Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân

chính quy trường Đại học Y tế công cộng, năm 2019.

Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang phân tích. Nghiên cứu được thực hiện từ

tháng 04 năm 2019 đến tháng 04 năm 2020, trên 420 sinh viên cử nhân chính quy của trường Đại học Y

tế công cộng. Thông tin được thu thập thông qua phát phiếu tự điền.

Kết quả: Tỷ lệ sinh viên yêu thích đọc sách là 80,0% và thường xuyên đọc sách chiếm 41,0%. Phân tích

mô hình hồi quy đa biến cho thấy, yếu tố liên quan đến mức độ đọc sách thường xuyên của sinh viên

gồm: Tần suất đến thư viện hàng tuần (OR=1,87; p=0,004; CI95%: 1,22 – 2,84) và Đọc hết tài liệu thầy

cô giao (OR=1,61; p=0,043; CI95%: 1,01 – 2,55). Ngoài ra, việc đọc toàn bộ sách được giao của các sinh

viên yêu thích đọc sách cũng cao hơn hẳn các sinh viên không yêu thích đọc sách.

Kết luận và khuyến nghị: Việc đọc sách trong sinh viên nhìn chung vẫn chưa cao và chịu sự ảnh hưởng

của nhiều yếu tố, trong đó có hình thức giảng dạy của thầy cô. Do đó, thầy/cô nên tăng cường việc kiểm

tra việc đọc sách, đọc tài liệu môn học trước khi vào giờ học và áp dụng tiêu chí quy định về số sách

chuyên ngành tham khảo cho mỗi bài tập trong quá trình chấm điểm.

