Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện

Chủ đề “thư viện số” đã xuất hiện rộng rãi trong các cuộc tranh

luận về thư viện ngay từ những năm 1990, mặc dù cụm từ này đã được

sử dụng (ít nhất là từ những năm 1970) chủ yếu để mô tả các bộ sưu tập

được số hóa về nội dung lịch sử hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà

không có hạn chế liên quan bản quyền. Các thư viện hàn lâm đã hoàn

thành quá trình số hóa từ những năm 1990 đến đầu những năm 2000

và trong một số lĩnh vực (đặc biệt là trong các tạp chí thuộc lĩnh vực

STEM), họ đã tiến hành số hóa triệt để bằng cách làm gián đoạn hoàn

toàn việc in giấy của các tạp chí. Mặt khác, mức độ số hóa các nguồn

tài liệu học thuật trong khoa học xã hội và nhân văn và đặc biệt trong

lĩnh vực chuyên khảo thấp hơn rất nhiều: ở đây thế giới học thuật về

cơ bản vẫn là hai phương thức (cả số và tương tự) nếu không nói là chủ

yếu tương tự

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 1

Trang 1

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 2

Trang 2

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 3

Trang 3

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 4

Trang 4

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 5

Trang 5

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 6

Trang 6

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 7

Trang 7

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 8

Trang 8

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 9

Trang 9

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 8200
Bạn đang xem tài liệu "Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện

Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện
SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
Trần Đức Tân1* - Phạm Thị Thu2** - Nguyễn Thị Thu3***
Tóm tắt: Chuyển đổi số (Digital Transformation) là khái niệm ra 
đời trong thời đại internet bùng nổ, đang trở nên phổ biến trong 
thời gian gần đây, mô tả việc ứng dụng công nghệ số (digitalize) 
vào tất cả các khía cạnh của các tổ chức, doanh nghiệp. Đối với 
hoạt động của thư viện, nếu đạt hiệu quả, hoạt động này sẽ thay 
đổi toàn diện (transformation) cách thức mà một thư viện tương 
lai hoạt động, tăng hiệu quả, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và 
mang lại giá trị cho người đọc
Từ khóa: Dữ liệu; Số hóa; Chuyển đổi số; Hiệu quả.
1. GIỚI THIỆU
Chủ đề “thư viện số” đã xuất hiện rộng rãi trong các cuộc tranh 
luận về thư viện ngay từ những năm 1990, mặc dù cụm từ này đã được 
sử dụng (ít nhất là từ những năm 1970) chủ yếu để mô tả các bộ sưu tập 
được số hóa về nội dung lịch sử hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà 
không có hạn chế liên quan bản quyền. Các thư viện hàn lâm đã hoàn 
thành quá trình số hóa từ những năm 1990 đến đầu những năm 2000 
và trong một số lĩnh vực (đặc biệt là trong các tạp chí thuộc lĩnh vực 
STEM), họ đã tiến hành số hóa triệt để bằng cách làm gián đoạn hoàn 
toàn việc in giấy của các tạp chí. Mặt khác, mức độ số hóa các nguồn 
tài liệu học thuật trong khoa học xã hội và nhân văn và đặc biệt trong 
lĩnh vực chuyên khảo thấp hơn rất nhiều: ở đây thế giới học thuật về 
* Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Phenikaa.
** Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
*** Tiến sĩ, Trường Đại học Công nghiệp.
764
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
cơ bản vẫn là hai phương thức (cả số và tương tự) nếu không nói là chủ 
yếu tương tự.
Giai đoạn 2011-2020 nền kinh tế thế giới chứng kiến nhiều xu thế 
phát triển mạnh mẽ dựa trên công nghệ thông tin, điện tử viễn thông 
trong đó nổi bật là xu thế xã hội, di động, phân tích dữ liệu và điện toán 
đám mây - SMAC (Social, Mobility, Data analytic, Cloud). Nền kinh tế 
cũng được tổ chức lại với các mô hình kinh doanh dựa trên các công 
nghệ này. Nhiều khái niệm về mô hình kinh tế như kinh tế tri thức, 
kinh tế Internet, kinh tế số đã xuất hiện. Cuối những năm của thập kỷ 
thứ 2 thế kỷ 21, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) 
cùng với hàng loạt các xu thế công nghệ mới đang mở ra nhiều cơ hội 
và thách thức.
Trong thế giới kỹ thuật số, con người, quy trình và mọi thứ siêu 
liên kết với nhau. Chắc chắn rằng kỹ thuật số trao quyền cho mọi 
người nhưng nó cũng làm gián đoạn các doanh nghiệp lâu đời bao 
gồm những tổ chức giáo dục cấp cao [1-3]. Công nghệ kỹ thuật số đang 
định hình lại bản chất của giáo dục đại học. Vai trò của các trường đại 
học đang được xác định lại trong xã hội số. Các trường đại học không 
chỉ được coi là cơ quan trao bằng cho người học, đó còn là nơi truyền 
đạt kiến thức vì lợi ích của kiến thức, chuẩn bị cho sinh viên việc làm 
và trách nhiệm với xã hội. Các trường đại học cũng như bất kỳ các 
doanh nghiệp đều đang cạnh tranh trên toàn cầu để thu hút sinh viên 
qua danh tiếng về học thuật và kinh phí học tập. Chỉ những trường 
đại học tận dụng sức mạnh của kỹ thuật số và đưa vào chuyển đổi kỹ 
thuật số tập trung sẽ tồn tại trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Chúng ta đã 
thấy những nhân tố mới trên thị trường như Amazon, Uber, Airbnb, 
v.v. đã làm gián đoạn các doanh nghiệp lâu đời và đi tắt đón đầu bằng 
cách tận dụng sức mạnh của kỹ thuật số kết hợp với chuyên môn kinh 
doanh của họ và thông tin chi tiết về khách hàng. 
Tương tự, các trường đại học đang bị gián đoạn bởi những phát 
triển như giáo dục mở, khóa học trực tuyến mở, OERs (Tài nguyên 
giáo dục mở), v.v. Sự phát triển nhanh chóng trong giáo dục trực tuyến 
