Về bản đồ Hà Nội 1831 tại thư viện viện thông tin khoa học xã hội
- Về nguồn gốc
Bản đồ Hà Nội 1831 hiện đang lưu
giữ tại Thư viện KHXH có thể chính là
tấm bản đồ được vẽ vào năm 1831 –
năm cuối cùng của Kinh thành Thăng
Long. Đây là thời gian Vua Minh Mạng
thực hiện cải cách bộ máy hành chính,
chia cả nước thành 29 tỉnh (tháng
10/1831). Tỉnh Hà Nội lúc bấy giờ bao
gồm phủ Hoài Đức (thành Thăng Long
cũ và huyện Từ Liêm của trấn Sơn Tây)
và 3 phủ ứng Hòa, Thường Tín, Lý
Nhân của Trấn Sơn Nam Thượng cũ.
Thông qua những tư liệu về Thăng
Long thời cổ mà Bản đồ đã cung cấp và
những chứng cứ qua đối chiếu với sử
liệu, PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí cho rằng:
“các tác giả đã hoàn thành trước khi
thành lập tỉnh Hà Nội” và kết luận: 1/
Đây là tấm bản đồ toàn cảnh phủ Hoài
Đức trước khi tỉnh Hà Nội thành lập.
Toàn phủ chỉ quản hạt hai huyện, 13
tổng; 2/ Các quan đầu triều Hà Nội đã sử
dụng tấm bản đồ này để tiến hành đo
đạc xây dựng tỉnh lỵ Hà Nội; và 3/ Đây
là tấm bản đồ hiện không có bản sao.∗
Bản đồ này không ghi tên ở phía lề
trên cùng hoặc lề dưới theo thông lệ.
Tuy nhiên, tại khung chú giải ở góc
cuối bên trái bản đồ có ghi dòng chữ:
“Hoài Đức Phủ toàn đồ” cùng các nét hoạ
và chú giải phản ánh vị trí địa lý của
thành Thăng Long cũ và vùng phụ cận;
có chỉ giới là phủ Hoài Đức bao gồm 2
huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương, tức
toàn cảnh thủ phủ của Bắc thành.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về bản đồ Hà Nội 1831 tại thư viện viện thông tin khoa học xã hội
Về Bản đồ Hà nội 1831 tại Th− viện viện thông tin Khoa học x hội Hoàng Ngọc Sinh(*) h− viện Khoa học xã hội (Viện Thông tin KHXH) hiện đang l−u trữ 44 tấm bản đồ về Hà Nội. Hầu hết, số bản đồ này đ−ợc xuất bản từ thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, bằng tiếng Pháp, một số ít đ−ợc xuất bản bằng tiếng Trung và tiếng Việt. Đặc biệt, tấm bản đồ Hà Nội năm 1831 đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực: sử học, khảo cổ học, văn hóa, quy hoạch, kiến trúc đô thị,... Đôi nét về hiện trạng bản đồ Hà Nội 1831 - Về nguồn gốc Bản đồ Hà Nội 1831 hiện đang l−u giữ tại Th− viện KHXH có thể chính là tấm bản đồ đ−ợc vẽ vào năm 1831 – năm cuối cùng của Kinh thành Thăng Long. Đây là thời gian Vua Minh Mạng thực hiện cải cách bộ máy hành chính, chia cả n−ớc thành 29 tỉnh (tháng 10/1831). Tỉnh Hà Nội lúc bấy giờ bao gồm phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ và huyện Từ Liêm của trấn Sơn Tây) và 3 phủ ứng Hòa, Th−ờng Tín, Lý Nhân của Trấn Sơn Nam Th−ợng cũ. Thông qua những t− liệu về Thăng Long thời cổ mà Bản đồ đã cung cấp và những chứng cứ qua đối chiếu với sử liệu, PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí cho rằng: “các tác giả đã hoàn thành tr−ớc khi thành lập tỉnh Hà Nội” và kết luận: 1/ Đây là tấm bản đồ toàn cảnh phủ Hoài Đức tr−ớc khi tỉnh Hà Nội thành lập. Toàn phủ chỉ quản hạt hai huyện, 13 tổng; 2/ Các quan đầu triều Hà Nội đã sử dụng tấm bản đồ này để tiến hành đo đạc xây dựng tỉnh lỵ Hà Nội; và 3/ Đây là tấm bản đồ hiện không có bản sao.