn chế, những yếu kém của nền KHXH n−ớc nhà; d−ờng nh− KHXH Việt Nam và hoạt động KHXH ở Việt Nam chẳng có “quả chuông” nào khả dĩ có thể đem “đấm n−ớc ng−ời”. Không hoàn toàn đồng ý với định kiến này, ngày 11/01/2010, tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2009 của Viện KHXH Việt Nam có Phó Thủ t−ớng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân và nhiều lãnh đạo Bộ, ngành tới dự, Viện Thông tin KHXH đã trình bày tham luận góp phần đánh giá lại vai trò của KHXH đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam hai m−ơi năm qua, trong đó có nhìn lại thực lực và vị thế của Th− viện KHXH và kiến nghị Chính phủ cần có dự án xây dựng một Th− viện KHXH tầm cỡ khu vực. Tham luận nhấn mạnh, đúng là rất khó để KHXH và nhân văn Việt Nam cạnh tranh hoặc sánh ngang với các nền khoa học mạnh trong khu vực trong khoảng 10, 20 năm tới. Thế nh−ng, nếu có dự án xây dựng một Th− viện KHXH xứng tầm với những t− liệu quý mà nó đang sở hữu, thì chỉ trong một thời gian ngắn, đất n−ớc chắc chắn có một Trung tâm thông tin - th− viện tầm cỡ về KHXH mà tất cả những ai quan tâm đến ph−ơng Đông và Việt Nam đều không thể không thừa nhận. Với nhiều lĩnh vực, các nhà khoa học Việt Nam rất có thể sẽ chỉ là ng−ời đi sau, vì đó là những lĩnh vực mà ta phải học hỏi cái mà thế giới đã sáng tạo ra. Nh−ng nếu biết khai thác di sản của cha ông còn chứa đựng trong những t− liệu tại Th− viện KHXH ở 26 Lý Th−ờng Kiệt (Hà Nội), thì biết đâu KHXH Việt Nam có thể sẽ có những đóng góp nh− là những nghiên cứu tiên phong, ít ra là về đặc thù văn hoá Việt Nam và ph−ơng Đông. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một phần bản tham luận này. h− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt th−ờng đ−ợc gọi là “Th− viện Viện Thông tin KHXH”, nh−ng thực chất là Th− viện KHXH của Viện KHXH Việt Nam, do Viện Thông tin KHXH quản lý và chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động. Th− viện chính thức đ−ợc thành lập năm 1968, nh−ng thực ra đã có lịch sử hơn 100 năm do kế thừa đ−ợc di sản của Học viện Viễn Đông Bác(*)cổ Pháp (EFEO, thành lập năm 1901, năm 1957 Pháp bàn giao lại Th− viện EFEO cho phía Việt Nam). Hiện Th− viện có hơn 160.000 tập thần tích, thần sắc của khoảng 9.000 làng Việt (với khoảng 230.000 trang t− (*) GS., TS., Viện Thông tin KHXH. www.hosiquy.com; Hosiquy@fpt.vn. T Về một th− viện KHXH ... 11 liệu viết tay(*)); 1.225 bản h−ơng −ớc đ−ợc viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, bằng bút lông trên giấy dó, trong đó có khoảng 50 văn bản soạn vào thế kỷ XVIII-XIX; hơn 5.000 bản h−ơng −ớc bằng chữ quốc ngữ, viết tay; hơn 3.000 bản kê bằng chữ Hán, chữ Nôm các dạng văn hóa làng xã nh− thần sắc, văn bia, địa bạ, khoán lệ... và bản kê địa danh làng xã năm 1923 của hầu hết các tỉnh, thành trong cả nuớc. Trong kho bản đồ còn l−u giữ 1.370 bản đồ các loại, trong đó có 986 bản đồ về Việt Nam và Đông D−ơng đ−ợc vẽ hoặc in rất sớm từ năm 1584 đến năm 1942. Có nhiều bản đồ đ−ợc coi là quý, chẳng hạn bản đồ Hà Nội năm 1831, 1873; bản đồ Sài Gòn năm 