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 1

Trang 1

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 2

Trang 2

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 3

Trang 3

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 4

Trang 4

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 5

Trang 5

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 6

Trang 6

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 7

Trang 7

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 8

Trang 8

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 9

Trang 9

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019 trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 34940
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019
90
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Nguyễn Công Minh và cộng sự
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đọc là một hoạt động văn hóa của con người, 
là một trong những phương thức giúp con 
người thư giãn, giải trí, đồng thời giúp con 
người tích lũy, nâng cao kiến thức. Đồng 
thời đây còn là kỹ năng giúp con người tích 
lũy, nâng cao tri thức; có tác động đến việc 
hình thành nhân cách con người. Trong các 
trường đại học, việc đọc sách là con đường 
giúp sinh viên tiếp thu những tri thức mới một 
cách nhanh và có hiệu quả nhất, khối lượng 
tri thức lớn được tiếp nhận từ nhiều nguồn tài 
liệu phong phú, thuận lợi và có ưu điểm tiết 
kiệm thời gian và tiền của.
Đối với nhà trường, phát triển đọc sách là yếu 
tố thúc đẩy quá trình tự học, tự nghiên cứu của 
sinh viên (1), giúp việc dạy và học được đổi 
mới theo hướng lấy người đọc là trung tâm, 
giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn 
sinh viên tìm tài liệu và nghiên cứu, những 
lời giảng của thầy cô chỉ mang tính chất gợi ý 
và định hướng. Việc học chủ yếu khả năng tự 
tiếp thu, tự nghiên cứu và xử lý với kiến thức 
của sinh viên với bài học (2). Hiện nay, trước 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử nhân 
chính quy trường Đại học Y tế công cộng, năm 2019. 
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang phân tích. Nghiên cứu được thực hiện từ 
tháng 04 năm 2019 đến tháng 04 năm 2020, trên 420 sinh viên cử nhân chính quy của trường Đại học Y 
tế công cộng. Thông tin được thu thập thông qua phát phiếu tự điền.
Kết quả: Tỷ lệ sinh viên yêu thích đọc sách là 80,0% và thường xuyên đọc sách chiếm 41,0%. Phân tích 
mô hình hồi quy đa biến cho thấy, yếu tố liên quan đến mức độ đọc sách thường xuyên của sinh viên 
gồm: Tần suất đến thư viện hàng tuần (OR=1,87; p=0,004; CI95%: 1,22 – 2,84) và Đọc hết tài liệu thầy 
cô giao (OR=1,61; p=0,043; CI95%: 1,01 – 2,55). Ngoài ra, việc đọc toàn bộ sách được giao của các sinh 
viên yêu thích đọc sách cũng cao hơn hẳn các sinh viên không yêu thích đọc sách.
Kết luận và khuyến nghị: Việc đọc sách trong sinh viên nhìn chung vẫn chưa cao và chịu sự ảnh hưởng 
của nhiều yếu tố, trong đó có hình thức giảng dạy của thầy cô. Do đó, thầy/cô nên tăng cường việc kiểm 
tra việc đọc sách, đọc tài liệu môn học trước khi vào giờ học và áp dụng tiêu chí quy định về số sách 
chuyên ngành tham khảo cho mỗi bài tập trong quá trình chấm điểm.
Từ khoá: đọc sách, sinh viên, thực trạng, yếu tố liên quan.
Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách của sinh viên cử 
nhân chính quy Trường Đại học Y tế Công Cộng năm 2019
Nguyễn Công Minh1*, Nguyễn Hoàng Nam1, Trần Thị Huyền Trang1, Trần Thị Thanh1, Nguyễn 
Ngọc Sơn1, Vũ Thị Hậu1, Tô Nguyễn Thuỵ Anh1, Đỗ Mạnh Tiến 2, Trần Thị Tuyết Hạnh1
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
*Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Công Minh
Email: bph15ncm@studenthuph.edu.vn
1Trường Đại học Y tế công cộng, 
2Trường Đại học Y dược Thái Bình
Ngày nhận bài: 18/5/2020
Ngày phản biện: 28/5/2020
Ngày đăng bài: 29/12/2020
91
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh 
mẽ trên toàn thế giới, đọc sách đã trở thành 
công cụ quan trọng, đảm bảo sinh viên trường 