∗ Bản đồ này không ghi tên ở phía lề trên cùng hoặc lề d−ới theo thông lệ. Tuy nhiên, tại khung chú giải ở góc cuối bên trái bản đồ có ghi dòng chữ: “Hoài Đức Phủ toàn đồ” cùng các nét hoạ và chú giải phản ánh vị trí địa lý của thành Thăng Long cũ và vùng phụ cận; có chỉ giới là phủ Hoài Đức bao gồm 2 huyện Vĩnh Thuận và Thọ X−ơng, tức toàn cảnh thủ phủ của Bắc thành. - Về hiện trạng Đây là tấm bản đồ mộc, đ−ợc vẽ tay trên giấy Croky, gồm nhiều mảnh ghép, kích th−ớc 175x190cm, tỷ lệ 1/500 tr−ợng (theo đơn vị đo độ dài cổ: dặm, tr−ợng, th−ớc); ở góc lề d−ới cùng bên phải ghi ký hiệu A2.3.32. Tên các địa danh và (∗) Viện Thông tin KHXH. T Về Bản đồ Hà Nội 1831 33 chú giải trên bản đồ đ−ợc ghi bằng chữ Hán và chữ Nôm. Ngày hoàn thành: 15/5/1831 (năm Minh Mạng thứ 12- 1831). Tác giả là Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến. Toàn bộ nền giấy đã ố vàng, lão hóa do thời gian và nấm mốc xâm thực; nhiều mảng bị giòn, vỡ. Nét vẽ và màu chữ hầu hết có màu gốc cyanóe (xanh tím) nay đã chuyển bleu hóa (màu lơ), có đôi chỗ mờ nhạt, mất nét do mảnh vỡ không còn l−u lại. Các mảng đồ hoạ phân chia địa giới khi vẽ đ−ợc thể hiện bằng các màu sắc khác nhau, có lẽ đ−ợc sử dụng bằng màu n−ớc; do tác động của các yếu tố thời gian, nhiệt độ, ánh sáng mà các mảng màu đã phai nhạt một phần. Bản đồ từng đã đ−ợc bồi theo ph−ơng pháp thủ công trên nền vải mộc, từ thời gian nào ch−a xác định đ−ợc, nay đã bong tách nhiều chỗ. Những giá trị nổi bật của “Hoài Đức Phủ toàn đồ” Cuối năm 2009, Viện Thông tin KHXH tổ chức tọa đàm khoa học b−ớc đầu xem xét và đánh giá về “Hoài Đức Phủ toàn đồ” với sự tham gia của nhiều chuyên gia, về lịch sử (GS. Phan Huy Lê, nhà sử học D−ơng Trung Quốc), Hán Nôm (PGS. TS. Trịnh Khắc Mạnh, PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí, PGS. TS. Tạ Ngọc Liễn...); đại diện các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành, các chuyên gia sâu về các lĩnh vực l−u trữ - bảo quản, đo đạc bản đồ, tin học, xuất bản bản đồ... Các giá trị nổi bật của Bản đồ đ−ợc các chuyên gia đánh giá nh− sau: 1. Về địa lý - “Hoài Đức Phủ toàn đồ” cho biết tên, vị trí chính xác của từng tổng, ph−ờng, thôn, trại. Phủ hạt gồm 02 huyện, 13 tổng, 247 ph−ờng, thôn, trại. Trong đó, huyện Thọ X−ơng có 08 tổng, ph−ờng, thôn, trại. Đó là các tổng: Tiền Túc có 30 ph−ờng, thôn; Tả Túc có 29 ph−ờng, thôn; Hữu Túc có 19 ph−ờng, thôn; Hậu Túc có 17 ph−ờng, thôn; Tiền Nghiêm có 26 ph−ờng, thôn; Tả Nghiêm có 23 ph−ờng, thôn; Hữu Nghiêm có 26 ph−ờng, thôn; Hậu Nghiêm có 19 ph−ờng, thôn; Huyện Vĩnh Thuận có 05 tổng, 54 ph−ờng, thôn, trại. Đó là các tổng: tổng Th−ợng có 07 ph−ờng; tổng Trung có 06 ph−ờng; tổng Nội