1902(**). Tại Th− viện, các học giả EFEO đã s−u tầm đ−ợc hơn 400 bản sắc phong của triều Nguyễn và các triều đại phong kiến thời tr−ớc, bản cổ nhất mà Th− viện có đ−ợc là vào thế kỷ XVI. Kho ảnh của Th− viện gồm khoảng 40.000 ảnh về Việt Nam và Đông D−ơng. Năm 1957, gần 10.000 ảnh đã đ−ợc ng−ời Pháp đ−a về Paris tr−ớc khi bàn giao. Kho ảnh này đ−ợc hình thành chủ yếu từ các công trình nghiên cứu của các nhà sử học, kiến trúc s−, khảo cổ học, dân tộc học... ng−ời Pháp và ng−ời Việt Nam. Một phần khác là ảnh do các công chức thuộc các cơ quan hành chính thuộc địa cung cấp. Nội dung những tấm ảnh rất phong phú và đa (*) Đã in trong “Th− mục thần tích, thần sắc, h−ơng −ớc”, Viện Thông tin KHXH xuất bản năm 1996. (**) Để thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, trong năm nay, theo dự kiến, Viện KHXH Việt Nam sẽ công bố bản đồ Hà Nội năm 1831 (Số liệu bản đồ theo CSDL nhập từ tủ mục lục). dạng, mô tả về con ng−ời Việt Nam thời tr−ớc, những nét văn hóa - phong tục - tập quán độc đáo, những phong cảnh đẹp và ấn t−ợng, những hoạt động sản xuất và đời sống th−ờng nhật của các dân tộc ở khắp các vùng miền đất n−ớc. UNESCO đã đề nghị Viện Thông tin KHXH làm hồ sơ để bộ s−u tập ảnh này đ−ợc đăng ký công nhận là Ký ức thế giới (Memory of the World). Hiện chúng tôi đang tiến hành việc này. Hiện tại, tài nguyên sách và báo chí ấn bản của Th− viện gồm khoảng 1.000.000 bản với gần 500.000 sách, hơn 2.000 loại báo và tạp chí tiếng Việt và tiếng n−ớc ngoài thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong đó hơn 400 loại báo và tạp chí tiếng n−ớc ngoài “sống” (đ−ợc bổ sung đủ và th−ờng xuyên)(*). Bộ s−u tập sách Nhật cổ có 11.000 bản, Trung Quốc cổ có 31.000 bản(**), Trung Quốc hiện đại có 11.000 bản, sách Latinh có 40.000 bản... Bản sách cổ nhất của Th− viện có niên đại từ thế kỷ XIV. Bản độc đáo nhất của Th− viện có dấu “Ngự” của Triều Thanh Trung Quốc (thế kỷ XVIII). Một phần bộ “Vĩnh lạc đại điển” và một phần bộ “Tứ khố toàn th−” là những sách có giá trị đặc biệt mà ngay tại nơi sinh ra nó là Trung Quốc cũng không có đủ, thì tại Th− viện KHXH vẫn s−u tập và l−u giữ đ−ợc. (*) Khoảng 1.500 loại không đ−ợc bổ sung đầy đủ và liên tục là do đ−ợc biếu tặng thất th−ờng, do bản thân các tạp chí đó đình bản, do không đặt hàng đ−ợc và do các nguyên nhân khách quan khác. (**) Dự án “Số hóa T− liệu cổ tịch Trung văn thế giới” đã ngỏ ý mời Viện Thông tin KHXH tham gia. Trong số 600.000 cổ tịch Trung văn, Th− viện KHXH đã có 31.000 đơn vị tài liệu, đứng thứ 4 sau Th− viện quốc gia Bắc Kinh, Th− viện Đại học Tokyo, và Th− viện quốc gia Đài Loan. Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2010 12 Trình bày những điều trên chúng tôi muốn nói rằng, Th− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt là một địa chỉ có tên tuổi không chỉ ở tầm Việt Nam. Th− viện đ−ợc đông đảo giới khoa học trong và ngoài n−ớc biết đến không chỉ vì nó là một th− viện tổng hợp đầu ngành về KHXH, mà còn vì ở đây hiện đang l−u giữ một vốn t− liệu phong phú, quí hiếm vào loại bậc nhất ở khu vực Đông Nam á về Đông ph−ơng học đ−ợc s−u tầm, biên soạn khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Có thể nói, tại Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay, nếu ng−ời đọc muốn tìm hiểu căn cứ xác tín nhất về thần tích, thần sắc và h−ơng −ớc, về các tài liệu Hán cổ và Nhật cổ, về ảnh và bản đồ thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, về các ấn phẩm của EFEO thời Pháp, về các tạp chí KHXH thế giới (tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nga), và cả về sách báo tiếng Nga và văn hoá Xô Viết, về các tạp chí và tài liệu khoa học trực tuyến (đ−ợc các tổ chức khoa học thế giới cho phép truy cập)... thì Th− viện KHXH chính là địa chỉ tin cậy nhất có thể đáp ứng đ−ợc. Trên thực tế, đây là th− viện có vị thế có một không hai trong lịch sử khoa học và lịch sử văn hóa khoa học của Việt Nam, xứng đáng là niềm tự hào của giới KHXH Việt Nam nói riêng và của Việt Nam nói chung. Các học giả trong và ngoài n−ớc ít nhiều đều biết về Th− viện KHXH. Gần nh− tất cả những trí thức đã từng sống ở Hà Nội trong khoảng 50 năm nay đều ít nhất đã có 1 lần là độc giả của Th− viện. Trong nhiều ấn phẩm nghiên cứu, trên Websites của EFEO ở Paris cũng nh− ở Hongkong và Hà Nội, Th− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt cũng là một địa chỉ không thể không nhắc tới, vì nó là một phần lịch sử và là niềm tự hào của EFEO. Trên các tài liệu của Hiệp hội th− viện thế giới (IFLA), một số từ điển về KHXH, thậm chí trên một số tài liệu về du lịch, Th− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt cũng đ−ợc trân trọng giới thiệu. Chỉ riêng các bộ s−u tập, chẳng hạn, Bản đồ, Sắc phong, Thần tích - Thần sắc, H−ơng −ớc, ảnh, Phim, hay sách Hán cổ, Nhật cổ, Hán Nôm, Nga... cũng có thể xứng đáng là những Trung tâm l−u trữ chuyên ngành hay những bộ s−u tập có thể tính đến khả năng đăng ký vào các loại hình di sản văn hóa của nhân loại. Theo đánh giá của một số chuyên gia, trong đó có GS. Tu Weiming - Nguyên Giám đốc Đại học Harvard Yenching, Th− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt không thua kém gì một số th− viện uy tín trong khu vực. Tiếc rằng, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do đất n−ớc phải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế còn ch−a giàu, trình độ quản lý và khai thác của chính Th− viện bất cập... nên đến tận hôm nay, Th− viện KHXH vẫn còn ở trong tình trạng, có thể nói là, gần nh− bị để ngủ quên với hạ tầng vật chất kỹ thuật ở mức kém cỏi(*). Bởi vậy Viện Thông tin KHXH kiến nghị: Cần có dự án xây dựng một Th− (*) Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém: hệ thống kho tàng, phòng đọc, phòng nghiệp vụ... chật chội, không đủ tiêu chuẩn, xuống cấp nghiêm trọng. Điều kiện và trình độ bảo quản tài liệu thủ công, không đáp ứng nhu cầu của một th− viện. Không đủ điều kiện để bảo quản, phục chế, đ−a kho bản đồ, sắc phong, tranh, ảnh... phục vụ bạn đọc. Không đủ kinh phí để bổ sung tài liệu truyền thống (báo, tạp chí đã có đều đặn trong nguồn t− liệu của th− viện từ hàng chục năm nay). Hạ tầng thông tin và công nghệ thông tin lạc hậu. Không đủ điều kiện để kết nối và phục vụ trực tuyến cho đông đảo bạn đọc. Tài nguyên của Th− viện đ−ợc số hóa quá ít; không đáp ứng đ−ợc yêu cầu phục vụ trực tuyến... Về một th− viện KHXH ... 