Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam
Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi ngành Thông tin - Thư viện (TT-TV) thế giới ứng
dụng triệt để công nghệ thông tin (CNTT) để tự động hoá thư viện và phát triển nguồn tài
nguyên điện tử thì Thư viện điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế kỉ này,“Sự phát
triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” (Rubin, 2010) đã trở thành tư
tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có.
Thế giới bước vào kỉ nguyên số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế giới, xu thế phát
triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TT-TV.
Ngành TT-TV Việt Nam phát triển chậm so với cộng đồng thế giới. Trong khi cả thế
giới đã hoàn thiện và phát triển thư viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa ứng dụng
máy tính và đại bộ phận bắt đầu xây dựng thư viện điện tử.
Điều này là hệ quả của việc nhận thức về giá trị của CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP chưa
đúng, mà điển hình nhất là chương trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV không đáp
ứng được yêu cầu phát triền nguồn nhân lực để xây dựng thư viện hiện đại nhằm bắt kịp
nhịp phát triển với cộng đồng thế giới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 75 THƯ VIỆN SỐ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ Ở VIỆT NAM NGUYỄN MINH HIỆP (*) TÓM TẮT Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi ngành Thông tin - Thư viện (TT-TV) thế giới ứng dụng triệt để công nghệ thông tin (CNTT) để tự động hoá thư viện và phát triển nguồn tài nguyên điện tử thì Thư viện điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế kỉ này,“Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” (Rubin, 2010) đã trở thành tư tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có. Thế giới bước vào kỉ nguyên số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế giới, xu thế phát triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TT-TV. Ngành TT-TV Việt Nam phát triển chậm so với cộng đồng thế giới. Trong khi cả thế giới đã hoàn thiện và phát triển thư viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa ứng dụng máy tính và đại bộ phận bắt đầu xây dựng thư viện điện tử. Điều này là hệ quả của việc nhận thức về giá trị của CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP chưa đúng, mà điển hình nhất là chương trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV không đáp ứng được yêu cầu phát triền nguồn nhân lực để xây dựng thư viện hiện đại nhằm bắt kịp nhịp phát triển với cộng đồng thế giới. Từ khoá: thư viện số, nguồn tài nguyên điện tử, nguồn nhân lực ABSTRACT It is since the late years of the last century when the world’s Information - Library (Information - Library) thoroughly applied information technology (IT) to automate the libraries and the electronic resources that the Electronic Library came into being. Since the early years of this century when "The development of Information - Library is associated with the development of IT" (Rubin, 2010) became the guiding ideology, the world’s Information - Library has developed incredibly rapidly. The world entered the digital age and the digital library came into being. Nowadays, the trend of developing digital libraries has become a key part of Information - Library operations all over the world. Vietnam’s Information – Library has developed slowly compared with that of the