làm cho cơ hội học tập phong phú hơn, rẻ hơn [4-5]. Các nhà cung cấp 
765
SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
mới như Pearson Education, và Khan Academy đang cung cấp chương 
trình giáo dục được cá nhân hóa đến từng học sinh. YouTube đã trở 
thành nền tảng kỹ thuật số lớn nhất để học tập của mọi lứa tuổi. Trên 
toàn cầu, nhiều các trường đại học truyền thống đang bắt đầu có 
những hành động đáp ứng lại những thách thức và sự phát triển để số 
hóa trường đại học. Điều này đòi hỏi kỹ thuật số được lập kế hoạch tốt 
chiến lược bao gồm khuôn khổ chuyển đổi kỹ thuật số trong đó tất cả 
những người chơi chính và các bên liên quan có thể đóng một vai trò 
tích cực trong việc định hình trường đại học phát triển mạnh mẽ trong 
thời đại kỹ thuật số. 
Thư viện được coi là nơi chấp nhận sớm nhất công nghệ mới và sẽ 
tạo xu hướng cho các trường đại học [4-7]. Thư viện trong các trường 
đại học sẽ có một vai trò cốt yếu có thể trở thành tấm gương về chuyển 
đổi số tại các trường đại học của họ (minh họa hình 1). Trong thực tế, 
thư viện trong các trường đại học chỉ là một trong những loại hình 
thư viện kỹ thuật số hiện nay. Chúng ta có thể tạm chia thành bốn loại 
chính như sau:
•	 Thư viện học thuật (thường chỉ sinh viên và cán bộ giảng dạy 
của một trường đại học mới có thể truy cập được tại chỗ hoặc từ xa 
thông qua internet). Thư viện loại này cho phép truy cập vào các tạp 
chí khoa học, giáo trình, sách chuyên khảo học thuật và cơ sở dữ liệu 
chuyên nghiệp.
•	 Thư viện bảo tồn: cung cấp quyền truy cập vào các bộ sưu tập 
lịch sử được số hóa của họ.
•	 Thư viện công cộng: là những thư viện có số lượng người dùng 
cao nhất cung cấp quyền truy cập vào các gói nội dung thương mại 
được nhiều người quan tâm hơn như báo và tạp chí định kỳ, sách nói, 
sách điện tử, âm nhạc, phim ảnh,..
•	 Thư viện trường học thường cung cấp nội dung số rất giống với 
nội dung cho thư viện công cộng, có thể lọc hoặc chọn nội dung theo 
cấp trường.
766
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Hình 1. Mô hình thư viện 4.0 tại ĐHQGHN 
(Nguồn: lic.vnu.edu.vn) 
(Thư viện thông minh 4.0: Công nghệ - Dữ liệu - Con người)
2. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ
Trước đây, các thư viện giữ hồ sơ trên giấy. Cho dù viết tay vào sổ 
cái hoặc nhập vào tài liệu, dữ liệu sách là tương tự. Nếu thủ thư muốn 
thu thập hoặc chia sẻ thông tin, họ xử lý các tài liệu vật lý – giấy tờ 
và các con dấu, máy in xeroxes và fax. Sau đó, máy tính trở thành xu 
hướng và hầu hết các thư viện bắt đầu chuyển đổi tất cả các bản ghi 
trên giấy sang các tệp máy tính kỹ thuật số. Đây được gọi là số hóa 
(Digitization): quá trình chuyển đổi thông tin từ analog ở thế giới thực 
sang kỹ thuật số. Đây có thể được gọi là bước tin học hóa, là một thành 
phần của quá trình chuyển đổi số.
Việc tìm kiếm và chia sẻ thông tin trở nên dễ dàng hơn nhiều khi 
nó đã được số hóa, nhưng cách thức mà các thư viện sử dụng các bản 
ghi kỹ thuật số mới của họ phần lớn bắt chước các phương pháp tương 
tự cũ. Các hệ điều hành máy tính thậm chí còn được thiết kế xung 
quanh các biểu tượng của các thư mục tệp để cảm thấy quen thuộc và 
ít đáng sợ hơn với người dùng mới. Dữ liệu số giúp cho các thư viện 
vận hành hiệu quả hơn theo cấp số nhân so với trước đây, nhưng các 
hệ thống và quy trình quản lý vẫn được thiết kế chủ yếu xoay quanh 
các ý tưởng thời đại tương tự về cách tìm, chia sẻ và sử dụng thông tin.
767
SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
Quy trình sử dụng thông tin đã được số hóa để làm cho các cách 
thức hoạt động đơn giản và hiệu quả hơn được gọi là Digitalization. 
Lưu ý từ được thiết lập trong định nghĩa đó: Digitalization không phải 
là về việc thay đổi cách bạn vận hành thư viện mới hay tạo ra các loại 
hình thư viện mới. Đó là về việc tiếp tục, nhưng nhanh hơn và tốt hơn 
là dữ liệu của bạn có thể truy cập ngay lập tức và không bị kẹt trong 
