Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số

Tóm tắt: Ngày nay, sự phát triển khoa học công nghệ nói chung

và công nghệ thông tin nói riêng đã làm thay đổi mọi mặt của đời

sống xã hội. Hoạt động thông tin – thư viện cũng không nằm ngoài

vòng xoáy đó. Công nghệ thông tin đã làm thay đổi cả về chất và

lượng của hoạt động thông tin – thư viện. Điển hình là sự chuyển

mình của các thư viện từ thư viện truyền thống sang thư viện điện

tử, thư viện số và tiến tới là Trung tâm Tri thức số. Tuy nhiên, thách

thức trong việc xây dựng các trung tâm này đó là vấn đề bản

quyền. Bài viết giới thiệu về sự thay đổi của hoạt động thông tin -

thư viện dưới tác động của công nghệ thông tin, những vấn đề liên

quan đến bản quyền và một số ý kiến nhằm đảm bảo thực thi bản

quyền trong xây dựng Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam.

Từ khoá: Trung tâm Tri thức số; Bản quyền.

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 1

Trang 1

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 2

Trang 2

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 3

Trang 3

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 4

Trang 4

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 5

Trang 5

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 6

Trang 6

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 7

Trang 7

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 8

Trang 8

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 9

Trang 9

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang baonam 6860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số