world. Meanwhile, the world’s Information – Library has perfected and developed digital libraries, not many libraries in Vietnam have had the computer application and the majority of them have just started creating electronic libraries. This is a consequence of the misrecognition of the values of STANDARDIZATION- INTEGRATION, the most typical characteristic of which is that the training program and training quality of Information – Library professionals do not meet the requirements of human resource development in order to build the modern library to keep pace with the development of the world’s Information - Library. Keywords: digital library, electronic resources, human resources 76 Ngày nay, hoạt động TT-TV được thực hiện trong những Cơ quan thông tin (Information Agencies) gồm có thư viện, trung tâm thông tin, trung tâm tài nguyên, trung tâm học liệu, cơ sở lưu trữ, v.v. bao gồm trong năm loại hình thư viện: thư viện quốc gia, thư viện đại học, thư viện chuyên ngành, thư viện công cộng, và thư viện trường học. * Từ đối tượng vật thể (tài liệu in ấn, tài liệu nghe nhìn) mà nói chung là tài liệu đến đối tượng đa phương tiện (tài liệu điện tử) được mang một tên mới tài nguyên (resources) để chỉ tất cả mọi đối tượng thông tin truyền thống và hiện đại, ngành thông tin thư viện đã trải qua ba giai đoạn phát triển: • Quản lí tài liệu; • Quản lí thông tin; • Quản lí tri thức. 1. BA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NGÀNH KHOA HỌC THÔNG TIN- THƯ VIỆN • Quản lí tài liệu Giai đoạn này hiện hữu từ thời xa xưa tương ứng với nghề thư viện. Tuy nhiên ta chỉ tính mốc thời gian kể từ khi Melvil Dewey tổ chức trường dạy nghiệp vụ thư viện đầu tiên tại Đại học Columbia, New York, Hoa Kỳ vào ngày 01/01/ 1887 khai sinh ra ngành Thư viện học (Chan, 2007). Thư viện ngày đó chỉ bao gồm tài liệu in ấn và chúng ta đã dùng một thuật ngữ quen thuộc để gọi là Thư viện truyền thống. • Quản lí thông tin Thư viện là nơi phản ánh các nền văn minh; ý niệm thư viện đã trải qua nhiều giai đoạn và luôn luôn tiến triển để được thích nghi với mọi tình thế. Nhu cầu tìm kiếm thông tin ngày càng cao, thư viện (*) ThS, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. cũng phải thay đổi để đáp ứng được yêu cầu người dùng tin. Trước hết, phải thay đổi quan niệm quản lí. Từ quản lí tài liệu là quản lí vật chất, người thủ thư luôn quan tâm đến kích cỡ, quy mô, phạm vi, không gian cho đến quản lí thông tin là quản lí phi vật chất, người ta chỉ quan tâm đến sự tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả và nội dung tài liệu. Người quản lí thông tin không phải chỉ quan tâm thông tin trong thư viện mình mà còn thông tin ở bên ngoài. Giai đọan Quản lí thông tin manh nha từ đó. Trong giai đoạn này, v ... Resources). Tài nguyên số có thể là tài liệu nội sinh mà cũng có thể được truy cập từ xa qua mạng máy tính. Tiến trình số hoá trong thư viện bắt đầu từ hệ thống mục lục, chỉ mục tạp chí và d ch vụ tóm tắt tài liệu, đến ấn phẩm đ nh kỳ và tài liệu tham khảo, và cuối cùng là sách in”. Những khái niệm và đ nh nghĩa thư viện số như được trình bày ở trên thực chất là xuất phát từ một nhận thức cách mạng hoá quan niệm về thư viện rất được th nh hành ngày nay (Rubin, 2010). Theo đó tất 79 cả những thư viện truyền thống nào có tổ chức phục vụ một số lượng đáng kể tài nguyên số thì được gọi là thư viện số. 3.3. Xây dựng Thư viện số Để xây dựng hay hình thành thư viện số ngoài việc mua sắm tài nguyên