Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện
Chủ đề “thư viện số” đã xuất hiện rộng rãi trong các cuộc tranh
luận về thư viện ngay từ những năm 1990, mặc dù cụm từ này đã được
sử dụng (ít nhất là từ những năm 1970) chủ yếu để mô tả các bộ sưu tập
được số hóa về nội dung lịch sử hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà
không có hạn chế liên quan bản quyền. Các thư viện hàn lâm đã hoàn
thành quá trình số hóa từ những năm 1990 đến đầu những năm 2000
và trong một số lĩnh vực (đặc biệt là trong các tạp chí thuộc lĩnh vực
STEM), họ đã tiến hành số hóa triệt để bằng cách làm gián đoạn hoàn
toàn việc in giấy của các tạp chí. Mặt khác, mức độ số hóa các nguồn
tài liệu học thuật trong khoa học xã hội và nhân văn và đặc biệt trong
lĩnh vực chuyên khảo thấp hơn rất nhiều: ở đây thế giới học thuật về
cơ bản vẫn là hai phương thức (cả số và tương tự) nếu không nói là chủ
yếu tương tự
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Số hoá và chuyển đổi số trong hoạt động thư viện
SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN Trần Đức Tân1* - Phạm Thị Thu2** - Nguyễn Thị Thu3*** Tóm tắt: Chuyển đổi số (Digital Transformation) là khái niệm ra đời trong thời đại internet bùng nổ, đang trở nên phổ biến trong thời gian gần đây, mô tả việc ứng dụng công nghệ số (digitalize) vào tất cả các khía cạnh của các tổ chức, doanh nghiệp. Đối với hoạt động của thư viện, nếu đạt hiệu quả, hoạt động này sẽ thay đổi toàn diện (transformation) cách thức mà một thư viện tương lai hoạt động, tăng hiệu quả, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho người đọc Từ khóa: Dữ liệu; Số hóa; Chuyển đổi số; Hiệu quả. 1. GIỚI THIỆU Chủ đề “thư viện số” đã xuất hiện rộng rãi trong các cuộc tranh luận về thư viện ngay từ những năm 1990, mặc dù cụm từ này đã được sử dụng (ít nhất là từ những năm 1970) chủ yếu để mô tả các bộ sưu tập được số hóa về nội dung lịch sử hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà không có hạn chế liên quan bản quyền. Các thư viện hàn lâm đã hoàn thành quá trình số hóa từ những năm 1990 đến đầu những năm 2000 và trong một số lĩnh vực (đặc biệt là trong các tạp chí thuộc lĩnh vực STEM), họ đã tiến hành số hóa triệt để bằng cách làm gián đoạn hoàn toàn việc in giấy của các tạp chí. Mặt khác, mức độ số hóa các nguồn tài liệu học thuật trong khoa học xã hội và nhân văn và đặc biệt trong lĩnh vực chuyên khảo thấp hơn rất nhiều: ở đây thế giới học thuật về * Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Phenikaa. ** Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội. *** Tiến sĩ, Trường Đại học Công nghiệp. 764 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM cơ bản vẫn là hai phương thức (cả số và tương tự) nếu không nói là chủ yếu tương tự. Giai đoạn 2011-2020 nền kinh tế thế giới chứng kiến nhiều xu thế phát triển mạnh mẽ dựa trên công nghệ thông tin, điện tử viễn thông trong đó nổi bật là xu thế xã hội, di động, phân tích dữ liệu và điện toán đám mây - SMAC (Social, Mobility, Data analytic, Cloud). Nền kinh tế cũng được tổ chức lại với các mô hình kinh doanh dựa trên các công nghệ này. Nhiều khái niệm về mô hình kinh tế như kinh tế tri thức, kinh tế Internet, kinh tế số đã xuất hiện. Cuối những năm của thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) cùng với hàng loạt các xu thế công nghệ mới đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức. Trong thế giới kỹ thuật số, con người, quy trình và mọi thứ siêu liên kết với nhau. Chắc chắn rằng kỹ thuật số trao quyền cho mọi người nhưng nó cũng làm gián đoạn các doanh nghiệp lâu đời bao gồm những tổ chức giáo dục cấp cao [1-3]. Công nghệ kỹ thuật số đang định hình lại bản chất của giáo dục đại học. Vai trò của các trường đại học đang được xác định lại trong xã hội số. Các trường đại học không chỉ được coi là cơ quan trao bằng cho người học, đó còn là nơi truyền đạt kiến thức vì lợi ích của kiến thức, chuẩn bị cho sinh viên việc làm và trách nhiệm với xã hội. Các trường đại học cũng như bất kỳ các doanh nghiệp đều đang cạnh tranh trên toàn cầu để thu hút sinh viên qua danh tiếng về học thuật và kinh phí học tập. Chỉ những trường đại học tận dụng sức mạnh của kỹ thuật số và đưa vào chuyển đổi kỹ thuật số tập trung sẽ tồn tại trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Chúng ta đã thấy những nhân tố mới trên thị trường như Amazon, Uber, Airbnb, v.v. đã làm gián đoạn các doanh nghiệp lâu đời và đi tắt đón đầu bằng cách tận dụng sức mạnh của kỹ thuật số kết hợp với chuyên môn kinh doanh của họ và thông tin chi tiết về khách hàng. Tương tự, các trường đại học đang bị gián đoạn bởi những phát triển như giáo dục mở, khóa học trực tuyến mở, OERs (Tài nguyên giáo dục mở), v.v. Sự phát triển nhanh chóng trong giáo dục trực tuyến làm cho cơ hội học tập phong phú hơn, rẻ hơn [4-5]. Các nhà cung cấp 765 SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN mới như Pearson Education, và Khan Academy đang cung cấp chương trình giáo dục được cá nhân hóa đến từng học sinh. YouTube đã trở thành nền tảng kỹ thuật số lớn nhất để học tập của mọi lứa tuổi. Trên toàn cầu, nhiều các trường đại học truyền thống đang bắt đầu có những hành động đáp ứng lại những thách thức và sự phát triển để số hóa trường đại học. Điều này đòi hỏi kỹ thuật số được lập kế hoạch tốt chiến lược bao gồm khuôn khổ chuyển đổi kỹ thuật số trong đó tất cả những người chơi chính và các bên liên quan có thể đóng một vai trò tích cực trong việc định hình trường đại học phát triển mạnh mẽ trong thời đại kỹ thuật số. Thư viện được coi là nơi chấp nhận sớm nhất công nghệ mới và sẽ tạo xu hướng cho các trường đại học [4-7]. Thư viện trong các trường đại học sẽ có một vai trò cốt yếu có thể trở thành tấm gương về chuyển đổi số tại các trường đại học của họ (minh họa hình 1). Trong thực tế, thư viện trong các trường đại học chỉ là một trong những loại hình thư viện kỹ thuật số hiện nay. Chúng ta có thể tạm chia thành bốn loại chính như sau: • Thư viện học thuật (thường chỉ sinh viên và cán bộ giảng dạy của một trường đại học mới có thể truy cập được tại chỗ hoặc từ xa thông qua internet). Thư viện loại này cho phép truy cập vào các tạp chí khoa học, giáo trình, sách chuyên khảo học thuật và cơ sở dữ liệu chuyên nghiệp. • Thư viện bảo tồn: cung cấp quyền truy cập vào các bộ sưu tập lịch sử được số hóa của họ. • Thư viện công cộng: là những thư viện có số lượng người dùng cao nhất cung cấp quyền truy cập vào các gói nội dung thương mại được nhiều người quan tâm hơn như báo và tạp chí định kỳ, sách nói, sách điện tử, âm nhạc, phim ảnh,.. • Thư viện trường học thường cung cấp nội dung số rất giống với nội dung cho thư viện công cộng, có thể lọc hoặc chọn nội dung theo cấp trường. 