đại học có khả năng tiếp cận và lĩnh hội thông 
tin, tri thức mới (1).
Thực tế cho thấy những năm gần đây giới trẻ 
và sinh viên có xu hướng lười đọc sách, ngại 
đọc sách và nếu đọc thì thường là truyện 
tranh, tiểu thuyết. Đồng thời sự phát triển 
của internet và phương tiện nghe nhìn làm 
cho việc đọc sách trong nhà trường suy giảm. 
Thống kê của Bộ Văn hóa-Thể thao và Du 
lịch cho biết trung bình người Việt Nam chỉ 
đọc 0,8 cuốn sách/người/năm (3). Đa số sinh 
viên chỉ đọc và học khi các kỳ thi tới gần, 
học để đối phó, học để thi, hoặc chỉ đọc khi 
giảng viên yêu cầu. Điều đó có nghĩa là việc 
đọc chỉ mang tính tức thời khiến sinh viên 
thiếu chủ động. Sinh viên không có kỹ năng 
đọc dẫn đến nắm bắt các vấn đề trong tài liệu 
trở nên khó khăn, đọc sách không mang lại 
hiệu quả cao trong học tập. Nếu tổng số kiến 
thức tích lũy được là 100% thì kiến thức có 
được từ đọc sách chiếm đến 45%, kiến thức 
có được trong các hình thức học khác 45% 
và 10% còn lại là tích lũy từ quá trình giao 
tiếp trong thực tiễn (4). Sinh viên cũng chưa 
có ý thức giữ gìn tài liệu, thói quen sắp xếp 
tài liệu chưa khoa học, bảo quản tài liệu chưa 
đúng cách gây tổn hại đến tài liệu. Ngoài ra, 
nhà trường, thư viện chưa phát huy được 
vai trò của mình trong việc hình thành thói 
quen đọc, hướng dẫn kỹ năng cũng như định 
hướng đọc cho sinh viên, đặc biệt, chưa nắm 
bắt được nhu cầu đọc của sinh viên để xác 
định các biện pháp phù hợp (4).
Trường Đại học Y tế công cộng với đặc điểm 
là một Trường đào tạo chuyên sâu trong nhiều 
lĩn ... 2.0. Nghiên cứu 
sử dụng giá trị tuyệt đối và tỷ lệ phần trăm để 
mô tả các biến phân loại. Định lượng mức độ 
liên quan bằng giá trị OR hiệu chỉnh trong mô 
hình hồi quy logistic đa biến (các. Kiểm định 
Hosmer & Lemoshow được sử dụng để kiểm 
định tính phù hợp của mô hình (p>0,05). Các 
kiểm định thực hiện ở mức ý nghĩa 5%.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức trong 
nghiên cứu Y sinh học của trường Đại học Y 
tế Công cộng thông qua tại Quyết định số 019-
394/DD – YTCC. Đối tượng nghiên cứu được 
đã ký vào giấy đồng ý tham gia nghiên cứu và 
những thông tin đối tượng cung cấp được giữ bí 
mật. Ngoài ra, đối tượng có thể từ chối trả lời 
bất kỳ câu hỏi nào mà bản thân không muốn và 
có thể dừng cuộc khảo sát mà không chịu bất 
cứ sự ràng buộc nào về mặt pháp lý. Kết quả 
nghiên cứu được phản hồi cho Nhà trường. 
KẾT QUẢ
Thông tin chung của đối tượng tham gia 
nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam 106 25,2
Nữ 314 74,8
Ngành học
Y tế công cộng 220 52,4
Kĩ thuật XNYH 111 26,4
Dinh dưỡng 58 13,8
Công tác xã hội 31 7,4
Năm học
Năm nhất 115 27,4
Năm hai 122 29,0
Năm ba 122 29,0
Năm bốn 61 14,5
Tự chủ về kinh tế
Tự chủ hoàn toàn 8 1,9
Được trợ cấp hoàn toàn 281 66,9
Nửa trợ cấp, nửa tự túc 131 31,2
Nguyễn Công Minh và cộng sự
94
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Số liệu bảng 1 cho thấy, các sinh viên tham gia 
nghiên cứu có 74,8% nữ giới và 25,2% nam 
giới. Tỷ lệ sinh viên ngành Y tế công cộng 
chiếm 52,4% và có 29,0% sinh viên năm thứ 
hai và năm thứ 3. Có 66,9% sinh viên được 
gia đình trợ cấp hoàn toàn về kinh tế.
Thực trạng đọc sách của sinh viên
Bảng 2. Thói quen và sở thích đọc sách của sinh viên (n=420)
Thói quen và sở thích Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Mức độ đọc sách
Rất thường xuyên 21 5,0
Thường xuyên 172 41,0
Hiếm khi 227 54,0
Yêu thích đọc sách
Có 336 80,0
Không 84 20,0
Mục đích đọc sách
Đạt điểm cao môn học 42 10,0
Trau dồi kiến thức, kĩ năng mới 172 41,0
Giải trí 166 39,5
Cập nhật thông tin 40 9,5
Cách đọc sách
Đọc 1 phần 107 25,5
Đọc toàn bộ 313 74,5
Kỹ năng ghi nhớ nội dung khi đọc sách
Có 287 68,3
Không 133 31,7
Kết quả nghiên cứu (Bảng 2) cho thấy, tỷ 
lệ sinh viên có mức độ đọc sách rất thường 
xuyên và thường xuyên lần lượt là 5,0% và 
41,0%. Có 80,0% sinh viên cho biết bản thân 
có yêu thích đọc sách và mục đích đọc của 
phần lớn đối tượng là để trau dồi tri thức, kĩ 
năng mới (41,0%). Có 74,5% sinh viên đọc 