số thương mại như CSDL trực tuyến, sách điện tử, tạp chí điện tử, v.v. cũng như liên kết thư viện để chia sẻ tài nguyên số. Chuyên viên thư viện phải thực hiện những công việc sau: • Số hóa tài liệu Số hóa là tiến trình chuyển tải tài liệu thư viện truyền thống, cụ thể là sách và văn bản in ấn sang dạng điện tử và lưu trữ trên máy tính. Có hai giai đoạn trong tiến trình số hóa. Giai đoạn đầu: Quét hình – Scanning, cho ra sản phẩm số hoá dạng hình, thường có đ nh dạng Bitmap hoặc TIFF. Giai đoạn hai: Nhận dạng ký tự quang học (OCR – Optical Character Recognition). Là tiến trình cho ra một sản phẩm dạng số hoá văn bản hay là trang web. Cơ bản là các đ nh dạng RTF, Word, hoặc HTML. Trong nhiều hệ thống thư viện số, tài liệu chỉ ở giai đoạn đầu, nghĩa là những gì độc giả thấy chỉ là hình ảnh, thường thì được chuyển sang dạng PDF (Portable Document Format). Đây là dạng thức dùng để mô tả trang giấy trong chương tình trao đổi tư liệu Adobe Acrobat – Phần mềm Adode Acrobat cần phải được cài đặt ở máy nhận để tập tin PDF có thể được hiển th và in ra như dạng gốc. Giai đoạn hai đòi hỏi phải có phần mềm nhận dạng ký tự quang học để chuyển tài liệu dạng hình sang dạng văn bản – là dạng có thể cung cấp truy cập theo bất kỳ một tổ hợp từ nào hay bất kỳ kĩ thuật trích dẫn siêu dữ liệu tự động được đ nh trước. Đồng thời chúng ta có thể chỉnh sửa trên chính văn bản đó. Việc số hóa có thể tự thực hiện trong thư viện hay hợp đồng với nhà thầu bên ngoài. Số hoá là nhằm tạo lập những bộ sưu tập số chuyên ngành. • Xây dựng bộ sưu tập số Đối với nghiệp vụ biên mục hiện đại, để xây dựng những bộ sưu tập số thì chuyên viên thư viện phải Tạo lập Siêu dữ liệu (Metadata Building) và Gặt hái Siêu dữ liệu (Metadata Harvesting): o Tạo lập Siêu dữ liệu: Nhằm tạo lập Bộ Sưu tập số nội sinh. Nếu trong thư viện truyền thống, biên mục viên tạo lập phiếu mục lục hay biểu ghi thư t ch cho độc giả tra cứu vào vốn tài liệu in ấn trong kho sách; thì trong Thư viện số, biên mục viên tạo lập Siêu dữ liệu để độc giả truy cập vào bộ sưu tập chuyên ngành trongKho số (Digital repository) đặt tại máy chủ của thư viện – đó được gọi là tài nguyên số nội sinh. o Gặt hái Siêu dữ liệu: Nhằm tạo lập những Bộ sưu tập ảo. Bằng phần mềm chuyên dụng hay phần mềm nguồn mở, chuyên viên thư viện tìm kiếm và thu gom những siêu dữ liệu của những tài liệu phù hợp với đề tài mình tìm kiếm khắp nơi trong thế giới mạng để tạo lập những Bộ sưu tập chuyên ngành chỉ chứa những siêu dữ liệu. Đây là hình thức thư viện ảo rất th nh hành trong thế giới thư viện số ngày nay, đặc biệt là trong những thư viện đại học. 3.4. Thư viện số với vấn đề bản quyền Sưu tầm thông tin và làm cho thông tin đó trở nên phổ biến hơn đối với người khác là một điều liên quan đến vấn đề xã hội. Những người xây dựng thư viện số phải am hiểu quyền sở hữu trí tuệ để hành động một cách có trách nhiệm và đúng luật xung quanh những ứng dụng cụ thể của mình. 80 - Thư viện số có thể làm cho việc truy cập trở nên rộng rãi hơn thư viện truyền thống. Việc truy cập này mang những đặc trưng: - Truy cập thông tin trong thư viện số nói chung ít b kiểm soát hơn tiếp cận sưu tập in ấn trong thư viện truyền thống; Đưa thông tin vào thư viện số là có khả năng làm cho thông tin đó trở nên phổ biến ngay đối với một số lượng độc giả hầu như vô hạn. Muốn xây dựng thư viện số thì phải số hoá tài liệu. Bản quyền chính là yếu tố quan trọng nhất mà chúng ta cần chú ý đặc biệt. Một số vấn đề