tủ tệp ở đâu đó trong kho lưu trữ bụi. Digitalization thay đổi dịch vụ 
thư viện bằng cách làm cho hồ sơ sách/giáo trình hay hồ sơ bạn đọc dễ 
dàng và nhanh chóng có thể truy xuất thông qua máy tính.
Khi công nghệ kỹ thuật số phát triển, mọi người bắt đầu tạo ra 
ý tưởng sử dụng công nghệ theo những cách mới, và không chỉ để 
làm những việc cũ nhanh hơn. Đây là khi ý tưởng về Chuyển đổi số 
(Digital Transformation) bắt đầu hình thành. Với các công nghệ mới, 
những điều mới – và cách thức mới để thực hiện chúng.
Hình 2: Từ số hóa sang chuyển đổi số1
3. MỘT SỐ LIÊN HỆ TẠI VIỆT NAM 
3.1. Hiện trạng và kế hoạch phát triển 
Chuyển đổi số được xem là mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để 
tạo ra những thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và 
phương pháp dạy - học.
Một ví dụ về thư viện học thuật theo cách phân loại trong mục 1 
đó là Thư viện số tại Trung tâm Thông tin – Thư viện, ĐHQGHN (VNU-LIC) 
1 Smartfactoryvn.com
768
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
thuộc loại thư viện học thuật. Đây là thư viện chuyển đổi số, được đầu 
tư hạ tầng hiện đại và tự động trong tất cả các khâu. Người dùng có 
thể dễ dàng tìm sách, mượn sách, yêu cầu tài liệu chỉ với chiếc điện 
thoại thông minh. 
VNU-LIC có vai trò xây dựng và phát triển học liệu số phục vụ cho 
toàn bộ ĐHQGHN. VNU-LIC 4.0 sẽ định hướng phát triển 3 mô hình 
Trung tâm Tri thức số, Trung tâm học tập số, Trung tâm nghiên cứu số 
để làm nền tảng phát triển VNU 4.0 và 3 mô hình này sẽ tác động lớn 
đến quản lý, nghiên cứu, giảng dạy, học tập, tiếp nhận tri thức của 
toàn bộ ĐHQGHN trong tương lai [7-10]. Có thể thấy sự phát triển 
Digitization- Digitalization- Digital Transformation có thể được thể hiện 
qua các dữ kiện sau [11]: 
2014: Thư viện số 1.0 (Digital Library 1.0): Số hoá và quản trị tài 
nguyên nội sinh ĐHQGHN.
2018: Thư viện số nghiên cứu 2.0 (Digital Research Library 2.0): 
Tích hợp tri thức số nội sinh ĐHQGHN với hệ tri thức học thuật toàn 
cầu qua hệ thống tìm kiếm thông minh URD2
2019: Thư viện Thông minh 4.0 (Smart Library 4.0): Phát triển 
công nghệ di động, dữ liệu lớn, kết nối vạn vật, truy cập và sử dụng tài 
nguyên số thư viện số Bookworm qua smartphone
2020-2025: Trung tâm Tri thức số VNU-LIC 4.0 (Digital Knowledge 
Hub): Người dùng có khả năng truy cập, tìm kiếm, sử dụng và đọc 
toàn bộ tri thức số của nhân loại, tạo nên hệ sinh thái nghiên cứu – đào 
tạo ĐHQGHN đồng bộ hoá với hệ sinh thái nghiên cứu của nhân loại. 
Thư viện Đa điểm (Multi – Location Library để phát triển mạng lưới 
thư viện chi nhánh tới toàn bộ các Trường – Khoa ĐHQGHN, phát 
triển văn hoá đọc toàn diện mọi lúc – mọi nơi. (Nguyễn Hoàng Sơn, 2020, 
Chuyển đổi từ thư viện số thành trung tâm trí thức số) 
Một ví dụ về thư viện trường học theo cách phân loại trong mục 1 
là thư viện ở một số trường học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hưởng ứng 
chiến dịch “Chuyển đổi số để học tập suốt đời” do Bộ Giáo dục và Đào 
tạo tổ chức, năm nay nhiều trường học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.
769
SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
HCM) đã thực hiện quá trình chuyển đổi số cho thư viện của mình, với 
hy vọng mang đến một kênh học tập cho học sinh, sinh viên. Có những 
học sinh thường xuyên dành 1-2 tiếng mỗi tuần để đọc sách số trong 
thư viện. So với phiên bản giấy truyền thống, loại mới có thể cung cấp 
nhiều màu sắc và thông tin cập nhật hơn. Ngoài ra, với cơ sở vật chất 
mới, việc tìm kiếm thông tin hiện nay nhanh chóng hơn rất nhiều. Tại 
trường Tiểu học Đống Đa, mô hình thư viện thông minh ở trường thuộc 
dự án “Xây dựng trường học theo phong cách hiện đại”. Tổng chi phí 
cho mô hình này gần 1 tỷ đồng (khoảng 43.000 USD), chủ yếu chi cho 
30 máy tính bảng, 6 máy tính để bàn, 3 thư viện tương tác phục vụ nhu 