13 viện KHXH tầm cỡ khu vực. Xin luận chứng sơ bộ cho kiến nghị này nh− sau: 1. Mặc dù trụ sở mới của Th− viện ở số 1 Liễu Giai đã khởi công, đang đ−ợc hoàn thiện và khi đ−a vào sử dụng năm 2011 thì đây là một b−ớc thỏa mãn mơ −ớc của nhiều thế hệ những ng−ời làm công tác th− viện, tuy nhiên, với khoảng 5.000 m2 của tòa nhà 16 tầng thì về lý thuyết, cũng vẫn ch−a đạt tới trình độ tiêu chuẩn cho một th− viện với hơn 1 triệu đầu sách và các loại tài liệu khác nh− tranh, ảnh, đĩa DVD&CD, phim... hoạt động. Hơn thế nữa, th− viện đang xây dựng không có không gian khuôn viên, nghĩa là không có gara ô tô, không có hệ thống sân v−ờn cây xanh, ch−a thể nghĩ tới các trung tâm kỹ thuật nh− số hóa, phục chế, bảo quản, in ấn..., không có hạ tầng dịch vụ để phục vụ bạn đọc ở xa và bạn đọc n−ớc ngoài... Chúng tôi muốn nói rằng một trụ sở nh− vậy cũng ch−a xứng với tầm vóc thực sự của Th− viện. Chỉ nên coi trụ sở Th− viện KHXH ở số 1 Liễu Giai là b−ớc trung gian để Việt Nam có một Th− viện KHXH xứng với tầm vóc của nó. 2. Trong so sánh với một số th− viện đ−ợc quảng bá ồn ào ở trong n−ớc và ở n−ớc ngoài, thì Th− viện KHXH tại 26 Lý Th−ờng Kiệt không thiếu nguồn lực, không thiếu những tiêu chuẩn của một th− viện có giá trị, chỉ thiếu cơ sở hạ tầng. Đây chính là điều mà những ng−ời làm th− viện mong muốn Nhà n−ớc quan tâm thỏa đáng để sao cho 5-10 năm tới Th− viện KHXH có đ−ợc một trụ sở xứng với tầm vóc và giá trị của nó. Chúng tôi kính đề nghị Chính phủ và Viện KHXH Việt Nam chú ý đến kiến nghị này và sớm lên kế hoạch cho dự án xây dựng một Th− viện KHXH tầm cỡ khu vực. Thiết nghĩ dự án này không viển vông, không hoang phí và cũng không phải là quá khó so với khả năng hiện tại của đất n−ớc và của Viện KHXH Việt Nam. 3. Chúng ta đang mong muốn và cũng đã từng b−ớc đầu t− để nền khoa học n−ớc nhà trong t−ơng lai có thể sánh với các n−ớc trong khu vực và không cách quá xa so với khoa học thế giới. Nhìn vào thực trạng hiện nay thì khả năng cạnh tranh hoặc có thể sánh ngang với các nền khoa học mạnh trong khu vực trong khoảng 10-20 năm tới là khó hoặc rất khó. Thế nh−ng, nếu có dự án xây dựng một Th− viện KHXH tầm cỡ, thì chỉ trong một thời gian ngắn, đất n−ớc chắc chắn có một Trung tâm thông tin-th− viện tầm cỡ về KHXH mà tất cả những ai quan tâm đến ph−ơng Đông và Việt Nam đều không thể không thừa nhận. 4. Với bản thân nền KHXH, chúng tôi muốn nói rằng, trong số những t− liệu ch−a đ−ợc khai thác tại Th− viện KHXH nh− sắc phong, h−ơng −ớc, bản đồ, t− liệu cổ tiếng Nhật, tiếng Hoa... biết đâu lại đang chứa những điều bí mật, những chỉ dẫn đáng giá của cha ông, hoặc những kết luận giá trị của các nhà khoa học đi tr−ớc mà tiếc rằng, do ch−a đ−ợc khai thác nên các nhà nghiên cứu chúng ta lại phải một lần nữa mất rất nhiều công sức để mò mẫm tìm kiếm cái đã đ−ợc ghi trong