toàn bộ quyển sách thay vì chỉ đọc một phần 
và 68,3% sinh viên có kỹ năng ghi nhớ thông 
tin chính khi đọc sách.
Một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách 
của sinh viên
Nguyễn Công Minh và cộng sự
95
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến mức độ đọc sách của sinh viên
Biến độc lập
Mức độ đọc sách
aORHiếm khi Thường xuyên
n % n %
Tần suất đến thư viện
Không đến hàng tuần 166 60,1 110 39,9 1,87
(1,22 – 2,84)Đến hàng tuần 61 42,4 83 57,6
Đọc tài liệu thầy cô giao
Không đọc hết 182 58,0 132 42,0 1,61
(1,01 – 2,55)Đọc hết 45 42,5 61 57,5
Kiểm định tính phù hợp bằng Hosmer & Lemeshow Test: X2=0,14; df=2; p=0,93
Kết quả Bảng 3 cho thấy, các yếu tố liên quan 
đến mức độ đọc sách thường xuyên của sinh 
viên bao gồm: Tần suất đến thư viện hàng 
tuần (OR=1,87; p=0,004; CI95%: 1,22 – 2,84) 
và Đọc hết tài liệu thầy cô giao (OR=1,61; 
p=0,043; CI95%: 1,01 – 2,55).
Bảng 4. Một số yếu tố liên quan đến cách đọc sách của sinh viên
Biến độc lập
Cách đọc sách
aORĐọc 1 phần Đọc toàn bộ
n % n %
Yêu thích đọc sách
Không 30 35,7 54 64,3 11,93
(5,57 – 25,58)Có 77 22,9 259 77,1
Tần suất thầy cô giao tài liệu
Không thường xuyên 59 26,6 169 73,4 1,47
(0,97 – 2,23)Thường xuyên 48 24,2 150 75,8
Kiểm định tính phù hợp bằng Hosmer & Lemeshow Test: X2=1,2; df=2; p=0,55
Kết quả Bảng 4 cho thấy, các sinh viên yêu 
thích đọc sách thường đọc toàn bộ quyển sách 
thay vì đọc một phần, cao hơn tới 11,93 lần 
so với các sinh viên không yêu thích đọc sách 
(p<0,05 và CI95%: 5,57 – 25,58).
Nguyễn Công Minh và cộng sự
96
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Bảng 5. Một số yếu tố liên quan đến kỹ năng đọc sách của sinh viên
Biến độc lập
Kỹ năng ghi nhớ nội dung
aORKhông Có
n % n %
Lập kế hoạch đọc sách
Không 114 38,5 182 61,5 2,47
(1,4 – 4,36)Có 19 15,3 105 84,7
Yêu thích đọc sách
Không 41 48,8 43 51,2 1,93
(1,14 – 3,24)Có 92 27,4 244 72,6
Đọc tài liệu thầy cô giao
Không đọc hết 116 36,9 198 63,1 2,5
(1,38 – 4,52)Đọc hết 17 16,0 89 84,0
Thầy cô kiểm tra nội dung đọc
Không 66 45,8 78 54,2 2,22
(1,42 – 3,47)Có 67 24,3 209 75,7
Kiểm định tính phù hợp bằng Hosmer & Lemeshow test: X2=2,97; df=6; p=0,81
Bảng 5 cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến 
kỹ năng ghi nhớ nội dung khi đọc sách bao 
gồm: Có lập kế hoạch đọc sách (OR=2,47; 
p=0,002; CI95%: 1,4 – 4,36); Yêu thích đọc 
sách (OR=1,93; p=0,014; CI95%: 1,14 – 
3,24); Đọc hết tài liệu thầy cô giao (OR= 2,5; 
p=0,002; CI95%: 1,38 – 4,52) và Có được 
thầy cô kiểm tra nội dung đọc (OR=2,22; 
p<0,05; CI95%: 1,42 – 3,47).
BÀN LUẬN
Thực trạng đọc sách của sinh viên
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng có 
80,0% sinh viên yêu thích đọc sách. Về mục 
đích đọc sách, chủ yếu sinh viên đọc để trau 
dồi tri thức (41,0%) và giải trí (39,5%). Tỷ lệ 
này thấp hơn so với nghiên cứu của Trương 
Huyền Anh tiến hành trên sinh viên trường 
Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh năm 2017 
với 85% sinh viên đọc sách nhằm có kiến thức, 
đạt điểm cao môn học; 41% đọc để nghiên cứu 
khoa học và 35% sinh viên đọc sách để nâng 
cao tay nghề (5). Sự khác biệt giữa nghiên 
cứu của chúng tôi với nghiên cứu của tác giả 
Trương Huyền Anh có thể giải thích do đặc 
thù các ngành học ở hai trường là khác nhau, 
yêu cầu của sinh viên cũng khác nhau, do đó, 
mục đích và động lực để đọc sách cũng khác. 
Về mức độ đọc sách, có 46,0% sinh viên đọc 
sách thường xuyên và rất thường xuyên, còn 
lại là hiếm khi đọc sách (54,0%). Tỷ lệ này 
cao hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả 
Thiên Chương (với 33,6% sinh viên đọc sách 
thường xuyên và 6,9% đọc sách rất thường 
xuyên) (6). Tuy vậy, tỷ lệ sinh viên hiếm khi 
đọc sách ở nghiên cứu này chỉ là 3,9% và 
Nguyễn Công Minh và cộng sự
97
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
0,6% sinh viên không bao giờ đọc sách. Điều 
này có thể lý giải do, ở môi trường sư phạm, 
các sinh viên có xu hướng tiếp xúc với sách 
báo nhiều, vừa để phục vụ cho học tập, vừa là 
thói quen sẽ khác so với trường Đại học Y tế 