cần xem xét trước khi quyết đ nh số hoá tài liệu: - Nếu tác phẩm được số hóa ở miền cộng (không có bản quyền) thì không phải xin phép. Dĩ nhiên kết quả số hoá của chúng ta cũng không được bảo vệ bản quyền, trừ phi kết quả của ta nhiều hơn bản gốc; - Nếu tài liệu được tặng cho cơ sở của ta để số hóa và người tặng có bản quyền, thì chúng ta tiến hành số hoá, tuy nhiên cần phải yêu cầu người tặng cung cấp cho mình quyền được số hoá – có thể bằng một mẫu giấy có ghi “quyền sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích chung của cơ sở, dưới bất kỳ phương tiện nào”. Nếu muốn số hoá tài liệu mà không rơi vào hai trường hợp trên thì ta phải cân nhắc thử việc số hóa của chúng ta có phải là một việc làm có lợi ích chung mà không xâm phạm lợi ích của người khác. Đây là một điều khó về mặt pháp lí. Cuối cùng nếu chúng ta không chắc chắn với điều cân nhắc trên thì ta phải tiến hành xin phép để được cấp phép thực hiện số hóa. Tóm lại, để tiến hành xây dựng thư viện số, ta phải lưu ý đến vấn đề bản quyền. Những người thực hiện phải cam kết hiểu biết đầy đủ về bản quyền và nhận thức sâu sắc rằng giấy phép là rất cần thiết để chuyển đổi tài liệu không thuộc miền công cộng. 4. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ Ở VIỆT NAM Việc đánh giá “Sự phát triển ngành TT- TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với cộng đồng thư viện thế giới trong việc nhanh chóng phát triền ngành TT-TV nói chung và hình thành thư viện số nói riêng. Từ đó, rất nhiều đổi mới trong ngành TT-TV được thực hiện, mà đổi mới cơ bản nhất là đào tạo. Hầu hết những cơ sở đào tạo ngành TT- TV đều được chuyển sang giảng dạy trong môi trường CNTT hay kĩ thuật. Chẳng hạn như ĐH Tin học Brighton, Anh Quốc; ĐH Kĩ thuật Nangyang, Singapore, ĐH Thương mại điện tử Victoria, New ealand, v.v. Ở Hoa Kỳ thì người ta đưa CNTT vào trường TT-TV. Nói chung chương trình đào tạo ngành TT-TV phải đặt nặng CNTT nhằm đào tạo đội ngũ chuyên viên thư viện am hiểu CNTT để đảm đương vai trò “Đứng giữa lãnh đạo và nhà thầu” trong công việc hiện đại hoá thư viện. Ở Việt Nam, việc phát triển ngành TT- TV nói chung và thư viện số nói riêng gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn cơ bản như sau: 4.1. Chậm đổi mới Theo nhà thư viện học người Nga danh tiếng v.v. Xcvortxov, trong giáo trình “Thư viện học đại cương”, được giảng dạy tại Nga, thì nền Thư viện học thế giới được chia thành 5 giai đoạn. Theo đó, ở giai đoạn (4) bước sang thế kỉ XX đã hình thành một sự phân đôi giữa thư viện học Xã hội chủ nghĩa và thư viện học Tư bản chủ nghĩa; đến nay (thế kỉ XXI) là giai đoạn hợp nhất (5) – Giai đoạn của sự phát triển thư viện như một môn khoa học thống 81 nhất gắn liền với công nghệ thông tin. Ngành TT-TV Việt Nam đã từng phát triển theo hướng thư viện Xã hội chủ nghĩa, cụ thể là theo Liên Xô cũ, thì trong giai đoạn hợp nhất hiện nay gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nhận thức về sự chuẩn hoá và đổi mới nghiệp vụ do đó chậm phát triển. Bản thân ngành TT-TV Nga đã nhanh chóng thay đổi và hội nhập với công đồng thư viện thế giới. Công đồng thế giới ngày nay đang phát triển theo khuynh hướng toàn cầu hoá. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là mở cửa. Nếu chúng ta không hội nhập thì chúng ta sẽ b đào thải hoặc chậm phát triển. Khoa học kĩ thuật và những ngành tác động trực tiếp đến đời sống xã hội như Ngân hàng, Kinh tế, Kiểm toán, vv thì chúng ta thấy ngay sự cần thiết của chuẩn hóa. Ngành TT-TV ít được quan tâm và bản thân những người trong ngành, thậm chí đầu ngành không nhận thức sâu sắc rằng “Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT”, mà chỉ xem CNTT như là một ứng dụng bình thường như những ngành nghề khác. Điều này được thể hiện trong chương trình đào tạo ngành TT-TV là ít chú trọng đến CNTT - đây là điều cần thiết để hình thành “Tư duy công nghệ mới ngành nghề” và trang b kiến thức và kĩ năng CNTT cho sinh viên vì ngành TT-TV ngày nay là ứng dụng triệt để công nghệ mới. Đã có một phát biểu được nhắc đến nhiều trong những sách và giáo trình cũng như những bài báo về chuyên ngành TT-TV hiện nay rằng “Công nghệ WEB là công nghệ hiện tại và tương lai của ngành TT-TV”. Ngoài ra chính sức ì tâm lí và bảo thủ cũng đã tác động đến việc nhận thức về chuẩn hoá dẫn đến việc chậm đổi mới như hiện nay. Ai cũng biết rằng “Đổi mới là khó khăn” nhưng đặc biệt trong ngành TT-TV “Đổi mới là chìa khoá đi vào tương lai” (Lesli Burger, 2006). 4.2. Thiếu nguồn nhân lực quản lí thư viện số Khó khăn ở trên là nguyên nhân dẫn đến khó khăn thứ hai. Vì chương trình đào tạo ngành TT-TV hiện nay thiếu cập nhật và hệ lụy là Chương trình đào tạo này chỉ đáp ứng nhu cầu không thay đổi trong một xã hội đang thay đổi từng ngày. Chúng ta có nhiều cơ sở đào tạo, nhưng vẫn thiếu trầm trọng nguồn nhân lực để quản lí thư viện số nói riêng và để đáp ứng nhu cầu phát triển thư viện theo hướng chuẩn hoá – hội nhập nói chung. Trong cố gắng để khả dĩ khắc phục được tình trạng trên, Khoa Thư viện của Trường ĐH Sài Gòn đã xây dựng và giảng dạy một chương trình theo phương châm “Vừa đáp ứng nhu cầu vừa làm thay đổi nhu cầu xã hội”. Chương trình giảng dạy này hầu như hoàn toàn đổi mới dựa theo những tiêu chí đào tạo như sau: • Khoa học thực hành; • Gắn liền với Công nghệ thông tin; • Chuẩn hoá cao độ. Đã có một bài viết để giới thiệu chương trình đào tạo này trong Tạp chí Đại học Sài Gòn số 1 (9/2009), tr. 129 với tựa đề “Một chương trình đào tạo ngành Thư viện Thông tin vừa đáp ứng nhu cầu vừa làm thay đổi nhu cầu xã hội”. 4.3. Phát triển thiếu đồng bộ và lãng phí Rõ ràng khó khăn thứ nhất và khó khăn thứ hai đã đưa đến khó khăn trực tiếp trong việc hiện đại hoá thư viện Việt Nam hiện nay. • Đại bộ phận thư viện chưa có điều kiện hiện đại hoá và xây dựng thư viện số thì vẫn loay hoay với những giá tr cũ (Mục lục phân loại, Phân loại 19 dãy, v.v.). Đúng ra thì nên thay đổi những chuẩn thư 82 t ch (bibliographic standards) theo hướng chuẩn hóa, hội nhập với những chuẩn quốc tế để chuẩn b cho việc tự động hóa với những chuẩn đó. • Một số thư viện có điều kiện hiện đại hoá, trong số đó có những thư viện lớn, tiêu tốn rất nhiều tiền trong những dự án hiện đại hóa thư viện. Những thư viện này hoàn toàn giao phó mọi công việc cho nhà thầu và chuyên viên CNTT. Mỗi thư viện được xây dựng theo một kiểu khác nhau, không hề có ý kiến của chuyên viên thư viện về chuẩn nghiệp vụ thư viện. Một minh chứng rõ ràng là những phần mềm quản lí thư viện mà cụ thể là phần tra cứu mục lục trực tuyến (MLTT) của những công ty trong nước đã phát triển theo ý đồ “cao siêu” của chuyên viên CNTT mà hầu như không tuân thủ chuẩn nghiệp vụ cơ bản của ngành TT-TV là xây dựng MLTT là tự động hoá mục lục thủ công phải dựa theo hệ thống mục lục tiêu đề (tác giả, nhan đề, chủ đề). Tình trạng này là phổ biến. Các thư viện này chủ yếu là mua sắm những thiết b hiện đại đắt tiền rồi “trùm mền”. Rõ ràng việc