Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số

Thư viện truyền thống ở Việt Nam đã

có từ hàng trăm năm trở lại đây. Thư viện

không chỉ là nơi tàng trữ tri thức của nhân

loại, mà quan trọng hơn, nó còn được tổ

chức để phục vụ nhu cầu thông tin-tri thức

của các tầng lớp nhân dân và tổ chức trong

xã hội. Và hầu như trong suốt chiều dài lịch

sử phát triển của thư viện truyền thống ấy,

hoạt động phục vụ người đọc/người dùng

thông tin trong xã hội được mặc định theo

một nguyên lý “thuận chiều”, đó là: Thư

viện và kho tàng tri thức-thông tin thì đứng

yên một chỗ, còn bạn đọc/người dùng

thông tin thì phải di chuyển đến thư viện để

đọc, mượn tài liệu.

Tuy nhiên, thực tế đã bắt đầu thay đổi theo

chiều hướng ngược lại, khi hoạt động của

thư viện truyền thống ở Việt Nam cũng như

trên thế giới có sự can thiệp mạnh mẽ của

máy vi tính và ứng dụng công nghệ thông

tin (CNTT) trong mọi hoạt động của thư

viện, khi mà các thư viện đã chuyển mạnh

sang xây dựng thư viện điện tử-thư viện số

(TVĐT-TVS), nhằm phục vụ tốt hơn, nhanh

và hiệu quả hơn người đọc/người dùng tin

trong xã hội (với nhiều CSDL thư mục,

CSDL toàn văn, bộ sưu tập số, với hàng

triệu trang in). Đến lúc này, bên cạnh hoạt

động thư viện truyền thống (tức là bạn đọc

phải đến thư viện đọc-mượn tài liệu) đã

xuất hiện một phương thức phục vụ mới,

linh hoạt hơn, đó là: Bạn đọc/người dùng

tin muốn có thông tin-tri thức, có thể không

cần đến thư viện mà vẫn có thể đọc/xem tài

liệu ở thư viện nào đó, hoặc tìm kiếm trong

các bộ sưu tập số ở đâu đó, để phục vụ

nhu cầu thông tin-tri thức của mình thông

qua máy tính hoặc điện thoại thông minh

có kết nối interrnet.

Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số trang 1

Trang 1

Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số trang 2

Trang 2

Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số trang 3

Trang 3

Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số trang 4

Trang 4

Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 6100
Bạn đang xem tài liệu "Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số

Thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam trong kỷ nguyên số
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2019
 ThS Nguyễn Hữu Giới
 Chủ tịch Hội Thư viện Việt Nam
Tóm tắt: Trên cơ sở nhận biết/nhận thức và nhận diện những thay đổi lớn của hoạt động thư 
viện và văn hóa đọc trong kỷ nguyên số trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong tương lai, phác thảo 
đôi nét về những thách thức của thư viện nước ta trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số nội 
dung cơ bản, những giải pháp khả thi để phát huy vai trò của thư viện Việt Nam trong hiện tại và 
tương lai.
Từ khóa: Thư viện; văn hóa đọc; kỷ nguyên số.
Library and the reading culture in Vietnam in the digital era
Abstract: The article points out some significant changes in library activities and reading 
culture in the world and Vietnam in the future, identifies challenges that libraries in Vietnam have to 
face in the digital era and recommends fundamental and feasible solutions to promote their role at 
present and in the future. 
Keywords: Library; reading culture; digital era.
THƯ VIỆN VÀ VĂN HÓA ĐỌC Ở VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ 
1. Sự thay đổi của hoạt động thư viện 
trong kỷ nguyên số so với hoạt động thư 
viện truyền thống
Thư viện truyền thống ở Việt Nam đã 
có từ hàng trăm năm trở lại đây. Thư viện 
không chỉ là nơi tàng trữ tri thức của nhân 
loại, mà quan trọng hơn, nó còn được tổ 
chức để phục vụ nhu cầu thông tin-tri thức 
của các tầng lớp nhân dân và tổ chức trong 
xã hội. Và hầu như trong suốt chiều dài lịch 
sử phát triển của thư viện truyền thống ấy, 
hoạt động phục vụ người đọc/người dùng 
thông tin trong xã hội được mặc định theo 
một nguyên lý “thuận chiều”, đó là: Thư 
viện và kho tàng tri thức-thông tin thì đứng 
yên một chỗ, còn bạn đọc/người dùng 
thông tin thì phải di chuyển đến thư viện để 
đọc, mượn tài liệu.
Tuy nhiên, thực tế đã bắt đầu thay đổi theo 
chiều hướng ngược lại, khi hoạt động của 
thư viện truyền thống ở Việt Nam cũng như 
trên thế giới có sự can thiệp mạnh mẽ của 
máy vi tính và ứng dụng công nghệ thông 
tin (CNTT) trong mọi hoạt động của thư 
viện, khi mà các thư viện đã chuyển mạnh 
sang xây dựng thư viện điện tử-thư viện số 
(TVĐT-TVS), nhằm phục vụ tốt hơn, nhanh 
và hiệu quả hơn người đọc/người dùng tin 
trong xã hội (với nhiều CSDL thư mục, 
CSDL toàn văn, bộ sưu tập số,  với hàng 
triệu trang in). Đến lúc này, bên cạnh hoạt 
động thư viện truyền thống (tức là bạn đọc 
phải đến thư viện đọc-mượn tài liệu) đã 
xuất hiện một phương thức phục vụ mới, 
linh hoạt hơn, đó là: Bạn đọc/người dùng 
tin muốn có thông tin-tri thức, có thể không 
cần đến thư viện mà vẫn có thể đọc/xem tài 
liệu ở thư viện nào đó, hoặc tìm kiếm trong 
các bộ sưu tập số ở đâu đó, để phục vụ 
nhu cầu thông tin-tri thức của mình thông 
qua máy tính hoặc điện thoại thông minh 
có kết nối interrnet.
Quy trình phục vụ bạn đọc trong các thư 
viện hiện nay cũng hoàn toàn ngược lại với 
hoạt động của thư viện truyền thống, tức 
là: người đọc/người sử dụng thông tin thì 
đứng yên một chỗ, còn thông tin và tri thức 
thì lại di chuyển (nhanh và rất nhanh) trên 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
22 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2019
mạng internet. Đó có thể coi là sự thay đổi 
cơ bản và quan trọng nhất, sự khác biệt 
lớn nhất trong hoạt động thư viện hiện đại, 
trong kỷ nguyên số so với hoạt động thư 
viện truyền thống. Chính sự thay đổi có 
tính quyết định này đã góp phần làm thay 
đổi căn bản và toàn diện mọi hoạt động 
của thư viện hiện đại ở nước ta; khi ứng 
dụng CNTT trong các khâu tác nghiệp thư 