công cộng. Về cách đọc sách, có 74,5% sinh 
viên đọc toàn bộ sách và 68,3% sinh viên có 
kỹ năng ghi nhớ khi đọc sách. Kết quả này 
cao hơn so với nghiên cứu của Lê Thị Thúy 
Hiền khi trong nghiên cứu này, chỉ có 20,0% 
sinh viên đọc toàn bộ nội dung quyển sách 
(7). Việc đọc hết nội dung sách cũng như kỹ 
năng ghi nhớ, đánh dấu nội dung khi đọc có 
vai trò lớn trong việc nâng cao hiệu quả đọc, 
cần được khuyến khích đối với sinh viên.
Một số yếu tố liên quan đến việc đọc sách 
của sinh viên
Kết quả nghiên cứu chỉ ra, các yếu tố liên 
quan đến mức độ đọc sách thường xuyên 
của sinh viên bao gồm: Tần suất đến thư 
viện hàng tuần (OR=1,87; p=0,004; CI95%: 
1,22 – 2,84) và đọc hết tài liệu thầy cô giao 
(OR=1,61; p=0,043; CI95%: 1,01 – 2,55). Có 
thể giải thích rằng, việc thường xuyên đến thư 
viện tìm tài liệu cũng như thường xuyên đọc 
hết các tài liệu mà thầy cô giao sẽ dần hình 
thành nên thói quen đọc sách, dần dần việc 
đọc sách cũng trở nên thường xuyên hơn.
Về kỹ năng ghi nhớ nội dung khi đọc sách, 
nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy: 
các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng ghi nhớ 
nội dung khi đọc sách bao gồm: Có lập kế 
hoạch đọc sách (OR=2,47; p=0,002; CI95%: 
1,4 – 4,36); Yêu thích đọc sách (OR=1,93; 
p=0,014; CI95%: 1,14 – 3,24); Đọc hết tài 
liệu thầy cô giao (OR=2,5; p=0,002; CI95%: 
1,38 – 4,52) và có được thầy cô kiểm tra nội 
dung đọc (OR=2,22; p<0,05; CI95%: 1,42 – 
3,47). Với các sinh viên có kế hoạch đọc hay 
yêu thích đọc, việc ghi chép hoặc đánh dấu 
lại sẽ giúp họ dễ dàng trong việc theo dõi kế 
hoạch, lưu giữ các nội dung và ý tưởng hay. 
Việc các thầy cô giáo giao tài liệu, kiểm tra 
nội dung đã giao cũng tăng khả năng ghi chép 
lại các nội dung của sinh viên, vì lúc này, việc 
đánh dấu lại các nội dung đọc lúc này sẽ phục 
vụ cho việc học tập (hoặc kiểm tra).
Về cách đọc sách của sinh viên, các sinh 
viên yêu thích đọc sách thường đọc toàn bộ 
sách, cao hơn tới 11,93 lần so với các sinh 
viên không yêu thích đọc sách (p<0,05 và 
CI95%: 5,57 – 25,58). Điều này cho thấy, 
cách đọc sách chịu ảnh hưởng rất lớn từ sở 
thích cá nhân.
Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành là nghiên cứu cắt 
ngang, trên mẫu là sinh viên cử nhân chính 
quy trường Đại học Y tế công cộng nên không 
mang tính đại diện cho toàn bộ sinh viên và 
khó đánh giá được chi tiết sự liên quan của 
các yếu tố lên việc đọc sách. Bên cạnh đó, 
nhiều yếu tố liên quan đến việc đọc (như mức 
độ yêu thích, thời lượng đọc) khó nhớ và định 
lượng rõ ràng, nên kết hợp thêm phương pháp 
định tính để làm rõ. Ngoài ra, bộ công cụ 
nghiên cứu được thiết kế dựa vào câu hỏi có 
sẵn, phát vấn cho đối tượng nghiên cứu nên 
các thông tin thu được phụ thuộc vào thái độ 
trả lời tích cực của đối tượng. Điều này có thể 
ảnh hưởng đến việc đánh giá chưa chính xác 
hoàn toàn mức độ vấn đề và dẫn đến sai số. 
KẾT LUẬN
Tỷ lệ sinh viên cử nhân chính quy đang học 
tập tại trường Đại học Y tế công cộng có mức 
độ đọc sách thường xuyên nói chung là 46% 
và 80% sinh viên cho biết bản thân có yêu 
thích đọc sách. Có 74,5% sinh viên đọc toàn 
bộ nội dung quyển sách và 68,3% sinh viên 
có kỹ năng ghi nhớ các thông tin chính khi 
đọc sách. Những tỷ lệ này có liên quan tới 
các yếu tố: việc giao tài liệu và kiểm tra của 
Nguyễn Công Minh và cộng sự
98
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
thầy cô cũng như tần suất đến thư viện. Do 
đó, để tăng cường việc đọc sách của sinh 
viên, nhà trường nên khuyến khích sinh viên 
đến thư viện. Ngoài ra, giảng viên cũng cần 
kiểm tra việc đọc sách, tài liệu môn học của 
sinh viên và áp dụng tiêu chí quy định về số 
sách chuyên ngành tham khảo cho mỗi bài tập 
trong quá trình chấm điểm để sinh viên ý thức 
được tầm quan trọng của việc đọc sách với 
việc tiếp thu kiến thức các môn học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọc PB. Tổ chức tốt việc tự học cho sinh 
viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các 