có 10 thôn, trại; tổng Hạ có 07 ph−ờng, trại; tổng Yên Thành có 24 thôn. - Xác định vị trí các hồ, đầm mà các bản đồ tr−ớc và sau đó thể hiện không đầy đủ nh−: đầm Bảo Khánh, hồ Linh Lang, hồ Đồng Lâm, hồ Hào Nam, Hữu Vọng hồ. Thậm chí, Bản đồ còn cho biết rõ kích th−ớc của hồ nh−: “Đạc Tây hồ chu vi cai tr−ờng nhị thập nhất lý linh thất thập bát tr−ợng”. Nghĩa là: đo chu vi của hồ Tây dài 21 dặm 78 tr−ợng. - Điểm vị trí các chùa, đình, đền nh−: Yên Hoa tự, Yên Hoa đình, Sùng Ân tự, Tổ Ong tự, Kim Ng−u từ, Bì thị... 2. Về phác họa bố phòng quân sự - Miêu tả chi tiết các cơ quan ty, sở, doanh trại quân đội, x−ởng, cửa cấm thành: Ty Hình Tào, Ty Binh Tào, Ngục Sở, Tả Doanh, Tiền Doanh, Hùng Dũng, Vũ Dũng, Thần Cơ, T−ợng X−ởng, D−ợc Th−ơng... - Phân bố các đồn binh trấn ngữ các vị trí cửa ngõ Phủ: Thủy đồn, Trung Quân đồn, Tả Quân đồn, Hậu Quân đồn, Cựu đồn, Hữu Quân đồn,... Các đồn binh đ−ợc đặt chủ yếu tại các giao thủy lộ, kiểm soát các h−ớng tiến vào thành qua đ−ờng sông Nhị Hà, sông Tô. Các trại lính đặt khá tập trung ở ngoại vi trấn mạn Tây Bắc đến Bắc của Bắc Thành, là nơi tập kết của bộ binh đồng thời gần với các trại ngựa chiến, voi chiến, tr−ờng võ. 34 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2010 3. Về giao thông - Không chỉ các trục giao thông chính của nội đô đ−ợc đo vẽ tỉ mỉ, chính xác, mà tất cả các đ−ờng giao thông lớn nhỏ nội ph−ờng, liên ph−ờng, liên thôn cũng đ−ợc thể hiện đầy đủ và chi tiết. Nhìn vào bản đồ thấy rõ trục hoàng đạo từ Kính Thiên qua Đoan Môn tới kỳ đài và hồ (x−a phía tr−ớc Cột Cờ là hồ n−ớc khá lớn tồn tại tới cuối thế kỷ XIX). - Độ dài của mỗi con đ−ờng, đoạn đ−ờng đều đ−ợc ghi lại kích th−ớc cụ thể bằng đơn vị đo độ dài cổ nh−: “Nội tự Nhật Chiêu ph−ờng tam kỳ lộ chí Yên Thái ph−ờng tam kỳ lộ lục lý linh nhất bách thất tr−ợng” (Trong đó từ đ−ờng ngã ba ph−ờng Nhật Chiêu đến đ−ờng ngã ba ph−ờng Yên Thái là 6 dặm 107 tr−ợng). T−ơng tự, khoảng cách giữa các cửa ô liền kề cũng đ−ợc ghi lại bằng con số chính xác: “Nội tự Thịnh Quang ô môn chí Hàm Long ô môn tam lý linh thập thất tr−ợng ngũ xích” (Trong đó từ cửa ô Thịnh Quang đến ô Hàm Long là 3 dặm 17 tr−ợng 5 th−ớc). - Các nút giao thông cũng đ−ợc thể hiện rõ ràng: “Nội tự Thủy Quân đồn thập tự lộ chí Hậu Lâu Ph−ờng thập tự lộ nhất lý linh nhị thập thất tr−ợng ngũ xích” (Trong đó từ đ−ờng ngã t− đồn Thủy Quân đến đ−ờng ngã t− ph−ờng Hậu Lâu là 1 dặm 25 tr−ợng 5 th−ớc) hoặc “Nội tự Xã Đàn ph−ờng Tam kỳ lộ chí Hữu Lễ xã thập tự lộ nhị lý linh ngũ tr−ợng” (Trong đó từ đ−ờng ngã ba ph−ờng Xã Đàn đến đ−ờng ngã t− xã Hữu Lễ là 2 dặm 5 tr−ợng). - Bản đồ còn thể hiện hệ thống phòng thủ bên ngoài các cửa ô của thành đ−ợc xác định rõ còn có hào ngăn cách (mà nay không còn), về phía Đông lấy bờ sông Nhị Hà làm mốc: “Đạc Hà Nội tự tiền diện hào ngoại quy tá chí Nhĩ Hà tân thứ ngũ linh tam thập nhị tr−ợng ngũ xích”- Đo Hà Nội