Vấn đề bản quyền trong xây dựng trung tâm tri thức số
VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
Đinh Thúy Quỳnh1*
Tóm tắt: Ngày nay, sự phát triển khoa học công nghệ nói chung 
và công nghệ thông tin nói riêng đã làm thay đổi mọi mặt của đời 
sống xã hội. Hoạt động thông tin – thư viện cũng không nằm ngoài 
vòng xoáy đó. Công nghệ thông tin đã làm thay đổi cả về chất và 
lượng của hoạt động thông tin – thư viện. Điển hình là sự chuyển 
mình của các thư viện từ thư viện truyền thống sang thư viện điện 
tử, thư viện số và tiến tới là Trung tâm Tri thức số. Tuy nhiên, thách 
thức trong việc xây dựng các trung tâm này đó là vấn đề bản 
quyền. Bài viết giới thiệu về sự thay đổi của hoạt động thông tin - 
thư viện dưới tác động của công nghệ thông tin, những vấn đề liên 
quan đến bản quyền và một số ý kiến nhằm đảm bảo thực thi bản 
quyền trong xây dựng Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam.
Từ khoá: Trung tâm Tri thức số; Bản quyền.
1. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ TỚI THƯ VIỆN
Thư viện xuất hiện từ rất sớm, ngay khi loài người có nhu cầu lưu 
giữ thông tin. Thư viện được coi là đền đài của văn hoá và sự uyên 
thâm. Tuy nhiên, hình ảnh thư viện trước đây đơn giản chỉ là nơi tàng 
trữ hàng ngàn cuốn tài liệu được sắp xếp theo khổ cỡ và cất kỹ trong 
những kho kín của thư viện. Muốn tiếp cận được chúng, bắt buộc bạn 
đọc phải đến thư viện, phải khai thác thông qua các sản phẩm - dịch vụ 
thư viện mang tính thủ công và phải có sự hỗ trợ của thủ thư. Mặc dù, 
cùng với năm tháng và sự tiến bộ của nhân loại, các sản phẩm - dịch 
vụ thư viện đã có những cải tiến song về cơ bản vẫn truyền thống, đơn 
* Thạc sĩ, Khoa Thông tin Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
392
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
giản và nhiều hạn chế. Bạn đọc vẫn bị gò bó trong một khoảng không 
gian và thời gian nhất định. Và bản thân mỗi thư viện cũng chỉ là một 
“ốc đảo” tách biệt, không có sự liên thông, phối hợp với các thư viện 
khác để tạo thành một mạng lưới liên kết.
Sự phát triển của khoa học công nghệ nói chung và sự ra đời của 
máy tính điện tử với dung lượng bộ nhớ tưởng chừng không hạn chế, 
khả năng tính toán cực nhanh và hầu như không bao giờ nhầm lẫn 
nói riêng đã mở ra hướng đi mới, đầy triển vọng cho hoạt động thông 
tin – thư viện. Việc sử dụng kỹ thuật số để biểu diễn thông tin đã dẫn 
đến sự xuất hiện của một loại hình tài liệu mới, đó là tài liệu số hoá. 
Cho đến nay, đã có không ít định nghĩa về tài liệu số hoá được đưa ra. 
Điểm chung của các định nghĩa này đều cho rằng: tài liệu số hoá là tài 
liệu mà thông tin chứa đựng trong đó đã được biểu diễn dưới dạng mã 
nhị phân, tức là mã chỉ gồm hai số 0 và 1. Nói cách khác, tài liệu số hoá 
là tất cả những thông tin được lưu trữ dưới dạng số, được xử lý, lưu trữ 
và truy cập trên máy tính, hay trên mạng máy tính. Tài liệu số hóa có 
những đặc trưng:
- Mật độ thông tin của tài liệu số hoá rất lớn.
- Thông tin chứa trong tài liệu số hoá luôn mới vì có thể được cập 
nhật nhanh chóng, thường xuyên và kịp thời với một mức chi phí hợp 
lý và thao tác không quá phức tạp, chiếm nhiều thời gian và công sức.
- Tài liệu số hoá có khả năng được truy cập theo nhiều dấu hiệu 
khác nhau, bởi nhiều người dùng ở cùng một thời điểm mà không bị 
giới hạn về thời gian hay vị trí địa lý.
- Tài liệu số hoá có thể lưu trữ thông tin theo nhiều định dạng 
khác nhau: văn bản, hình ảnh, âm thanh, video 
- Tài liệu số hoá tạo ra một kênh thông tin phản hồi đa chiều, giúp 
người dùng tin có thể liên hệ trực tiếp với tác giả hay người tổ chức 
nguồn tin (thường được biết đến với vai trò quản trị viên hay Admin 
của nguồn tin), cũng như hỗ trợ người dùng tin tham gia vào các diễn 
đàn học thuật để trao đổi thông tin và chia sẻ cảm nhận với những 
người dùng tin khác.
393
VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
Chính với những đặc trưng nổi trội nói trên, tài liệu số hóa đang là 
nguồn tài liệu mà các thư viện hướng tới phát triển. Bởi thực tế đã chỉ ra 
rằng một cơ quan thông tin – thư viện riêng lẻ chắc chắn sẽ không có đủ 