trường đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay. 
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội. 
2009;25:154-60.
2. Hải NT. Phương pháp học tập chủ động bậc đại 
học. Trung tâm Nghiên cứu Cải tiến Phương 
pháp dạy và học đại học 9CEE): Trường ĐH 
Khoa học Tự Nhiên - ĐH Quốc Gia TP. HCM; 
2010.
3. Bộ Thông tin và truyền thông. Dự thảo Đề án 
Ngày sách Việt Nam 2014. 2013.
4. Lâm NĐ. Kỹ năng đọc sách, một phương diện 
quan trọng của văn hóa đọc trong nhà trường Đại 
học. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa. 2017;21:85-
90.
5. Anh TH. Văn hóa đọc của sinh viên trường Đại 
học Thể dục thể thao Bắc Ninh. Trường Đại học 
Sư phạm Nghệ thuật Trung ước: Khoa Quản lý 
văn hóa; 2017.
6. Chương LTSNT. Ảnh hưởng của văn hóa đọc 
đến kết quả học tập của sinh viên ngành Ngữ 
Văn. Đại học An Giang: Khoa Sư phạm; 2016.
7. Hiền LTT. Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên 
chuyên ngành thư viện thông tin, Trường Đại 
học Văn hóa Hà Nội. 2011.
Nguyễn Công Minh và cộng sự
99
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Current situation and some associated factors with reading books of 
full-time bachelor students of Hanoi University of Public Health in 2019
Nguyen Cong Minh1*, Nguyen Hoang Nam1, Tran Thi Huyen Trang1,
Tran Thi Thanh1, Nguyen Ngoc Son1, Vu Thi Hau1,
To Nguyen Thuy Anh1, Do Manh Tien2, Tran Thi Tuyet Hanh1
1 Hanoi University of Public Health, 
2 Thai Binh University of Medicine and Pharmacy
Objective: Reading is a crucial academic behavior, which directly affects the formation of 
personality and develops people’s thinking. In the higher education environment, reading 
culture helps students acquire new knowledge quickly and effectively. However, in recent 
years, young people and students tend to be lazy to read books, afraid of reading academic 
books while prefer reading comics and novels. At the same time, the dominance of the internet 
and audio-visual equipment makes reading in schools and universities become less attractive. 
This study was conducted with two objectives: (1) To describe the current situation of reading 
culture; and (2) To identify some factors affecting the reading culture of full-time bachelor 
students in Hanoi University of Public Health in 2019. Thereby, contributing to raise students’ 
awareness about the roles of reading and providing information to help improving the quality 
and performance of the university’s library. Methods: The study was conducted on 420 full-time 
bachelor students from the rst year to the fourth year, belonging to four majors of the Hanoi 
University of Public Health in 2019. Main ndings: The study results showed that among 420 
full-time bachelor students, 41.0% read books on a regular basis and 80.0% liked reading books. 
With regression bionary logistic analasys, associated factors with reading frequency includes: 
Going to library weekly (OR=1,87; p=0,004; CI95%: 1,22 – 2,84) and Completed reading the 
document assigned by teachers (OR=1,61; p=0,043; CI95%: 1,01 – 2,55). In addition, students 
who were reading addiction were likely to read all the book assigned, which was higher than 
the students who did not like reading. Conclusions: With full-time Bachelor students at Hanoi 
University of Public Health, percentages of students with frequent reading behavior were not 
high in general. However, it could be seen that the reading behavior of students was inuenced 
by the teachers’ activities. Therefore, teachers should enhance checking books and course 
materials that students have read before classes as well as setting a criteria on the minimum 
number of academic books students should read while doing their assignments so that students 
are more aware of the importance of academic reading while studying at university.
Keywords: reading books, college students, current situation, associated factor
Nguyễn Công Minh và cộng sự

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_viec_doc_sach_cua.pdf