766 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Hình 1. Mô hình thư viện 4.0 tại ĐHQGHN (Nguồn: lic.vnu.edu.vn) (Thư viện thông minh 4.0: Công nghệ - Dữ liệu - Con người) 2. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ Trước đây, các thư viện giữ hồ sơ trên giấy. Cho dù viết tay vào sổ cái hoặc nhập vào tài liệu, dữ liệu sách là tương tự. Nếu thủ thư muốn thu thập hoặc chia sẻ thông tin, họ xử lý các tài liệu vật lý – giấy tờ và các con dấu, máy in xeroxes và fax. Sau đó, máy tính trở thành xu hướng và hầu hết các thư viện bắt đầu chuyển đổi tất cả các bản ghi trên giấy sang các tệp máy tính kỹ thuật số. Đây được gọi là số hóa (Digitization): quá trình chuyển đổi thông tin từ analog ở thế giới thực sang kỹ thuật số. Đây có thể được gọi là bước tin học hóa, là một thành phần của quá trình chuyển đổi số. Việc tìm kiếm và chia sẻ thông tin trở nên dễ dàng hơn nhiều khi nó đã được số hóa, nhưng cách thức mà các thư viện sử dụng các bản ghi kỹ thuật số mới của họ phần lớn bắt chước các phương pháp tương tự cũ. Các hệ điều hành máy tính thậm chí còn được thiết kế xung quanh các biểu tượng của các thư mục tệp để cảm thấy quen thuộc và ít đáng sợ hơn với người dùng mới. Dữ liệu số giúp cho các thư viện vận hành hiệu quả hơn theo cấp số nhân so với trước đây, nhưng các hệ thống và quy trình quản lý vẫn được thiết kế chủ yếu xoay quanh các ý tưởng thời đại tương tự về cách tìm, chia sẻ và sử dụng thông tin. 767 SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN Quy trình sử dụng thông tin đã được số hóa để làm cho các cách thức hoạt động đơn giản và hiệu quả hơn được gọi là Digitalization. Lưu ý từ được thiết lập trong định nghĩa đó: Digitalization không phải là về việc thay đổi cách bạn vận hành thư viện mới hay tạo ra các loại hình thư viện mới. Đó là về việc tiếp tục, nhưng nhanh hơn và tốt hơn là dữ liệu của bạn có thể truy cập ngay lập tức và không bị kẹt trong tủ tệp ở đâu đó trong kho lưu trữ bụi. Digitalization thay đổi dịch vụ thư viện bằng cách làm cho hồ sơ sách/giáo trình hay hồ sơ bạn đọc dễ dàng và nhanh chóng có thể truy xuất thông qua máy tính. Khi công nghệ kỹ thuật số phát triển, mọi người bắt đầu tạo ra ý tưởng sử dụng công nghệ theo những cách mới, và không chỉ để làm những việc cũ nhanh hơn. Đây là khi ý tưởng về Chuyển đổi số (Digital Transformation) bắt đầu hình thành. Với các công nghệ mới, những điều mới – và cách thức mới để thực hiện chúng. Hình 2: Từ số hóa sang chuyển đổi số1 3. MỘT SỐ LIÊN HỆ TẠI VIỆT NAM 3.1. Hiện trạng và kế hoạch phát triển Chuyển đổi số được xem là mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp dạy - học. Một ví dụ về thư viện học thuật theo cách phân loại trong mục 1 đó là Thư viện số tại Trung tâm Thông tin – Thư viện, ĐHQGHN (VNU-LIC) 1 Smartfactoryvn.com 768 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM thuộc loại thư viện học thuật. Đây là thư viện chuyển đổi số, được đầu tư hạ tầng hiện đại và tự động trong tất cả các khâu. Người dùng có thể dễ dàng tìm sách, mượn sách, yêu cầu tài liệu chỉ với chiếc điện thoại thông minh. VNU-LIC có vai trò xây dựng và phát triển học liệu số phục vụ cho toàn bộ ĐHQGHN. VNU-LIC 4.0 sẽ định hướng phát triển 3 mô hình Trung tâm Tri thức số, Trung tâm học tập số, Trung tâm nghiên cứu số để làm nền tảng phát triển VNU 4.0 và 3 mô hình này sẽ tác động lớn đến quản lý, nghiên cứu, giảng dạy, học tập, tiếp nhận tri thức của toàn bộ ĐHQGHN trong tương lai [7-10]. Có thể thấy sự phát triển Digitization- Digitalization- Digital Transformation có thể được thể hiện qua các dữ kiện sau [11]: 2014: Thư viện số 1.0 (Digital Library 1.0): Số hoá và quản trị tài nguyên nội sinh ĐHQGHN. 