khả năng để bổ sung tài liệu một cách đầy đủ và toàn diện cũng như đến 
một lúc nào đó không có đủ diện tích để lưu giữ và bảo quản mọi nguồn 
tin họ có, nếu như họ chỉ liên tục bổ sung một loại hình tài liệu duy nhất 
là tài liệu in ấn. Liên kết, hợp tác và tiến tới xây dựng hệ thống dữ liệu số 
lớn chính là giải pháp tất yếu mà các thư viện hướng tới. 
Nếu như trước đây, quản lý tư liệu là mục tiêu hướng tới của các thư 
viện truyền thống, thì trong thời đại thông tin như hiện nay, khi nền tảng 
của xã hội chính là dựa trên sản xuất, xử lý, lưu trữ, phổ biến, truy cập, 
sử dụng thông tin và tri thức dưới mọi hình thức, dựa trên hạ tầng cơ sở 
viễn thông phát triển thì quan niệm này đã thay đổi. Quản lý thông tin 
và quản lý tri thức mới chính là kim chỉ nam của các thư viện. Cùng xuất 
phát từ ý định ban đầu là làm tốt công việc lưu trữ và bảo quản nhưng 
thư viện ngày nay đã chú trọng đến người sử dụng, coi ngư ... ủa 
quyền sở hữu trí tuệ (2007) đã lần lượt có hiệu lực tại Việt Nam. Trong 
đó Công ước Berne có hiệu lực trước tiên vào ngày 26/4/2004. Hiệp 
định TRIPs có hiệu lực ngày 11 tháng 01 năm 2007 cùng thời điểm Việt 
Nam là thành viên của WTO.
- 03 điều ước quốc tế song phương gồm Hiệp định thiết lập quan hệ 
quyền tác giả, Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ 
quyền sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ cũng đã lần lượt có hiệu lực 
tại các quốc gia ký kết. Ngoài ra, tại các Hiệp định đa phương và song 
phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, dịch vụ v.v mà Việt Nam đã ký 
kết, tham gia cũng bao gồm các cam kết về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, 
trong đó có quyền tác giả, quyền liên quan như Hiệp định đối tác kinh 
tế Việt Nam – Nhật Bản hoặc Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình 
Dương mà Việt Nam đang tham gia đàm phán cùng 8 quốc gia khác.
Các Điều ước, Hiệp ước quốc tế và Hiệp định nêu trên có khoảng 
trên 200 điều luật, là những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. 
Công dân và pháp nhân các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ khi 
khai thác các quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân 
Việt Nam, ngược lại công dân và pháp nhân Việt Nam phải thực hiện 
nghĩa vụ pháp lý khi khai thác, sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan 
của công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên liên quan. 
3. VIỆC THỰC THI BẢN QUYỀN TRONG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM
Công nghệ số ra đời đã làm thay đổi sâu sắc và toàn diện cơ sở 
thông tin của xã hội. Với các thiết bị công nghệ số, dữ liệu thông tin được 
tạo lập nhanh chóng, lưu trữ lâu dài, phổ biến rộng rãi và sử dụng thuận 
tiện. Việc xây dựng Trung tâm Tri thức số không chỉ góp phần bảo tồn 
các di sản văn hoá, mà còn là nguồn lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát 
triển. Chính vì vậy, xây dựng Trung tâm Tri thức số đang là vấn đề mà 
các thư viện ở Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề bản quyền trong 
Trung tâm Tri thức số cũng đang làm “đau đầu” của không chỉ tác giả, 
chủ sở hữu quyền tác giả, cơ quan quản lý nhà nước mà cả những đơn vị 
muốn khai thác, sử dụng tác phẩm để số hoá một cách hợp pháp. 
399
VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến bản quyền 
đã được ban hành khá chi tiết, đầy đủ và phù hợp với tình hình mới 
nhưng thực tế tỉ lệ vi phạm bản quyền ở Việt Nam vẫn khá cao. Theo số 
liệu năm 2017 của Cục Bản quyền Tác giả Văn học – Nghệ thuật, tỷ lệ vi 
phạm bản quyền ở Việt Nam rất cao (88%). Trong lĩnh vực công nghệ 
thông tin (CNTT), tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm của Việt Nam ở 
mức 78% trong năm 2015 theo đánh giá của BSA (Liên minh phần mềm 
doanh nghiệp) và IDC (hãng nghiên cứu thị trường). Do vậy, trong bối 
cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, là cơ quan 
có chức năng văn hóa, giáo dục, thông tin, giải trí, các thư viện ở Việt 
Nam càng cần phải có trách nhiệm bảo vệ và thực thi bản quyền khi 
xây dựng Trung tâm Tri thức số.