cầu học tập, nghiên cứu của cả học sinh và giáo viên nơi đây. So với tìm 
kiếm thông tin thông thường, sử dụng phiên bản kỹ thuật số nhanh hơn 
nhiều trong khi kết quả hữu ích hơn. Thành phố Hồ Chí Minh đã có kế 
hoạch đầu tư xây dựng mô hình thư viện này tại 17 trường THPT thông 
qua chương trình kích cầu đầu tư của thành phố, trong đó các trường 
này được cho vay tối đa 100 tỷ đồng (4.32 triệu USD) với lãi suất thấp 
hơn trong vòng không quá 7 năm. Có thể thấy sự đầu tư cho các thư viện 
trường học còn thấp, những khoản tiền này chỉ có thể đảm bảo đủ cơ sở 
hạ tầng để phục vụ số lượng học sinh ngày càng tăng tại Thành phố Hồ 
Chí Minh. Vì vậy, việc nhờ cộng đồng giúp đỡ về tài chính là một trong 
những cách hiệu quả và hợp lý để cải thiện cơ sở vật chất giáo dục hiện 
nay trong các trường học để người học có điều kiện tiếp xúc với công 
nghệ hiện đại trong quá trình học tập.
3.2. Một số gợi ý cho thư viện khi chuyển đổi số
a) Quản lý dữ liệu nghiên cứu
Quản lý dữ liệu nghiên cứu (RDM) được định nghĩa là việc “tổ 
chức dữ liệu, từ khi nhập dữ liệu đến chu trình nghiên cứu thông qua 
việc phổ biến và lưu trữ kết quả ” [13]. Dữ liệu mở và thực tiễn quản 
lý dữ liệu nghiên cứu khá tốt là ưu điểm đang được đánh giá cao tại 
Vương quốc Anh. Nhiều quỹ nghiên cứu hàng đầu của Vương quốc 
Anh đã đưa ra yêu cầu về quản lý và chia sẻ dữ liệu như một phần của 
điều kiện về phê duyệt dự án. 
770
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Có thể thấy dữ liệu có thể được sử dụng lại cho các môn học liên 
ngành, học tập và khám phá tri thức mới. Việc làm này sẽ tiết kiệm thời 
gian và nỗ lực để thu thập dữ liệu mới. Các thư viện đã đi đầu trong 
việc tạo các chính sách quản lý dữ liệu và các dịch vụ liên quan để đáp 
ứng các yêu cầu của hội đồng nghiên cứu và thúc đẩy dữ liệu nghiên 
cứu trong trường đại học. Các thủ thư học thuật xem xét RDM là hoạt 
động quan trọng nhất của họ. 
Các thủ thư học thuật đã điều phối chính sách RDM của trường 
đại học để tuân thủ các yêu cầu của cơ quan tài trợ. Họ cũng đưa ra lời 
khuyên về cách trích dẫn dữ liệu, đăng ký với các dịch vụ datacite, trao 
đổi với các công ty dịch vụ siêu dữ liệu để ghi lại nội dung dữ liệu nghiên 
cứu, cung cấp Đào tạo RDM cho sinh viên, nhà nghiên cứu, cung cấp 
tư vấn về IPR, bản quyền & cấp phép dữ liệu, cung cấp hỗ trợ truy xuất 
các nguồn dữ liệu bên ngoài, đưa ra lời khuyên về phân tích dữ liệu v.v.
b) Vai trò chủ động trong Truyền thông/Xuất bản học thuật
Công nghệ kỹ thuật số tiếp tục biến đổi môi trường học thuật. Hiệp 
hội các trường cao đẳng & Thư viện nghiên cứu (ACRL) xác định trao 
đổi học thuật là một hệ thống mà thông qua đó các nghiên cứu và bài 
viết được đánh giá bởi các đồng nghiệp về chất lượng, phổ biến cho 
cộng đồng học giả và được lưu giữ để sử dụng trong tương lai. 
Việc công bố các nghiên cứu khoa học bắt đầu vào khoảng năm 1665 
miễn phí chứ không phải là hàng hóa. Tuy nhiên nó dần mở quyền truy 
cập, chuyển vào tay các nhà xuất bản thương mại và trở thành một mặt 
hàng đắt tiền sinh lời. Hiện nay có 2 hình thức chính hoặc là thu tiền của 
người đọc, hoặc là thu tiền của các tác giả [14]. Tuy nhiên, với sự xuất hiện 
của xuất bản kỹ thuật số, hình thức học thuật giao tiếp đang trở lại trong 
tay các nhà khoa học và các thư viện. Các thư viện có thể đóng một vai 
trò quan trọng trong việc tăng cường tích hợp, khả năng phối hợp giữa 
các hệ thống đại học, quốc gia/xuất bản kỹ thuật số quốc tế,... để tạo điều 
kiện cho việc xuất bản mở chuyên khảo truy cập (không thu tiền của độc 
giả hay người đọc). Nhiều trường đại học đang đóng cửa các nhà in tại các 
trường đại học và xuất bản điện tử được trao cho các thư viện. 
771
SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
c) Đào tạo học thuật
Thư viện có thể bắt đầu tuyển dụng một giống thủ thư mới: 
truyền thông học thuật, dữ liệu, v.v. Vai trò chính của những thủ thư 