viện: từ bổ sung sách báo/tài liệu, xử lý kỹ 
thuật, tổ chức kho tư liệu và bộ máy tra cứu 
(CSDL thư mục và CSDL toàn văn/các bộ 
sưu tập số), đến tổ chức hệ thống phục vụ 
bạn đọc (trong và ngoài thư viện) và tổng 
hợp, kiểm kê, thống kê,các số liệu và dữ 
liệu của hoạt động thư viện.
2. Nhận diện những thách thức của 
thư viện Việt Nam trong kỷ nguyên số
Trong kỷ nguyên số, hoạt động thư viện 
có những biến đổi lớn so với trước và cũng 
đặt ra nhiều thách thức mà nếu chúng ta 
không lường trước sẽ dễ bị động và lúng 
túng, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác 
thư viện hiện tại và tương lai. “Trong thời 
đại truyền thông kỹ thuật số và kết nối 
mạng, ngoài việc cần có không gian cho 
mọi người tập hợp và giao tiếp trực tiếp với 
nhau, thư viện cần tuân theo các xu hướng 
công nghệ và xã hội để điều chỉnh sản 
phẩm của mình cho phù hợp. Người dùng 
tin không muốn chỉ sử dụng một cách thụ 
động, mà còn muốn được sáng tạo, trở nên 
năng động và thử nghiệm những điều mới 
mẻ. Họ muốn chia sẻ ý tưởng, kiến thức 
với những người khác thông qua mạng thư 
viện” [1].
Sau đây là nhận diện những thách thức 
của thư viện Việt Nam trong kỷ nguyên số:
2.1. Tổ chức kho tài liệu thư viện 
Chúng ta biết rằng, kho tài liệu thư viện 
là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất 
cấu thành nên thư viện. Nếu như trong thư 
viện truyền thống chủ yếu bao gồm kho 
sách báo tài liệu in (bằng giấy), thì trong 
thư viện hiện đại, kho tài liệu chủ yếu dưới 
dạng số-dạng điện tử (các CSDL thư mục 
và toàn văn, các bộ sưu tập số,). Vì thế, 
thách thức ở đây là tổ chức kho tư liệu điện 
tử trong thư viện như thế nào để cán bộ thư 
viện dễ quản lý và tác nghiệp, đồng thời 
quan trọng hơn để người dùng tin thuận 
tiện tra cứu và sử dụng, tránh tình trạng 
thư viện có tài liệu, thậm chí có nhiều tài 
liệu quý hiếm mà bạn đọc không thể truy 
cập được vì công tác tổ chức kho thiếu 
khoa học, bộ máy tra cứu kém hiệu quả. 
Mặt khác, thư viện cũng cần cân nhắc, tính 
toán khi số hóa “hồi cố” kho tài liệu thư viện 
(chuyển từ dạng giấy sang dạng điện tử, 
làm cái gì trước, cái gì sau, cái gì không cần 
hồi cố v.v).
Thêm vào đó, công tác bảo quản tư 
liệu điện tử cũng là một vấn đề rất quan 
trọng, bởi nếu hạ tầng CNTT kém, máy 
chủ không đủ dung tích chứa nhiều dữ liệu, 
vi-rút thường xuyên “tấn công” và phá hoại 
các dữ liệu-thông tin, thì nguy cơ toàn bộ 
dữ liệu thư viện có thể bị hỏng và mất là rất 
cao. Đây cũng là cảnh báo và thách thức 
đầu tiên khi thư viện đầu tư phần mềm 
quản trị dữ liệu và đầu tư hạ tầng CNTT 
cho hoạt động thư viện trong môi trường 
điện tử.
2.2. Hạ tầng công nghệ thông tin và 
ứng dụng CNTT trong thư viện
Chúng ta biết rằng, hạ tầng CNTT và 
ứng dụng CNTT trong TVĐT-TVS có vai 
trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thư 
viện. Trong thư viện, hầu hết các tác nghiệp 
đều được thực hiện bằng máy vi tính: từ bổ 
sung tài liệu, xử lý kỹ thuật, tổ chức kho và 
các CSDL, đến tổ chức phục vụ bạn đọc 
và các công tác thống kê, tổng hợp số liệu 
thư viện. Cho nên, việc thư viện căn cứ vào 
điều kiện và đặc thù của mình để đầu tư hạ 
tầng CNTT, cũng như ứng dụng CNTT như 
thế nào để đem lại hiệu quả tốt nhất là một 
bài toán phải cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng 
(vì đầu tư cho công việc này là rất tốn kém, 
kinh phí có thể lên đến hàng tỷ, thậm chí 
hàng chục tỷ/1 thư viện). Đây có thể coi 
là thách thức thứ 2 của công tác thư viện 
trong kỷ nguyên số.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2019
2.3. Đội ngũ cán bộ thư viện-nhân tố 
quyết định mọi hoạt động của thư viện 
