Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam
Quản trị tri thức đang là một xu hướng rất phổ biến
ở các nước phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội
như kinh tế, chính trị, giáo dục, quốc phòng . Về lĩnh vực giáo
dục đại học, Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập lớn, chất lượng
giáo dục đại học đang ở mức thấp hơn so với yêu cầu phát triển
kinh tế và xã hội của đất nước. Việc nghiên cứu để ứng dụng các
mô hình quản trị mới đáp ứng nhu cầu đổi mới hệ thống giáo
dục đại học đang ngày càng trở nên cấp thiết. Trong nghiên cứu
này, tác giả tập trung vào việc phân tích tổng quan về quản trị tri
thức trong trường đại học và đưa ra một số khuyến nghị cho các
trường đại học trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo
và nghiên cứu khoa học.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam
QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM Lê Đình Bình1* Tóm tắt: Quản trị tri thức đang là một xu hướng rất phổ biến ở các nước phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội như kinh tế, chính trị, giáo dục, quốc phòng. Về lĩnh vực giáo dục đại học, Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập lớn, chất lượng giáo dục đại học đang ở mức thấp hơn so với yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Việc nghiên cứu để ứng dụng các mô hình quản trị mới đáp ứng nhu cầu đổi mới hệ thống giáo dục đại học đang ngày càng trở nên cấp thiết. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào việc phân tích tổng quan về quản trị tri thức trong trường đại học và đưa ra một số khuyến nghị cho các trường đại học trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra những dấu ấn quan trọng trong lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội. Dưới sự tác động của khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất xã hội đã có những bước phát triển mạnh, tạo ra một xu hướng mới mà ở đó tri thức, đặc biệt là tri thức khoa học và công nghệ ngày càng đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới: từ kinh tế công nghiệp truyền thống sang kinh tế tri thức, đây * Nghiên cứu sinh, Viện Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội - Thạc sĩ, Ban Tổ chức Cán bộ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 172 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM được xem là một xu hướng phát triển chủ đạo của thế giới trong thế kỷ XXI. Các tổ chức, doanh nghiệp (DN) chịu sức ép phải không ngừng đổi mới, sáng tạo trong sản phẩm, dịch vụ và quy trình sản xuất kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Các nhà quản trị phải suy nghĩ cách thức quản lý mới bởi quản lý bằng mệnh lệnh và sự kiểm soát chặt chẽ người lao động trong quy trình sản xuất đã không phù hợp trong môi trường sáng tạo năng động. Khi tri thức trở nên quan trọng hơn vốn, lao động và tài nguyên trong việc cấu thành giá trị kinh tế, người ta nghĩ tới đối tượng trọng tâm mới của hoạt động quản trị, đó là quản trị tri thức. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam nghiên cứu về quản trị đại học như Phạm Thị Ly (2008); Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013), Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu các nhân tố vĩ mô như cơ chế chính sách. Có rất ít các nghiên cứu tiếp cận theo hướng quản trị hoạt động, nghiên cứu chuyên sâu vào từng quá trình hoạt động trong trường đại học. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về quản trị đại học theo hướng tiếp cận nhìn nhận trường đại học như một doanh nghiệp. Thông qua góc nhìn về quản trị hoạt động, các phương pháp quản trị khoa học của doanh nghiệp như quản trị tri thức, quản trị chất lượng tổng thể, Balanced Scorecard, quản trị mục tiêu,... đã được nghiên cứu áp dụng thành công tại các trường đại học trên thế giới. Quản trị tri thức (sau đây gọi tắt là QTTT) đã và đang được nghiên cứu, áp dụng thành công tại rất nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới, đặc biệt là tại Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Các trường đại học trên đang áp dụng thành công QTTT vào các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức nhằm tối ưu hóa các nguồn lực bao gồm con người, tài