2018: Thư viện số nghiên cứu 2.0 (Digital Research Library 2.0): Tích hợp tri thức số nội sinh ĐHQGHN với hệ tri thức học thuật toàn cầu qua hệ thống tìm kiếm thông minh URD2 2019: Thư viện Thông minh 4.0 (Smart Library 4.0): Phát triển công nghệ di động, dữ liệu lớn, kết nối vạn vật, truy cập và sử dụng tài nguyên số thư viện số Bookworm qua smartphone 2020-2025: Trung tâm Tri thức số VNU-LIC 4.0 (Digital Knowledge Hub): Người dùng có khả năng truy cập, tìm kiếm, sử dụng và đọc toàn bộ tri thức số của nhân loại, tạo nên hệ sinh thái nghiên cứu – đào tạo ĐHQGHN đồng bộ hoá với hệ sinh thái nghiên cứu của nhân loại. Thư viện Đa điểm (Multi – Location Library để phát triển mạng lưới thư viện chi nhánh tới toàn bộ các Trường – Khoa ĐHQGHN, phát triển văn hoá đọc toàn diện mọi lúc – mọi nơi. (Nguyễn Hoàng Sơn, 2020, Chuyển đổi từ thư viện số thành trung tâm trí thức số) Một ví dụ về thư viện trường học theo cách phân loại trong mục 1 là thư viện ở một số trường học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hưởng ứng chiến dịch “Chuyển đổi số để học tập suốt đời” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, năm nay nhiều trường học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. 769 SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN HCM) đã thực hiện quá trình chuyển đổi số cho thư viện của mình, với hy vọng mang đến một kênh học tập cho học sinh, sinh viên. Có những học sinh thường xuyên dành 1-2 tiếng mỗi tuần để đọc sách số trong thư viện. So với phiên bản giấy truyền thống, loại mới có thể cung cấp nhiều màu sắc và thông tin cập nhật hơn. Ngoài ra, với cơ sở vật chất mới, việc tìm kiếm thông tin hiện nay nhanh chóng hơn rất nhiều. Tại trường Tiểu học Đống Đa, mô hình thư viện thông minh ở trường thuộc dự án “Xây dựng trường học theo phong cách hiện đại”. Tổng chi phí cho mô hình này gần 1 tỷ đồng (khoảng 43.000 USD), chủ yếu chi cho 30 máy tính bảng, 6 máy tính để bàn, 3 thư viện tương tác phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu của cả học sinh và giáo viên nơi đây. So với tìm kiếm thông tin thông thường, sử dụng phiên bản kỹ thuật số nhanh hơn nhiều trong khi kết quả hữu ích hơn. Thành phố Hồ Chí Minh đã có kế hoạch đầu tư xây dựng mô hình thư viện này tại 17 trường THPT thông qua chương trình kích cầu đầu tư của thành phố, trong đó các trường này được cho vay tối đa 100 tỷ đồng (4.32 triệu USD) với lãi suất thấp hơn trong vòng không quá 7 năm. Có thể thấy sự đầu tư cho các thư viện trường học còn thấp, những khoản tiền này chỉ có thể đảm bảo đủ cơ sở hạ tầng để phục vụ số lượng học sinh ngày càng tăng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc nhờ cộng đồng giúp đỡ về tài chính là một trong những cách hiệu quả và hợp lý để cải thiện cơ sở vật chất giáo dục hiện nay trong các trường học để người học có điều kiện tiếp xúc với công nghệ hiện đại trong quá trình học tập. 3.2. Một số gợi ý cho thư viện khi chuyển đổi số a) Quản lý dữ liệu nghiên cứu Quản lý dữ liệu nghiên cứu (RDM) được định nghĩa là việc “tổ chức dữ liệu, từ khi nhập dữ liệu đến chu trình nghiên cứu thông qua việc phổ biến và lưu trữ kết quả ” [13]. Dữ liệu mở và thực tiễn quản lý dữ liệu nghiên cứu khá tốt là ưu điểm đang được đánh giá cao tại Vương quốc Anh. Nhiều quỹ nghiên cứu hàng đầu của Vương quốc Anh đã đưa ra yêu cầu về quản lý và chia sẻ dữ liệu như một phần của điều kiện về phê duyệt dự án. 770 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Có thể thấy dữ liệu có thể được sử dụng lại cho các môn học liên ngành, học tập và khám phá tri thức mới. Việc làm này sẽ tiết kiệm thời gian và nỗ lực để thu thập dữ liệu mới. Các thư viện đã đi đầu trong việc tạo các chính sách quản lý dữ liệu và các dịch vụ liên quan để đáp ứng các yêu cầu của hội đồng nghiên cứu và thúc đẩy dữ liệu nghiên cứu trong trường đại học. Các thủ thư học thuật xem xét RDM là hoạt động quan trọng nhất của họ. Các thủ thư học thuật đã điều phối chính sách RDM của trường đại học để tuân thủ các yêu cầu của cơ quan tài trợ. Họ cũng đưa ra lời khuyên về cách trích dẫn dữ liệu, đăng ký với các dịch vụ datacite, trao đổi với các công ty dịch vụ siêu dữ liệu để ghi lại nội dung dữ liệu nghiên cứu, cung cấp Đào tạo RDM cho sinh viên, nhà nghiên cứu, cung cấp tư vấn về IPR, bản quyền & cấp phép dữ liệu, cung cấp hỗ trợ truy xuất các nguồn dữ liệu bên ngoài, đưa ra lời khuyên về phân tích dữ liệu v.v. b) Vai trò chủ động trong Truyền thông/Xuất bản học thuật Công nghệ kỹ thuật số tiếp tục biến đổi môi trường học thuật. Hiệp hội các trường cao đẳng & Thư viện nghiên cứu (ACRL) xác định trao đổi học thuật là một hệ thống mà thông qua đó các nghiên cứu và bài viết được đánh giá bởi các đồng nghiệp về chất lượng, phổ biến cho cộng đồng học giả và được lưu giữ để sử dụng trong tương lai. Việc công bố các nghiên cứu khoa học bắt đầu vào khoảng năm 1665 miễn phí chứ không phải là hàng hóa. Tuy nhiên nó dần mở quyền truy cập, chuyển vào tay các nhà xuất bản thương mại và trở thành một mặt hàng đắt tiền sinh lời. Hiện nay có 2 hình thức chính hoặc là thu tiền của người đọc, hoặc là thu tiền của các tác giả [14]. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của xuất bản kỹ thuật số, hình thức học thuật giao tiếp đang trở lại trong tay các nhà khoa học và các thư viện. Các thư viện có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường tích hợp, khả năng phối hợp giữa các hệ thống đại học, quốc gia/xuất bản kỹ thuật số quốc tế,... để tạo điều kiện cho việc xuất bản mở chuyên khảo truy cập (không thu tiền của độc giả hay người đọc). Nhiều trường đại học đang đóng cửa các nhà in tại các trường đại học và xuất bản điện tử được trao cho các thư viện. 771 SỐ HOÁ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN c) Đào tạo học thuật Thư viện có thể bắt đầu tuyển dụng một giống thủ thư mới: truyền thông học thuật, dữ liệu, v.v. Vai trò chính của những thủ thư này là giáo dục, nâng cao nhận thức và kỹ năng cho các nhà nghiên cứu và nhân viên mới. Họ sẽ đào tạo về xuất bản truy cập mở, quản lý dữ liệu nghiên cứu & kế hoạch dữ liệu, quản lý luận án, công cụ hỗ trợ cho các tác giả, truy xuất tài liệu học thuật bao gồm truy xuất dữ liệu, đo lường tác động của nghiên cứu thông qua kỹ thuật số, quản lý tài liệu tham khảo, đào tạo trong phân tích dữ liệu, trực quan hóa dữ liệu, sử dụng thao tác dữ liệu phần mềm như SPSS, STATA, R, NVIVO, Dedoose, v.v. [15]. 