trong kỷ nguyên số
Trong mọi hoạt động của thư viện, nhân 
lực (cán bộ thư viện) đóng vai trò quan trọng 
nhất. Nó quyết định sự thành/bại của công 
tác thư viện. Trong hoạt động của thư viện 
hiện đại, vai trò của cán bộ với tri thức khoa 
học thư viện hiện đại lại càng quan trọng 
và có giá trị hơn, bởi hầu hết các tác nghiệp 
thư viện hiện đại là do cán bộ thư viện (với 
tri thức và hiểu biết chuyên môn vững vàng, 
thông tuệ) điều hành và thực hiện, kết nối 
thông tin-tri thức giữa thư viện và bạn đọc; 
để bạn đọc dễ dàng tra cứu/đọc/mượn 
tài liệu của thư viện thông qua các CSDL, 
các bộ sưu tập số của thư viện một cách 
nhanh chóng, hiệu quả, tiện lợi,...
Với yêu cầu của công việc thư viện 
trong kỷ nguyên số, áp lực và những đòi 
hỏi về tiêu chí/tiêu chuẩn đối với người cán 
bộ thư viện Việt Nam sẽ vô cùng khắt khe, 
toàn diện. Người cán bộ thư viện không chỉ 
nhiệt huyết, yêu nghề, có phẩm chất đạo 
đức tốt, mà còn cần hơn các tố chất: linh 
hoạt, sáng tạo, năng động trong công việc 
và không ngừng học hỏi nâng cao trình độ 
chuyên môn (trong đó có chuyên môn ứng 
dụng CNTT trong môi trường kỷ nguyên 
số). Nếu chúng ta không nhất quán điều 
này, không chịu khó học hỏi bạn bè, đồng 
nghiệp, thư viện bạn, để khắc phục yếu 
kém, nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn, 
thì dễ tụt hậu với thời cuộc. Đây có thể coi 
như thách thức thứ 3 và quan trọng nhất với 
mỗi thư viện Việt Nam trong kỷ nguyên số.
3. Vai trò của thư viện trong nguyên số
Thư viện có vai trò hết sức quan trọng 
trong đời sống xã hội. Với tư cách là cơ 
quan thông tin, cơ quan giáo dục ngoài nhà 
trường, thư viện là nơi cung cấp thông tin 
và tri thức cho mọi cá nhân và tổ chức trong 
xã hội, phục vụ nhu cầu học tập, nghiên 
cứu và giải trí, sản xuất, kinh doanh và cả 
lao động, sáng tạo v.v... Nhiều thông tin, tri 
thức có trong các thư viện là kho tàng tri 
thức của nhân loại, được tích lũy qua nhiều 
thế hệ, đã được trao truyền, được kế thừa 
cho các đời sau, để mỗi bạn đọc sau khi 
tiếp cận tri thức và thông tin quý giá ấy, sẽ 
góp phần làm giàu cho kiến thức của bản 
thân và với sự năng động và sáng tạo của 
mỗi người, mỗi tổ chức, sẽ chuyển hóa nó 
thành sản phẩm, hàng hóa, tiền bạc, công 
cụ/hoặc tư liệu sản xuất, để rồi quy trình 
này lại tác động vào cuộc sống, sản xuất, 
làm gia tăng giá trị thặng dư (theo quan 
điểm của Các Mác trong tác phẩm kinh 
điển bất hủ của Người: Tư bản luận).
Trong xã hội thông tin hiện đại, vai trò 
của thư viện lớn hơn so với thư viện truyền 
thống. Việc số hóa tài liệu và xây dựng các 
bộ sưu tập số sẽ:
- giúp giảm thiểu đáng kể diện tích, 
không gian lưu giữ tài liệu-dữ liệu trong thư 
viện; 
- giúp bảo quản, duy trì tuổi thọ của tài 
liệu truyền thống; 
- dễ dàng mở rộng phạm vi cộng đồng 
người sử dụng tài nguyên thông tin (có thể 
nói là không biên giới); 
- tiện ích trong việc truy xuất tìm kiếm 
thông tin và đọc chúng ở bất kỳ đâu, vào 
bất cứ thời điểm nào một cách nhanh 
chóng, dễ dàng, thuận tiện; 
- thuận lợi trong việc chia sẻ nguồn tài 
nguyên thông tin của thư viện với các thư 
viện trong và ngoài nước;
- giảm thiểu nguồn lực và kinh phí cho 
việc quản lý nguồn tài nguyên thông tin 
truyền thống; 
- góp phần nhanh chóng tái tạo thông tin 
mới có giá trị gia tăng cao hơn.
Phát triển văn hóa đọc và thư viện trong 
kỷ nguyên số là một trong những cách thức 
quan trọng và cần thiết mà Việt Nam thực 
hiện để rút ngắn khoảng cách phát triển với 
các nước trong khu vực cũng như khoảng 
cách phát triển giữa các vùng miền trong 
cả nước. 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
24 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2019