từ mặt tr−ớc ngoài hào trở về bên trái đến bến sông Nhị Hà là 3 dặm 20 tr−ợng 5 th−ớc. “Đạc Hà Nội tự Đông Môn hào ngoại chí Nhĩ Hà tân thứ nhất lý linh bát thập bát tr−ợng”- Đo từ ngoài hào Cửa Đông Hà Nội đến bến sông Nhị Hà là 1 dặm 88 tr−ợng. “Đạc Hà Nội tự Bắc Môn hào ngoại quy tả chí Nhĩ Hà tân thứ nhất bách thập nhị tr−ợng”- Đo từ ngoài hào Cửa Bắc Hà Nội quay về bên trái đến bến sông Nhị Hà là 112 tr−ợng. “Đạc Hà Nội tự Tây Môn hào ngoại quy tiền chí Thanh Ninh thôn Tam kỳ lộ ngũ lý linh tam thập cửu tr−ợng”- Đo từ hào ngoài Cửa Tây Hà Nội quay lên đến đ−ờng ngã ba thôn Thanh Ninh là 5 dặm 60 tr−ợng. “Đạc Hà Nội tỉnh tự Nam Môn hào ngoại chí giáp thành thập tự lộ ngũ lý linh nhất bách nhị tr−ợng” – Đo tỉnh Hà Nội từ ngoài hào Cửa Nam đến giáp đ−ờng ngã t− tỉnh thành là 5 dặm 102 tr−ợng. “Đạc Hà Nội tự Nam Môn hào ngoại quy hữu chí Thập tự lộ giáp Sơn Tây trấn lục lý linh tam thập cửu tr−ợng”- Đo từ ngoài hào Cửa Nam Hà Nội về bên phải đến đ−ờng ngã t− giáp trấn Sơn Tây là 6 dặm 39 tr−ợng. Phải chăng, con số đo độ dài xích, tr−ợng, dặm ngoài sự biểu đạt độ dài của chính đoạn đ−ờng đó còn có ý nghĩa −ớc l−ợng số b−ớc chân bộ binh hoặc thời gian kị binh di chuyển khi thời chiến? 4. Về kiến trúc - Bản đồ miêu tả chi tiết vị trí các doanh, x−ởng, cung trong Hoàng Thành: Long Vũ, Tả Doanh, T−ợng X−ởng, Thần Cơ, Tiền Doanh, D−ợc Th−ơng, Về Bản đồ Hà Nội 1831 35 Tòng Thành, Ngục Sở, Hùng Dũng, Hậu Quan, Hộ Tào Quan, Ty Hình Tào, Ty Binh Tào,... - Thành Đại La đ−ợc đắp bao quanh, có chu vi chạy vòng theo các cửa ô đo đ−ợc là: “Đại La ngoại thành kinh quá các ô môn chu vi kế tr−ờng nhị thập bát lý linh thất thập thất tr−ợng tứ xích” (chu vi thành Đại La qua các cửa ô có độ dài là 28 dặm 77 tr−ợng 4 th−ớc). Nh− vậy, ta có thể hình dung bức tranh kiến trúc phòng thủ của thành Hà Nội gồm: đê La Thành bao bọc thành Thăng Long cũ, phía ngoài thành là con hào có n−ớc; các cửa ô là nơi cho phép bên trong và bên ngoài thành vận chuyển hàng hóa, qua lại giao tiếp có các cơ lính canh gác ngày đêm. Tại vị trí các cung điện của Hoàng Thành x−a, trên bản đồ Hà Nội 1831 chủ yếu là các doanh trại quân đội (Tiền Doanh, Hậu Doanh...). 5. Về nghệ thuật can vẽ bản đồ Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc thì “Bản đồ Hà Nội năm 1831 đ−ợc đạc họa một cách tinh xảo, chuẩn xác tới mức đã có ng−ời cho rằng bản đồ đ−ợc vẽ vào thời Pháp thuộc” và đây là tấm bản đồ hành chính đầu tiên họa về phủ Hoài Đức, t−ơng ứng với nội thành Hà Nội ngày nay. Cũng theo ông, tấm bản đồ này có thể đ−ợc chế tác theo cách từ bản gốc trên giấy dó gồm nhiều mảnh ghép lại mà nét vẽ và chữ do các tác giả trực tiếp thể hiện, rồi in chiếu theo kiểu Ô- da-lít lên một tờ khổ lớn. Nh− vậy, tấm bản đồ này là độc bản và rất quý giá. 6. So sánh với bản đồ cổ Các nhà nghiên cứu và bạn đọc tại Th− viện KHXH từng biết đến tấm bản đồ cổ về Hà Nội năm 