chính và hệ thống cơ sở vật chất. Một số nghiên cứu cho thấy có một mối quan hệ tích cực giữa các hoạt động QTTT đến việc cải thiện hiệu quả của tổ chức, việc QTTT có ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và năng lực lãnh đạo này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của tổ chức (Francisco Javier Lara, 2008). Như vậy, 173 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM thực hiện tốt việc QTTT trong tổ chức sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn cho tổ chức của mình. Tại các trường đại học tại Việt Nam, việc thực hiện QTTT còn rất hạn chế, rất ít trường đại học quan tâm đến việc thực hiện quản trị tri thức, điều đáng nói ở đây là các trường đại học chưa am hiểu một cách rõ ràng và chưa có nhận thức đầy đủ về tác động của hoạt động QTTT đến kết quả hoạt động của tổ chức, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động QTTT trong các trường đại học. Trong bối cảnh này, việc nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng cũng như thấy được những tác động tích cực của hoạt động QTTT đối với kết quả hoạt động của trường đại học là điều tối quan trọng. Về thực tiễn, trong môi trường cạnh tranh giáo dục toàn cầu, các trường đại học cần có động lực mạnh mẽ để trở thành các tổ chức học hỏi năng động, tích cực và phát triển hoạt động học hỏi ở cấp độ tổ chức để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Việt Nam đang đổi mới giáo dục đại học theo định hướng tự chủ và trách nhiệm giải trình để cải thiện chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội theo hướng phát ... khảo sát dựa trên bảng câu hỏi đã được sử dụng để thu thập dữ liệu về thái độ và ý định của các nhà khoa học trong trường đại học tại Vương Quốc Anh đối với việc chia sẻ kiến thức và các yếu tố liên quan, bao gồm các chế độ đãi ngộ và tổ chức học tập, niềm tin vào lãnh đạo, cơ cấu tổ chức, tự chủ, kỷ luật, và nền tảng công nghệ. Kết quả được thu nhận từ phản hồi của 230 nhà khoa học ở 11 trường đại học. Các nhà khoa học tham gia khảo sát có thái độ tích cực đối với việc chia sẻ kiến thức và đánh giá cao việc chia sẻ tri thức. Điều này có thể liên quan đến niềm tin của họ rằng chia sẻ tri thức sẽ giúp cải thiện và mở rộng mối quan hệ của họ với các đồng nghiệp, và cung cấp cơ hội để thăng tiến. Đồng thời, họ tương đối trung lập về các yếu tố lãnh đạo, cơ cấu tổ chức và công nghệ thông tin trong chia sẻ kiến thức. Tác giả M. Sadiq Sohail và Salina Daud (2009) nghiên cứu về “Chia sẻ tri thức trong các tổ chức giáo dục đại học: thành tựu từ các trường đại học tại Malaysia”. Nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra và đánh giá các yếu tố tác động và rào cản trong việc chia sẻ tri thức thành công trong đội ngũ giảng viên đại học. Dựa trên các khái niệm và cách thức chia sẻ tri thức trong tổ chức, nghiên cứu chỉ ra các yếu tố liên quan đến việc chia sẻ tri thức như văn hóa, môi trường làm việc, thái độ 184 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM của nhân viên, động lực để chia sẻ và cơ hội để chia sẻ tri thức. Một mô hình được phát triển cho nghiên cứu và các giả thuyết được đưa ra. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát các giảng viên từ các trường đại học công lập và tư thục ở Malaysia. Kết quả nghiên cứu cung cấp những hiểu biết hữu ích cho quản trị của các tổ chức giáo dục đại học trong việc cung cấp các cách thức để tăng cường chia sẻ kiến thức giữa các giảng viên. Dựa trên nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu cho thấy một số kết quả tương phản. Đối với mẫu được rút ra từ đội ngũ giảng viên thuộc các trường đại học công lập, có một mối quan hệ đáng kể giữa chia sẻ kiến thức và các yếu tố độc lập được đề cập trước đó. Kết quả mẫu từ giảng viên nhân viên trong các trường đại học tư không cho thấy mối quan hệ như vậy. Ở Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Thắng (2014) về "Lý thuyết sáng tạo tri thức của Nonaka và các ứng dụng trong các tổ chức công cộng ở Việt Nam" đã chỉ ra rằng: Việc chia sẻ kiến thức có tác động trực tiếp đến kết quả công việc của nhân viên trong các tổ chức công lập tại Việt Nam. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Văn Thắng cho rằng việc hội nhập, đào tạo nhân viên mới sẽ giúp gia tăng chia sẻ kiến thức trong tổ chức, từ đó nâng cao năng suất làm việc của đội ngũ nhân viên. Những kết luận này là cơ sở với kỳ vọng rằng, việc tìm ra những tác động cụ thể của quản trị tri thức tới kết quả hoạt động của trường đai học sẽ giúp đề xuất những giải pháp để thúc đẩy quản trị tri thức và nâng cao chất lượng trường đại học. Nghiên cứu của nhóm tác giả Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Ngọc Thắng và Nguyễn Đăng Minh (2015) về “Ảnh hưởng của các khía cạnh tổ chức và công nghệ tới hành vi chia sẻ tri thức trong các trường đại học của Việt Nam” tập trung vào ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa tổ chức, phong cách lãnh đạo, hoạt động quản trị nguồn nhân lực, hỗ trợ công nghệ và nhu cầu công việc tới việc chia sẻ tri thức trong các trường đại học ở Việt Nam. Nghiên cứu này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa, khen thưởng và hành vi chia sẻ tri thức của các cá nhân trong trường đại học, đồng thời khẳng định vai trò của phong cách lãnh đạo 185 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM và các hỗ trợ công nghệ đối với hành vi chia sẻ tri thức của các cá nhân trong các trường đại học. Nghiên cứu của tác giả Trần Quang Huy (2016) về “Mối quan hệ giữa học hỏi của tổ chức và kết quả hoạt động trong các trường đại học công lập tại Việt Nam” đã cho thấy, trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam theo định hướng tự chủ, việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu là rất cần thiết. Nghiên cứu đã khẳng định học hỏi của tổ chức là một trong các yếu tố quan trọng thúc đẩy kết quả hoạt động vượt trội. Nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Bích Ngọc (2016) về “Học tập tổ chức ở các tổ chức giáo dục: nghiên cứu trường hợp đại học công lập tại Việt Nam” chỉ ra tác động của sự tham gia của nhân viên đến quá trình học tập của trường đại học. 3. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG QUẢN TRỊ TRI THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức thì quản trị tri thức là vấn đề của các tổ chức và trở thành mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một tổ chức nào. Tuy nhiên ở nước ta, trong lĩnh vực giáo dục đại học, quản trị tri thức còn khá mới mẻ đối với các trường đại học, nơi thực hiện vai trò hàng đầu trong nghiên cứu, kiến tạo và truyền bá tri thức. Cùng với sự hỗ trợ mạnh mẽ của các công nghệ mới do cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các trường đại học của Việt Nam hơn lúc nào hết đang đứng trước cơ hội vươn tới các hoạt động quản trị tri thức hiệu quả. Theo Kimiz Dalkir (2005), ứng dụng quản trị tri thức để mở rộng hoạt động của mình đang là xu thế ở nhiều nước trên thế giới, trong tất cả các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các trường đại học. Trong hệ thống giáo dục ở nước ta hiện nay, trường đại học có nhiều khả năng và thuận lợi trong ứng dụng quản trị tri thức: Một là, trường đại học có hệ thống tài liệu (trong thư viện) bao gồm những tài liệu chuyên sâu về các ngành khoa học và kỹ thuật, có hàm lượng tri thức cao. Trường đại học cũng là nơi triển khai nghiên cứu, 186 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM quản lý nguồn tri thức được tạo ra từ hoạt động đào tạo và nghiên cứu của nhà trường. Đó là các công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên, sinh viên, các luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu sinh. Theo Leda Bultrini & ctg (2016), nhiều kết quả khảo sát đã khẳng định rằng tri thức được sản sinh ra thông qua các hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học chiếm một phần lớn trong cơ sở tri thức của mỗi quốc gia. Có thể nói, trường đại học là một nơi sở hữu nguồn tài nguyên tri thức rất có giá trị. Do đó, quản trị và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên này đang là vấn đề trực tiếp đặt ra đối với các trường đại học. Hai là, trường đại học không chỉ là nơi cung cấp và phổ biến thông tin/ tri thức mà còn là nơi gặp gỡ, trao đổi và chia sẻ thông tin/ tri thức giữa các nhà nghiên cứu, các nhà chuyên môn, các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên. Ba