4. Một số giải pháp phát huy vai trò 
của thư viện và đẩy mạnh văn hóa đọc 
trong nguyên số
Từ những thách thức đối với thư viện 
trong kỷ nguyên số, để phát huy tốt vai 
trò của thư viện và đẩy mạnh văn hóa đọc 
trong tương lai, tác giả đề xuất một số giải 
pháp chủ yếu như sau:
1. Không ngừng hoàn thiện hệ thống 
văn bản pháp quy về công tác thư viện, 
trong đó có Luật Thư viện và các văn bản 
pháp quy quan trọng khác của Chính phủ, 
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các 
Bộ/ngành,... (lưu ý các nội dung, vấn đề 
liên quan đến đầu tư xây dựng và phát 
triển TVĐT-TVS, vấn đề truy cập mở và 
bản quyền tác giả,....), tạo hành lang pháp 
lý thuận lợi và thông thoáng để phát triển 
thư viện trong kỷ nguyên số ở nước ta. Đây 
có thể coi là yếu tố đầu tiên và quan trọng 
nhất hiện nay.
2. Đổi mới và nâng cao nhận thức, tư 
duy quản lý, phương thức điều hành hoạt 
động thư viện (điều khiển từ xa, mua sách 
qua mạng, thanh toán qua mạng....). Như 
đã đề cập ở trên, phát triển thư viện Việt 
Nam trong kỷ nguyên số và cách mạng 
công nghiệp 4.0 sẽ mở ra cơ hội mới và cả 
thách thức to lớn đối với Việt Nam, trong đó 
có ngành thông tin-thư viện. Vì thế, cán bộ 
lãnh đạo các thư viện từ Trung ương đến 
các địa phương (hệ thống thư viện công 
cộng cũng như thư viện chuyên ngành, 
đa ngành) cần nâng cao nhận thức và đặc 
biệt cần có tư duy đổi mới, mạnh mẽ, quyết 
liệt về vấn đề này, để có thể xây dựng/tổ 
chức điều hành hoạt động thư viện trong 
kỷ nguyên số. Đây cũng là xu thế tất yếu 
của thời đại trong thế kỷ 21 (gắn với điều 
khiển từ xa; chỉ đạo điều hành từ xa, thông 
qua công cụ cảm biến, di dộng, kỹ thuật 
số). Tức là lãnh đạo thư viện ở xa cơ quan, 
vẫn có thể chỉ đạo, điều hành công việc 
qua mạng một cách hữu hiệu; cán bộ thư 
viện có thể lựa chọn và đặt mua sách qua 
mạng; kế toán thư viện có thể thanh toán 
qua mạng v.v... nhờ kết nối các phương tiện 
chức năng tiện dụng.
3. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết 
bị, hạ tầng công nghệ thông tin. Chúng 
ta biết rằng, yếu tố CNTT, cơ sở vật chất, 
trang thiết bị thư viện là yếu tố quan trọng 
cho sự phát triển thư viện. Khi thư viện tổ 
chức các hoạt động trong môi trường điện 
tử với việc kết nối vạn vật, hệ thống định 
vị, cảm biến-điều khiển từ xa, thậm chí cả 
sự trợ giúp của rôbốt, rõ ràng công tác thư 
viện sẽ đòi hỏi đầu tư cao và chất lượng 
hạ tầng CNTT, về cơ sở vật chất với nhiều 
trang thiết bị hiện đại, giúp cho cán bộ thư 
viện “làm chủ” và điều hành hiệu quả các 
thiết bị thông tin-thư viện...
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 
(đào tạo, tập huấn cán bộ thư viện, đảm 
bảo đủ số lượng, chất lượng tốt). Đây là 
nhu cầu tất yếu và quan trọng trong hoạt 
động thư viện khi bước vào kỷ nguyên số. 
Điều này bắt buộc tất cả các cán bộ thư 
viện - từ người làm công tác quản lý đến 
chuyên môn đều phải học tập không ngừng, 
rèn luyện nâng cao các kỹ năng/kỹ thuật, 
 tham gia điều khiển và vận hành công tác 
thư viện (trong mọi khâu, mọi quy trình, mọi 
dây chuyền, mọi tình huống tác nghiệp thư 
viện), đảm bảo cho hoạt động của thư viện 
mang lại hiệu quả tốt nhất có thể. Bởi lẽ 
khi thư viện chịu tác động cách mạng công 
nghiệp 4.0, của kỷ nguyên số (với các thư 
viện điện tử-thư viện ảo...) thì lao động thủ 
công sẽ giảm dần, thay vào đó là những 
công việc đòi hỏi kỹ năng với sự liên kết hệ 
thống, có sự trợ giúp của CNTT, điều khiển 
tự động và mạng internet với cường độ cao.
“Một thư viện số thực sự phải có một hệ 
thống nhân lực có thể ra quyết định, phân 
loại nội dung đối tượng tài liệu, thiết kế và 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2019