1873 tỉ lệ 1/5000, kích th−ớc 140cm x 170cm của tác giả Phan Đình Bách vẽ năm 1873 (hiện đang đ−ợc tr−ng bày tại Phòng tra cứu, Th− viện KHXH 26 Lý Th−ờng Kiệt, Hà Nội). Đây là tấm bản đồ đ−ợc đánh giá là bản đồ cổ Hà Nội đẹp nhất. Tuy nhiên, sơ bộ so sánh về kích th−ớc, tính chính xác về tỷ lệ, tính chất “cổ” thì tấm bản đồ Hà Nội năm 1831 đều v−ợt trội. Đặc biệt, bản đồ mang sự kiện lịch sử có một không hai là ghi lại toàn cảnh phủ Hoài Đức lúc bấy giờ, là năm đầu tiên của Hà Nội, và lại là tấm bản đồ độc bản. Một số đề xuất về tu bổ, bồi vá, phục chế, số hóa bản đồ Mục đích đ−ợc đặt ra trong quá trình tiếp cận “Hoài Đức Phủ toàn đồ” là công bố và đ−a tấm bản đồ này phục vụ độc giả khai thác t− liệu, đồng thời bảo quản lâu dài hiện vật gốc. Trong khi đó, bản đồ đang trong tình trạng bị huỷ hoại nghiêm trọng. Do vậy, công việc cần làm tr−ớc tiên là: 1- Cấp bách tổ chức tu bổ bồi vá, thay thế nền bồi cũ theo các ph−ơng pháp hiện đại để đảm bảo đ−ợc tính chính xác nguyên bản của Bản đồ. Tuy nhiên, để thực hiện đ−ợc công việc này với hiện trạng của bản đồ là không dễ dàng, cần có sự kết hợp của chuyên gia nhiều ngành trong n−ớc (và có thể cả chuyên gia n−ớc ngoài); đầu t− thích hợp cả về thời gian và kinh phí. 2- Tiến hành số hóa theo ph−ơng pháp tiên tiến nhất hiện trạng Bản đồ, l−u dữ liệu gốc để làm căn cứ đối chiếu trong quá trình xử lý kỹ thuật về sau. 3- Nhân bản bản gốc và tiến hành phục chế bản đồ để sớm công bố hình ảnh và các bài nghiên cứu b−ớc đầu về Bản đồ Hà Nội 1831. Công việc này cần sớm đ−ợc tiến hành để kịp công bố nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long. Xin đ−ợc kết luận bài giới thiệu này bằng phát biểu của GS. Phan Huy Lê tại buổi tọa đàm về “Hoài Đức Phủ toàn đồ”: 36 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2010 “Đây là bản đồ duy nhất có nhiều giá trị về mặt họa đồ cũng nh− những thông tin khoa học l−u giữ trên bản đồ; t− liệu bản đồ cung cấp là những thông tin có giá trị để góp phần nghiên cứu quy mô, cấu trúc thành Thăng Long, Hà Nội cùng các di tích lịch sử văn hoá của vùng trung tâm thủ đô Hà Nội. Th− viện Viện Thông tin KHXH cần sớm tổ chức nghiên cứu và công bố bản chụp tấm bản đồ quý giá này... Khẩn cấp tìm giải pháp công nghệ hữu hiệu để gia cố, ngăn chặn tình trạng bị h− hỏng, hủy hoại của bản đồ, khôi phục lại nguyên trạng và bảo tồn lâu dài và bền vững tấm bản đồ, nghiên cứu các kinh nghiệm cổ truyền trong n−ớc kết hợp với công nghệ hiện đại của các n−ớc, nhất là các n−ớc có kinh nghiệm khôi phục, bảo tồn các văn bản chữ Hán nh− Nhật Bản, Đài Loan”. Để giúp bạn đọc có cái nhìn sơ l−ợc về hình ảnh Bản đồ Hà Nội năm 1831, Tạp chí Thông tin KHXH xin giới thiệu khu vực thành Hà Nội đ−ợc thể hiện trong Bản đồ Hà Nội năm 1831. Thành Hà Nội trong “Hoài Đức Phủ toàn đồ”
File đính kèm:
- ve_ban_do_ha_noi_1831_tai_thu_vien_vien_thong_tin_khoa_hoc_x.pdf