Phần quan trọng nhất của Trung tâm Tri thức số là kho tài nguyên 
số. Thông thường, các kho này được tạo lập thông qua 3 hình thức sau:
- Chuyển dạng nguồn tài nguyên dạng giấy có trong thư viện sang 
dạng số bằng phương pháp quét hoặc sử dụng các nguồn tài nguyên 
có sẵn ở dạng số.
- Bổ sung nguồn tài nguyên số thông qua việc mua bán, trao đổi 
với các nhà xuất bản, các đơn vị cung cấp tài liệu số.
- Xây dựng các liên kết đến các nguồn tài nguyên có trên Internet, 
nhất là nguồn của các cơ quan có cùng diện chuyên ngành.
Trong đó, việc tự số hóa nguồn tài liệu dạng giấy để đưa vào kho 
tài nguyên số là rất quan trọng và có liên quan đến vấn đề bản quyền. 
Bản thân việc số hóa tài liệu không phải là hành vi sử dụng quyền tác 
giả và quyền liên quan, nhưng mục đích của việc số hóa lại có thể là 
hành vi sử dụng quyền theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, 
để đảm bảo quá trình xây dựng Trung tâm Tri thức số được tiến hành 
hợp pháp, việc xác định tài liệu dự kiến đưa vào kho tài nguyên số có 
phải là đối tượng của quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định 
của pháp luật hay không là rất cần thiết.
Theo quy định về bản quyền, tài liệu được chia thành 2 loại:
•	 Tài liệu nằm ngoài bản quyền (Out-of-copyright)
400
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
- Tài liệu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước như: văn bản pháp 
quy, số liệu thống kê, tài liệu thuộc lĩnh vực tư pháp. Luật Sở hữu 
trí tuệ Việt Nam; Chương I, Mục 1, Điều 15 “Các đối tượng không 
thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả: 1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin. 
2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác 
thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó. 3. Quy 
trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”.
- Tài liệu đã thuộc về công chúng (Public domain): Tài liệu có bản 
quyền nhưng đã hết thời gian bảo hộ. Luật Sở hữu trí tuệ quy định rõ 
thời hạn bảo hộ đối với từng đối tượng: Thời hạn bảo hộ quyền công 
bố tác phẩm và các quyền tài sản đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp 
ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh là bảy mươi lăm năm, 
kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Các loại hình tác phẩm 
khác có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp 
theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì 
thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác 
giả cuối cùng chết. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan là năm mươi năm 
tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình, bản ghi âm, 
ghi hình được công bố hoặc định hình nếu chưa công bố, chương trình 
phát sóng được thực hiện.
- Khi tác giả không tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản của Luật 
Bản quyền: Chẳng hạn như tác phẩm thuộc sự bảo hộ của Luật bản 
quyền nhưng tác giả đồng ý chuyển giao tác phẩm vào phạm vi công 
cộng và cho mọi người sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích nào một 
cách vô điều kiện. 
Đối với các tài liệu nằm ngoài bản quyền, thư viện có thể tiến hành 
số hoá bất cứ khi nào có thể mà không cần đặt ra vấn đề xin phép sử 
dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, trong suốt quá trình 
tiến hành số hoá, quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm cần 
được tôn trọng, quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và không 
thể chuyển nhượng, do vậy trên các dữ liệu số hoá vẫn phải đảm bảo 
quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm, quyền bảo 
vệ sự toàn vẹn của tác phẩm của tác giả tác phẩm gốc.
401
VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
•	 Tài liệu được bảo hộ theo Luật Bản quyền
Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là tác phẩm văn 
học, nghệ thuật, khoa học và các tác phẩm phái sinh của các loại hình 
tác phẩm này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác 
phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh (Điều 14, Khoản (1), (2) 
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005).
Như vậy, theo quy định trên thì tất cả giáo trình, đề cương, bài 