này là giáo dục, nâng cao nhận thức và kỹ năng cho các nhà nghiên 
cứu và nhân viên mới. Họ sẽ đào tạo về xuất bản truy cập mở, quản 
lý dữ liệu nghiên cứu & kế hoạch dữ liệu, quản lý luận án, công cụ hỗ 
trợ cho các tác giả, truy xuất tài liệu học thuật bao gồm truy xuất dữ 
liệu, đo lường tác động của nghiên cứu thông qua kỹ thuật số, quản 
lý tài liệu tham khảo, đào tạo trong phân tích dữ liệu, trực quan hóa 
dữ liệu, sử dụng thao tác dữ liệu phần mềm như SPSS, STATA, R, 
NVIVO, Dedoose, v.v. [15].
4. KẾT LUẬN
Lịch sử của việc sử dụng các công nghệ xử lý thông tin tự động và 
cụ thể hơn là công nghệ số trong thư viện là vô cùng lâu dài và phức 
tạp. Bài viết đề cập tới việc chuyển đổi số (Digital Transformation) và 
những bước chuyển đổi tiến tới chuyển đổi số của các thư viện hiện 
nay. Bài viết cũng thảo luận về ba gợi ý trong công cuộc chuyển đổi số 
của thư viện đó là: Quản lý dữ liệu nghiên cứu, Vai trò chủ động trong 
Truyền thông / Xuất bản học thuật, Đào tạo học thuật. Nếu có thể tiến 
hành hiệu quả, các hoạt động này sẽ tăng hiệu quả, tối ưu hóa hiệu 
suất làm việc và mang lại giá trị cho người dùng dịch vụ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Teece, D. J. (2017), Dynamic capabilities and (digital) platform lifecycles. 
In Entrepreneurship, innovation, and platforms. Emerald Publishing 
Limited.
2. Cox, A. M., & Pinfield, S. (2014), Research data management and librar-
ies: Current activities and future priorities. Journal of librarianship and 
information science, 46(4), 299-316.
3. Hiom, D., Fripp, D., Gray, S., Snow, K., & Steer, D. (2015), Research data 
management at the University of Bristol Charting a course from proj-
ect to service. Program-electronic library and information systems, 49(4), 
475-493.
772
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
4. Lippincott, J., Vedantham, A., & Duckett, K. (2014), Libraries as enablers 
of pedagogical and curricular change. EDUCAUSE Rev [Internet], 27.
5. Lippincott, J. K. (2015), Libraries and the digital university. College & Re-
search Libraries, 76(3), 283-295.
6. Nguyen, Thi Hien and Nguyen, Thi Thu and Tran, Thi Thuy Quynh and 
Tran, Duc Tan (2018), Khai thác dữ liệu người dùng đóng góp giúp nâng cao 
hiệu quả thực thi phần mềm. In: Tối ưu quản trị tri thức số. NXB ĐHQGHN, 
pp. 172-182. ISBN 978-604-9848-28-5. 
7. Nguyen Thi, Hien and Tran Thi Thuy, Quynh and Tran Duc, Tan (2018), 
Định vị thông minh giúp nắm bắt thị hiếu người đọc. In: Thư viện thông 
minh trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, 2018 October 27, Ho Chi 
Minh city, Viet nam.
8. Pasquale F. The black box society: The secret algorithms that control 
money and information.Harvard University Press, 2015doi:10.4159/har-
vard.9780674736061.
9. European Union. General Data Protection Regulation.Offical Journal of 
the European Union, 2018.
10. Bookworm, Giải pháp lưu thông tài liệu điện tử Libol Bookworm, www.
vtv.vn, truy cập 20/06/2020.
11. Nguyễn Hoàng Sơn, Chuyển đổi từ thư viện số thành Trung tâm Tri thức 
số, https://lic.vnu.edu.vn/, truy cập 20/06/2020.
12. TP. Hồ Chí Minh ứng dụng chuyển đổi số trong thư viện trường học, 
https://sggpnews.org.vn, truy cập 20/10/2020.
13. Corrall, S., Kennan, M. A., & Afzal, W. (2013). Bibliometrics and research 
data management services: Emerging trends in library support for re-
search. Library trends, 61(3), 636-674.
14. Piwowar, H., Priem, J., Larivière, V., Alperin, J. P., Matthias, L., Norlander, 
B.,... & Haustein, S. (2018). The state of OA: a large-scale analysis of the 
prevalence and impact of Open Access articles. PeerJ, 6, e4375.
15. Paulus, T. M., & Lester, J. N. (2020). Using software to support qualita-
tive data analysis. In Handbook of Qualitative Research in Education. 
Edward Elgar Publishing.

File đính kèm:

  • pdfso_hoa_va_chuyen_doi_so_trong_hoat_dong_thu_vien.pdf