văn tự. Với nhiều lĩnh vực, các nhà khoa học Việt Nam mãi mãi chỉ là ng−ời đi sau, vì đó là những lĩnh vực mà ta đều phải học hỏi và tiếp thu từ bên ngoài. Nh−ng nếu biết khai thác di sản của cha ông còn chứa đựng trong những t− liệu quý hiếm này, thì rất có thể KHXH Việt Nam sẽ có những đóng góp nh− là những nghiên cứu tiên phong, ít ra là về Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2010 14 đặc thù văn hoá Việt Nam và ph−ơng Đông. Trên thực tế, ở một số lĩnh vực thuộc các khoa học nhân văn, nh− nghiên cứu Việt ngữ, nghiên cứu các dân tộc Việt Nam, nghiên cứu con ng−ời Việt Nam,... nếu các nhà KHXH Việt Nam không đủ tài để trở thành chuyên gia hàng đầu, thì khác với thời của Jacques Dournes, Goerges Condominas, Alexandre Yersin, Henri Maitre(*), ngày nay sẽ chẳng có ai gánh vác cho ta cái trách nhiệm ấy. (*) Các học giả thực dân nghiên cứu rất sâu về Việt Nam đầu thế kỷ XX. (Xem thêm: Henri Maitre. Rừng ng−ời Th−ợng. H.: Tri thức, 2008). Với những dữ liệu khách quan nêu trên và với cả tâm huyết của mình, Viện Thông tin KHXH kính đề nghị Thủ t−ớng Chính phủ và Chủ tịch Viện KHXH Việt Nam có kế hoạch cho dự án xây dựng một Th− viện KHXH tầm cỡ khu vực. Chúng tôi nghĩ rằng, việc có dự án xứng đáng cho Th− viện KHXH hiện đã là muộn. Nh−ng sẽ là hợp lý nếu chúng ta chọn thời điểm đầu t− là lúc này, khi đất n−ớc đã b−ớc vào ng−ỡng đầu tiên của dãy hành lang thu nhập trung bình – 1.000 USD/ng−ời/năm, tức là t−ơng đối có đủ nguồn lực, có đủ tầm nhìn để xây dựng một Th− viện KHXH mà mai sau, thế hệ kế tiếp không phải làm lạ. (Tiếp theo trang 42) Hơn nữa, doanh nhân Việt Nam còn phải biết phát triển các hoạt động kinh doanh nhằm quảng bá và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, nh− phát triển các dịch vụ để khôi phục các giá trị Nho giáo, chẳng hạn nh− phát triển các dịch vụ du lịch có liên quan đến các lễ hội, các hoạt động (th− họa chẳng hạn), các công trình kiến trúc của Nho giáo, đ−a các hình ảnh mang nét văn hóa Nho giáo vào việc thiết kế mẫu, mã của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong n−ớc... Những doanh nhân khi biết kinh doanh theo h−ớng này, chắc chắn sẽ đ−ợc ng−ời tiêu dùng trong n−ớc và cả ngoài n−ớc biết đến và ủng hộ. Tài liệu tham khảo 1. Phạm Duy Hải. Vận dụng những giá trị của t− t−ởng Nho giáo vào việc xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đề tài khoa học cấp bộ, Mã số B2008 - 07 – 56. 2. Câu lạc bộ doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nhân Việt Nam x−a và nay. H.: Thống kê, 2004. 3. Nguyễn Thanh Hà. Trí tuệ Nho gia và việc xây dựng đội ngũ doanh nhân hiện đại. aspx?ID=3830 4. Đoàn Lê Giang. Nho giáo Nhật Bản và Nho giáo Việt Nam. tháng 10/ 2007. 5. Vi Chính Thông (Nguyễn Huy Quý, Nguyễn Kim Sơn... dịch). Nho gia với Trung Quốc ngày nay. H.: Chính trị Quốc gia, 1996. 6. Quang Đạm. Nho giáo x−a và nay. H.: Văn hoá, 1994. 7. Trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc. Vài nét về triết lý Nho Giáo mới ở Hàn Quốc -
File đính kèm:
- ve_mot_thu_vien_khoa_hoc_xa_hoi_tam_co_khu_vuc.pdf