giảng, sách tham khảo, sách chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài 
viết trên tạp chí và các tài liệu khác có trong thư viện đều là tác phẩm 
được bảo hộ theo Luật Bản quyền. Thư viện chỉ là chủ sở hữu đối với các 
cuốn sách cụ thể được lưu trữ trong thư viện. Tác giả viết các cuốn sách 
hay các tổ chức, cá nhân được tác giả chuyển nhượng quyền mới là chủ 
sở hữu quyền tác giả đối với các cuốn sách đó. Do đó, khi tiến hành số 
hóa các tài liệu này, về nguyên tắc, thư viện cần xin phép và thực hiện 
nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả 
theo thoả thuận. Việc xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên 
quan hiện nay có thể thực hiện đơn giản và dễ dàng. Người sử dụng có 
thể theo các thông tin quản lý quyền có trên tác phẩm liên hệ trực tiếp 
với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đề được cấp phép, hoặc thông qua 
các tổ chức quản lý tập thể nếu tác giả, chủ sở hữu quyền đã ủy thác 
quyền cho các tổ chức này quản lý (điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ). Tại Việt 
Nam, hiện đang có bốn tổ chức quản lý tập thể, gồm: Trung tâm Bảo vệ 
quyền tác giả âm nhạc Việt Nam- VCPMC, Trung tâm Quyền tác giả văn 
học Việt Nam - VLCC, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam - RIAV, 
Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam - VIETRRO.
Tuy nhiên, thực tế theo quy định về giới hạn và ngoại lệ trong cơ 
chế bảo hộ bản quyền, công chúng được tự do sử dụng trong một số 
trường hợp nhất định. Nếu hành vi số hoá tài liệu thuộc một trong các 
trường hợp mà Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định tại điều 25, điều 33 thì 
người tiến hành số hóa không có nghĩa vụ xin phép, không phải trả 
tiền nhuận bút, thù lao, ví dụ:
“a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, 
giảng dạy của cá nhân; 
402
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích 
nghiên cứu;...
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc 
để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, 
mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu 
hình ảnh của tác phẩm đó;” (Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ)
Cần lưu ý các ngoại lệ này chỉ áp dụng đối với các tác phẩm đã được 
công bố, không thể áp dụng cho các tác phẩm chưa công bố và phải đảm 
bảo tuân thủ quy tắc “phép thử ba bước” (không được làm ảnh hưởng 
đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến 
quyền lợi hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả).
Đối với các tài liệu không xác định rõ thời hạn bảo hộ bản quyền 
hay không xác định được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người sử 
dụng cần cân nhắc những rủi ro về kinh tế và pháp lý có thể phát sinh 
để quyết định có tiến hành số hoá hay không. Ngoài ra, cũng có trường 
hợp có thể tiến hành số hoá tài liệu nhưng phải thoả mãn một số điều 
kiện mà chủ sở hữu bản quyền yêu cầu.
4. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM ĐẢM BẢO THỰC THI VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG TRUNG TÂM 
TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM
Việt Nam cần có một hành lang pháp lý đủ mạnh để vừa tạo điều 
kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tìm kiếm, xử lý, số hoá, bao gói, 
chuyển giao thông tin; vừa bảo vệ thiết thực bản quyền tác giả đối với các 
tác phẩm mà các cá nhân, tổ chức sở hữu.
Cần nâng cao nhận thức cho cán bộ thư viện về sở hữu trí tuệ 
trong hoạt động thông tin – thư viện nói chung và xây dựng Trung tâm 
Tri thức số nói riêng. Cán bộ thư viện cần phải nắm vững và hiểu rõ 
những điều được làm và không được làm trong quá trình thu thập, tạo 
lập và khai thác kho dữ liệu số.
Bản thân việc số hoá tài liệu không vi phạm bản quyền, việc vi phạm 
hay không phụ thuộc vào mục đích sử dụng và phạm vi sử dụng. Do đó, 
403
VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
thư viện cần xác định rõ việc xây dựng Trung tâm Tri thức số chỉ nhằm 
một mục đích duy nhất là phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên 
cứu khoa học. Tuyệt đối không sử dụng cho bất kỳ mục đích thương mại 