điều chỉnh cơ cấu tổ chức, cung cấp dịch 
vụ và cải tiến công nghệ. Tóm tại. thư viện 
số phải cần 5 yếu tố chính, đó là: nội dung, 
tổ chức, dịch vụ, công nghệ và con người. 
Không có hội đủ những yếu tố này thì một 
thư viện số không phải là một thư viện” [2].
5. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng 
TVĐT-TVS trong thư viện. Đây là một trong 
những nội dung trọng tâm, khi thư viện 
hoạt động trong kỷ nguyên số và tham gia 
Cách mạng công nghiệp 4.0. Bởi lẽ thư 
viện truyền thống chắc chắn sẽ không đáp 
ứng được cuộc cách mạng này, thay vào 
đó, thư viện phải chủ động số hóa tài liệu, 
bổ sung các bộ sưu tập số (trong và ngoài 
nước), tăng cường xây dựng TVĐT-TVS 
với chất lượng cao, cường độ lớn, phục vụ 
bạn đọc, người dùng tin. Đây cũng là thước 
đo trình độ, hiệu quả của thư viện trong kỷ 
nguyên số (với nhiều tiện ích: tra cứu tài 
liệu từ xa, đọc trực tuyến và nhiều tiện ích 
quan trọng khác). 
6. Đổi mới phương thức phục vụ bạn 
đọc, người dùng tin. Trong tương lai, các 
thư viện Việt Nam phải đổi mới phương 
thức phục vụ bạn đọc/người dùng tin do 
những yêu cầu xã hội đặt ra, trong đó sẽ 
có nhiều hình thức mới, như: truy cập tài 
liệu mở; ứng dụng công nghệ RFDI (đặt 
chỗ đọc tự động, mượn trả sách tự động, 
đọc đa phương tiện (multimedia), để độc 
giả tiếp cận với thông tin, tri thức tiện lợi, 
thoải mái hơn. 
7. Đẩy mạnh liên kết vùng miền, liên 
kết chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các 
thư viện. Đây là lĩnh vực thời gian qua các 
thư viện ở Việt Nam thực hiện còn yếu, do 
vướng mắc trong các quy định, thủ tục hành 
chính, hạ tầng công nghệ thông tin và bản 
quyền tác giả. Bởi lẽ, “Thư viện số chỉ có 
thể hoạt động hữu hiệu thông qua các mối 
quan hệ hợp tác nhằm chia sẻ nguồn lực, 
qua đó tạo nên một môi trường cho phép 
truy cập liên thông tới thông tin với nhiều 
đối tác” [3]. Vì vậy, sắp tới, công tác này 
cần tiến hành mạnh, quyết liệt hơn, tránh 
lãng phí tài nguyên và nguồn lực thông tin 
trong các hệ thống thư viện Việt Nam, đáp 
ứng nhu cầu của người dùng tin.
8. Huy động các nguồn lực để đóng góp 
xây dựng và phát triển thư viện. Trong kỷ 
nguyên số, bài học này vẫn không bao giờ 
cũ, nó sẽ góp phần tạo thêm kinh phí, cơ 
sở vật chất cho thư viện, nhằm thực hiện 
tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Hoạt động thư viện và phát triển văn hóa 
đọc trong kỷ nguyên số, trong thời đại công 
nghệ thông tin là cơ hội và thách thức to lớn 
đối với ngành thư viện Việt Nam hiện tại 
và tương lai. Đó cũng là sự vận động của 
lịch sử, của ngành thư viện Việt Nam trong 
xu thế đổi mới và phát triển theo quỹ đạo 
chung của xã hội, của tiến trình lịch sử và 
văn minh nhân loại, trong đó thư viện nước 
ta cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn, quyết 
liệt hơn, toàn diện hơn, để hoàn thành tốt 
sứ mệnh của mình, nếu như không muốn 
tụt hậu với thời cuộc và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hannelore Vogt (2016). Thư viện trong kỷ 
nguyên số: các dịch vụ sáng tạo và sự chuyển 
động không gian.//Tạp chí Thư viện Việt Nam.- 
số 4 năm 2016.-tr. 9-12.
2. Đức Phường (2007). Thư viện của kỷ 
nguyên thông tin// Tạp chí Tia sáng.- Ngày 4 
tháng 5 năm 2007.
3. Vũ Thị Nha (2018). Vài thách thức đối 
với thư viện số và những chiến lược đối phó//
Học viện tài chính: https://hvtc.edu.vn/thuvien/
tabid/558/catid/143/id/28737/, ngày 13 tháng 3 
năm 2018.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 16-9-2018; 
Ngày phản biện đánh giá: 14-12-2018; Ngày 
chấp nhận đăng: 15-01-2019).

File đính kèm:

  • pdfthu_vien_va_van_hoa_doc_o_viet_nam_trong_ky_nguyen_so.pdf