là, trường đại học có nguồn nhân lực chất lượng cao với các nhà khoa học trình độ cao là đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Người làm việc tại trường đại học là những người được đào tạo, có trình độ chuyên môn và kỹ năng tốt, có điều kiện tiếp xúc với tri thức mới và công nghệ mới. Quản trị tri thức trong trường đại học lấy yếu tố nhà khoa học (giảng viên, nghiên cứu viên) làm trung tâm, do vậy đây là cơ sở thuận lợi để trường đại học tiếp cận các công cụ của quản trị tri thức và ứng dụng quản trị tri thức. Bốn là, trường đại học thường được ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, bao gồm cả các thiết bị phần cứng và các phần mềm ứng dụng phục vụ cho công tác nghiên cứu và đào tạo. Đây là thuận lợi rất quan trọng vì sự vận hành của các chu trình quản trị tri thức chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ bởi các công cụ của công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là các phần mềm ứng dụng trong sáng tạo, quản lý và phổ biến tri thức. 4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ QUẢN TRỊ TRI THỨC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA VIỆT NAM Trong nền kinh tế tri thức và xu thế tự chủ đại học, giá trị của trường đại học không còn nằm ở tài sản hữu hình mà ẩn chứa trong tài sản tri 187 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM thức. Các trường đại học cần ứng dụng quản trị tri thức để tăng tính hiệu quả hoạt động, tạo lợi thế trong bối cảnh cạnh tranh giữa các đại học. Ở Việt Nam, khái niệm quản trị dựa vào tri thức còn tương đối mới mẻ và chưa được trường đại học và xã hội nhận thức đầy đủ. Vì vậy, để có thể áp dụng quản trị tri thức cho các trường đại học, các nhà lãnh đạo/ quản lý của các trường đại học cần phải nhận thức và xác định: (1) Yếu tố con người đóng vai trò quan trọng và tiên quyết trong quá trình sáng tạo tri thức. (2) Các tri thức mới thường được phát sinh trong quá trình làm việc. (3) Triết lý, tầm nhìn và sự ủng hộ của lãnh đạo đóng vai trò quyết định đối với việc tạo ra tri thức mới trong các trường đại học. Những nhận thức này sau đó cần được lãnh đạo nhà trường chuyển hóa thành các hành động cụ thể sau: - Hình thành và bổ sung chiến lược phát triển trường đại học dựa trên tri thức, từ đó xây dựng văn hóa trường đại học định hướng quản trị dựa vào tri thức nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, hành chính phục vụ tham gia vào môi trường sáng tạo và chia sẻ tri thức. - Xây dựng hệ thống và quy trình chia sẻ thông tin, tri thức trong các trường đại học, tăng cường các kỹ năng chia sẻ thông tin, tri thức cho cán bộ, chuyên viên, giảng viên và sinh viên/học viên. Tạo điều kiện cho sinh viên/học viên có thể tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, đồng thời hợp tác, hỗ trợ người học trong việc chia sẻ kiến thức nhằm thúc đẩy quá trình hình thành quản trị tri thức. - Trong thời gian tới, vận dụng các lợi thế công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại, đẩy mạnh phát triển các thư viện đại học để thư viện đại học không chỉ là Trung tâm Thông tin - Thư viện mà còn trở thành Trung tâm Quản trị tri thức số, không chỉ phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường đại học, mà còn có thể mở rộng hoạt động của mình ra xã hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của các tổ chức và doanh nghiệp. 188 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM - Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên cho giảng viên, đặc biệt là đào tạo nội bộ, người có kinh nghiệm đào tạo, hướng dẫn cho người mới; chú trọng việc đào tạo các kỹ năng cho giảng viên trong bối cảnh đổi mới hoạt động giảng dạy. - Tăng cường nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật, công nghệ và đổi mới hoạt động giảng dạy, phục vụ người học. Khuyến khích và tăng tính tự chủ trong các hoạt động sáng tạo tri thức bên trong các trường đại học. - Đẩy mạnh đào tạo và nghiên cứu liên ngành để tăng cường chia sẻ và sáng tạo tri thức. - Thành lập các doanh nghiệp khoa học công nghệ để tăng cường thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học. Có thể thành lập các công ty khởi nghiệp do chính nhà khoa học đồng sở hữu với cơ quan nghiên cứu theo mô hình công ty spin-off (university spin-off company hoặc technology spin-off company). TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Đặng Thị Việt Đức & Nguyễn Thu Hương (2016), Quản trị tri thức trong doanh nghiệp, NXB Thông tin và truyền thông. 