làm này chỉ có lợi cho nhà thầu và những người có liên quan đến dự án hơn là làm lợi cho chính những thư viện đó và nhất là sự phát triển ngành TT- TV nước nhà. Trong công việc hiện đại hóa thư viện nói chung và xây dựng thư viện số nói riêng, vai trò người cán bộ thư viện quyết đ nh sự thành công chứ không phải chỉ lệ thuộc vào công nghệ. Sự phát triển thiếu đồng bộ và lãng phí hiện nay là do bản thân đội ngũ cán bộ và chuyên viên thư viện không phát huy khả năng yêu cầu nhà kĩ thuật phục vụ mình tới nơi tới chốn mà chỉ lệ thuộc vào nhà thầu. 5. KẾT LUẬN Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi ngành TT-TV thế giới ứng dụng triệt để CNTT để tự động hóa thư viện và phát triển nguồn tài nguyên điện tử thì Thư viện điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế kỉ này, “Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có. Thế giới bước vào kỉ nguyên số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế giới, xu thế phát triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TT-TV. Ngành TT-TV Việt Nam phát triển chậm so với cộng đồng thế giới.Trong khi cả thế giới đã hoàn thiện và phát triển thư viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa ứng dụng máy tính và đại bộ phận bắt đầu xây dựng thư viện điện tử. Tuy nhiên có một số thư viện đã và đang tiến hành phát triển thư viện số. Một số thư viện tiến hành nghiêm túc, nhưng đa số là phát triển thiếu đồng bộ và lãng phí. Công việc trọng đại này đều phó mặt cho nhà thầu và chuyên viên CNTT mà không có ý kiến của chuyên viên TT-TV. Điều này là hệ quả của việc nhận thức về giá tr của CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP chưa đúng, mà điển hình nhất là chương trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV không đáp ứng được yêu cầu phát triền nguồn nhân lực đề xây dựng thư viện hiện đại nhằm bắt k p nh p phát triển với cộng đồng thế giới. 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ANDERSON, Elaine, GOSLING, Marry và MORTIMER, Marry (2007), Learn Basic Library Skills, 4 th edition - Canberra: DocMatrix, Pty Ltd. 2. CHAN, Lois Mai (2007), Cataloging and Classification: An Introduction, 4 th edition- New York: McGraw-Hill, Inc. 3. Trường Đại học Sài Gòn, Khoa Thư viện Thông tin - TP HCM (2008), Chương trình giáo dục đại học. Ngành đào tạo: Thư viện Thông tin. Trình độ đào tạo: Đại học. 4. LESK, Michael (2000), Practical Digital Libraries: Books, Bytes, and Bucks, San Francisco: Morgan Kaufmann. 5. Nguyễn Minh Hiệp (2008), Cơ sở khoa học thông tin và thư viện, TP. HCM, Nxb Giáo dục. 6. REITZ, Joan M (2005), Dictionary for Llibrary and Information Science, Westport, Connecticut: Libraries Unlimited. 7. RUBIN, Richard E (2010), Foundations of Llibrary and Information Science, 3rd edition. – New York: Neal – Schuman Publishers, Inc. 8. RHINO, Art (2004), Using Open Source Systems for Digital Libraries, Westport, Connecticut: Libraries Unlimited. 9. WITTEN, IanH. và BAIBRIDGE, David (2003), How to Build a Digital Library - New York: Morgan Kaufmann. 10. Nguyễn Minh Hiệp chủ biên (2013), Thư viện và nghề thư viện, TP HCM: Văn hóa Thông tin. 11. XCVORTXOV, V.V. (2004), Thư viện học đại cương, Phần 1: Những cơ sở lí thuyết của Thư viện học / Nguyễn Th Thư d ch, Hà Nội: Văn hóa Thông tin. * Ngày nhận bài: 7/1/2014. Biên tập xong: 20/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014
File đính kèm:
- thu_vien_so_va_van_de_xay_dung_thu_vien_so_o_viet_nam.pdf