4. KẾT LUẬN Lịch sử của việc sử dụng các công nghệ xử lý thông tin tự động và cụ thể hơn là công nghệ số trong thư viện là vô cùng lâu dài và phức tạp. Bài viết đề cập tới việc chuyển đổi số (Digital Transformation) và những bước chuyển đổi tiến tới chuyển đổi số của các thư viện hiện nay. Bài viết cũng thảo luận về ba gợi ý trong công cuộc chuyển đổi số của thư viện đó là: Quản lý dữ liệu nghiên cứu, Vai trò chủ động trong Truyền thông / Xuất bản học thuật, Đào tạo học thuật. Nếu có thể tiến hành hiệu quả, các hoạt động này sẽ tăng hiệu quả, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho người dùng dịch vụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Teece, D. J. (2017), Dynamic capabilities and (digital) platform lifecycles. In Entrepreneurship, innovation, and platforms. Emerald Publishing Limited. 2. Cox, A. M., & Pinfield, S. (2014), Research data management and librar- ies: Current activities and future priorities. Journal of librarianship and information science, 46(4), 299-316. 3. Hiom, D., Fripp, D., Gray, S., Snow, K., & Steer, D. (2015), Research data management at the University of Bristol Charting a course from proj- ect to service. Program-electronic library and information systems, 49(4), 475-493. 772 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 4. Lippincott, J., Vedantham, A., & Duckett, K. (2014), Libraries as enablers of pedagogical and curricular change. EDUCAUSE Rev [Internet], 27. 5. Lippincott, J. K. (2015), Libraries and the digital university. College & Re- search Libraries, 76(3), 283-295. 6. Nguyen, Thi Hien and Nguyen, Thi Thu and Tran, Thi Thuy Quynh and Tran, Duc Tan (2018), Khai thác dữ liệu người dùng đóng góp giúp nâng cao hiệu quả thực thi phần mềm. In: Tối ưu quản trị tri thức số. NXB ĐHQGHN, pp. 172-182. ISBN 978-604-9848-28-5. 7. Nguyen Thi, Hien and Tran Thi Thuy, Quynh and Tran Duc, Tan (2018), Định vị thông minh giúp nắm bắt thị hiếu người đọc. In: Thư viện thông minh trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, 2018 October 27, Ho Chi Minh city, Viet nam. 8. Pasquale F. The black box society: The secret algorithms that control money and information.Harvard University Press, 2015doi:10.4159/har- vard.9780674736061. 9. European Union. General Data Protection Regulation.Offical Journal of the European Union, 2018. 10. Bookworm, Giải pháp lưu thông tài liệu điện tử Libol Bookworm, www. vtv.vn, truy cập 20/06/2020. 11. Nguyễn Hoàng Sơn, Chuyển đổi từ thư viện số thành Trung tâm Tri thức số, https://lic.vnu.edu.vn/, truy cập 20/06/2020. 12. TP. Hồ Chí Minh ứng dụng chuyển đổi số trong thư viện trường học, https://sggpnews.org.vn, truy cập 20/10/2020. 13. Corrall, S., Kennan, M. A., & Afzal, W. (2013). Bibliometrics and research data management services: Emerging trends in library support for re- search. Library trends, 61(3), 636-674. 14. Piwowar, H., Priem, J., Larivière, V., Alperin, J. P., Matthias, L., Norlander, B.,... & Haustein, S. (2018). The state of OA: a large-scale analysis of the prevalence and impact of Open Access articles. PeerJ, 6, e4375. 15. Paulus, T. M., & Lester, J. N. (2020). Using software to support qualita- tive data analysis. In Handbook of Qualitative Research in Education. Edward Elgar Publishing.
File đính kèm:
- so_hoa_va_chuyen_doi_so_trong_hoat_dong_thu_vien.pdf