2. Trần Quang Huy và Phạm Thị Bích Ngọc (2016), “Mối quan hệ giữa học hỏi của tổ chức và kết quả hoạt động của trường đại học công lập tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học thương mại, Trường Đại học Thương mại, Số tháng 7/2016, tr. 65-69. 3. Phạm Thị Ly (2008), “Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả - Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo Giáo dục Quốc tế và so sánh Lần thứ 53 tại Carolina, Hoa Kỳ. 4. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013), “Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập. 5. Ngô Kim Thanh (2013), “Quản trị tri thức”, Chương 21, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Tập II, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tr. 641-681. 6. Nguyễn Ngọc Thắng (2011), "Quản trị dựa vào tri thức: kinh nghiệm từ Nhật Bản", Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh doanh, tr.172-178. 189 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM 7. Nguyễn Văn Thắng (2014), Lý thuyết sáng tạo tri thức của Nonaka và các ứng dụng trong các tổ chức công cộng ở Việt Nam. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Tiếng Anh 8. Andreeva, Aino Kianto (2011), “Knowledge processes, knowledge-inten- sity and innovation: a moderated mediation analysis”, Journal of Knowl- edge Management, Vol. 15 Issue: 6, pp.1016-1034. 9. Anh Tuan PHAM, Ngoc Thang NGUYEN, Dang Minh NGUYEN (2015), “Influence of Organisational and Technological aspects on the Knowl- edge Sharing Behavior in the Vietnam’s University Context”, Asian Social Science, Vol. 11, No. 10, pp 139-152. 10. Argote, L. and Ella Miron-Spektor (2011), Organizational learning: From ex- perience to knowledge, Organization Science 22.5, pp.1123-1137. 11. Aurilla Aurelie Bechina Arntzen, Lugkana Worasinchai and Vincent M. Ribie`re, (2009), “An insight into knowledge management practices at Bang- kok University”, Journal of Knowledge Management, Vol. 13 Iss 2 pp. 127-14. 12. Dalkir, K. (2005), Knowledge Management in Theory and Practice. McGill Uni- versity, Montrea. 13. Davenport, T. & Prusak, L. (1998), Working knowledge: How organizations manage what they know? Harvard Business School Press. 14. Deborah Blackman and Monica Kennedy (2009), ”Knowledge manage- ment and effective university governance”, Journal of Knowledge Man- agement, Vol. 13 Iss 6 pp. 547 - 563. 15. Gold, Arvind Malhotra and Albert H Segars (2001), Journal of Manage- ment Information Systems; Summer, No 18, pp. 185. 16. Leda Bultrini, Sally McCallum, Wilda Newman and Julien Sem- péré. Knowledge man- agement in Libraries and Organizations // IFLA Publications. - 2016. - Volume, p.173. 17. Jennifer Rowley (2000), “Is higher education ready for knowledge manage- ment, The International Journal of Educational Management, 14/7, pp.325 - 333. 18. Jing Tian, Yoshiteru Nakamori and Andrzej P. Wierzbicki, (2009),”Knowl- edge management and knowledge creation in academia: a study based on surveys in a Japanese research university”, Journal of Knowledge Man- agement, Vol. 13 Iss 2, pp. 76-92. 19. Nonaka, I., Takeuchi, H. (1995), The knowledge-creating company: howJapa- nese companies create the dynamics of innovation, Oxford University Press, New York. 190 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 20. Pham Thi Bich Ngoc & Tran Quang Huy (2016), "Organizational Learn- ing in higher education institutions: a casestudy of a public university in Viet Nam", Journal of Economics and Development, National Economics University, Vol. 18, No.2, August 2016, pp. 88-104. 21. Roger Fullwood, Jennifer Rowley and Rachel Delbridge, (2013),”Knowl- edge sharing amongst academics in UK universities”, Journal of Knowledge Management, Vol. 17 Iss 1 pp. 123 - 136. Webiste https://lic.vnu.edu.vn.
File đính kèm:
- quan_tri_tri_thuc_va_kha_nang_ap_dung_trong_cac_truong_dai_h.pdf