nào làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người nắm giữ bản quyền. 
Tuyệt đối không được cung cấp và phục vụ sản phẩm, dịch vụ số hóa 
loại tài liệu được bảo hộ theo luật bản quyền trên mạng Internet.
Khi tiến hành số hóa tài liệu, thư viện cần xác định được trạng 
thái bản quyền của tác phẩm và phương thức sử dụng tác phẩm. Đối 
với tài liệu mà thư viện được tặng bởi người có quyền tác giả, thì thư 
viện có thể tiến hành số hoá, tuy nhiên cần phải yêu cầu người tặng 
cung cấp cho mình quyền được số hoá tài liệu (có thể bằng một bản 
chuyển nhượng có ghi “quyền sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích chung 
của thư viện, dưới bất kỳ phương tiện nào”). Đối với các tài liệu khác, thư 
viện có thể dùng phương thức “sử dụng hợp lý” để cung cấp cho người 
sử dụng dịch vụ đọc bản số hóa trong hệ thống mạng nội bộ. Mặc dù 
pháp luật về Quyền tác giả của Việt Nam chưa trao cho thư viện đặc 
quyền này, nhưng phương thức sử dụng này sẽ không dẫn đến tranh 
chấp Quyền tác giả do dịch vụ này chỉ cho phép người sử dụng đọc 
các tác phẩm có bản quyền trên các máy trạm của thư viện, không cho 
phép tải xuống và in ấn.
KẾT LUẬN
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, Trung 
tâm Tri thức số đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới nói 
chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong khoảng một vài năm trở lại đây, 
nhiều Trung tâm Tri thức số trên thế giới đã được xây dựng, góp phần 
tạo ra các sản phẩm thông tin có giá trị, đáp ứng nhu cầu ngày càng 
cao của người dùng tin. Trung tâm Tri thức số ra đời đã làm thay đổi 
cơ bản phương thức hoạt động của thư viện từ truyền thống sang hiện 
đại, làm cho hoạt động thông tin thư viện trở nên sinh động và hiệu 
quả hơn, làm thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối với công tác thông 
tin thư viện. Xây dựng Trung tâm Tri thức số là xu thế tất yếu và là 
mục tiêu phát triển của các thư viện ở Việt Nam. Tuy nhiên, để đảm 
404
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
bảo tính hợp pháp cũng như quyền lợi của tác giả khi sử dụng các tác 
phẩm để số hóa, các thư viện cần quan tâm và thực thi tốt vấn đề bản 
quyền trong hoạt động thông tin - thư viện. Để làm được điều đó đòi 
hỏi các thư viện phải có nhận thức đúng đắn cũng như nắm vững các 
nội dung liên quan vấn đề bản quyền trong Trung tâm Tri thức số.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Loan Thuỳ, Bùi Thu Hằng (2011), Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và quyền 
tác giả trong hoạt động thông tin - thư viện, Tạp chí Thư viện, Số1 (27), tr. 16-23.
2. Cục Bản quyền tác giả (2010), Các quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế về 
quyền tác giả và quyền liên quan.
3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 
100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một 
số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên 
quan, Hà Nội.
4. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 
100/2006/NĐ-CP ban hành ngày 21/9/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi 
hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và quản 
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu 
trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005.
6. Besek, June M. (2003), Copyright Isues Relevant to the Creation of a Digital 
Archive: A preliminary Assessment, Council on Library anf Information 
Resources and the Library of Congress.
7. IFLA, Copyright Issues for Libraries, https://www.ifla.org/copyright-issues-
for-libraries, 20/2/2018.
8. Sullivan, Micalee, The Digital Archive and Copyright Headaches, http://
www.gradhacker.org/2011/06/01/the-digital-archive-and-copyright-
headaches/, 20/2/2018.
9. Wang, Wen-chun, Lai, Wen-chi, A Study on the Application of Expert System 
for Digital Archivers related Copyright Problem Solving, Info Share Tech Law 
Office, Taipei. 
10. WIPO, Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works, 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_ban_quyen_trong_xay_dung_trung_tam_tri_thuc_so.pdf