Quản lý giáo dục số hóa: Nghiên cứu trường hợp thư viện số của trường học thông minh
Trong xã hội hiện đại, tri thức trở thành một loại
sức mạnh, một loại quyền lực đặc biệt mà nhiều
tác giả gọi là “nguồn lực vô hình”, “nguồn vốn vô
hình” (Drucker, 1995), “quyền lực mềm”, “quyền
lực thông minh” (Nye, 2010). Trong giáo dục, tri
thức dưới dạng sách là nhà giáo thứ hai, sau nhà
giáo thứ nhất là thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng
dạy mặt đối mặt với người học (Hùng, 2019b).
Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ Tư (Cách mạng 4.0), tri thức được “số hóa”.
Loại “tri thức số hóa” này trở thành “tài nguyên số”,
“tư bản số” (digital capital) có sức mạnh của loại
quyền lực giải thích thế giới và trở thành lực lượng
biến đổi thế giới một cách nhanh chóng, khó lường.
Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh như vậy, quản lý
giáo dục được số hóa như thế nào và liên quan thế
nào với thư viện trường học thông minh?
Luận điểm cơ bản của bài viết này là tri thức
được số hóa làm thay đổi căn bản cả mục tiêu, nội
dung, hình thức, phương pháp quản lý giáo dục nói
chung và quản trị trường học nói riêng. Tuy nhiên,
trong thực tế quản lý giáo dục vẫn chủ yếu được
nghiên cứu và triển khai theo cách tiếp cận lý thuyết
quản lý dựa vào tri thức chưa số hóa của thế kỷ
trước. Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục đòi hỏi quản lý giáo dục phải đi đầu áp dụng các
thành tựu của số hóa tri thức khoa học để đảm bảo
nâng cao chất lượng giáo dục (Hùng, 2019a). Tình
hình này đặt ra vấn đề cấp thiết phải nghiên cứu về
tri thức số hóa, thể hiện tập trung nhất ở thư viện
số của trường học thông minh và ảnh hưởng của nó
đến quản lý giáo dục tạo thành xu thế “quản lý giáo
dục số hóa”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý giáo dục số hóa: Nghiên cứu trường hợp thư viện số của trường học thông minh
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 52 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ HÓA: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP THƯ VIỆN SỐ CỦA TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH Lê Ngọc Hùnga Bùi Thị Phươngb a Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội Email: lengochung.vnu@gmail.com b Đại học Y tế Công cộng Hà Nội Email: phuongbui.sociology@gmail.com Ngày nhận bài: 20/5/2020 Ngày phản biện: 25/5/2020 Ngày tác giả sửa: 27/5/2020 Ngày duyệt đăng: 8/6/2020 Ngày phát hành: 21/6/2020 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/418 Nghiên cứu trường hợp biến đổi vị thế, vai trò của thư viện trường học thông minh cho thấy, trên thế giới đã xuất hiện “thời đại số hóa” với các loại thư viện số, thư viện thông minh và cả trường học thông minh, lớp học thông minh với đặc trưng là nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ truyền thông hiện đại trên nền tảng mạng. Ở Việt Nam, quản lý giáo dục nói chung và quản trị đại học nói riêng đang đổi mới căn bản, toàn diện, trong đó thư viện được số hóa để trở thành thư viện số cho quản lý giáo dục số hóa. Những đổi mới này giúp đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của người học, người dạy, người quản lý và những người quan tâm tới nghiên cứu, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ khóa: Thư viện số; Trường học thông minh; Quản lý giáo dục số hóa. 1. Mở đầu Trong xã hội hiện đại, tri thức trở thành một loại sức mạnh, một loại quyền lực đặc biệt mà nhiều tác giả gọi là “nguồn lực vô hình”, “nguồn vốn vô hình” (Drucker, 1995), “quyền lực mềm”, “quyền lực thông minh” (Nye, 2010). Trong giáo dục, tri thức dưới dạng sách là nhà giáo thứ hai, sau nhà giáo thứ nhất là thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy mặt đối mặt với người học (Hùng, 2019b). Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (Cách mạng 4.0), tri thức được “số hóa”. Loại “tri thức số hóa” này trở thành “tài nguyên số”, “tư bản số” (digital capital) có sức mạnh của loại quyền lực giải thích thế giới và trở thành lực lượng biến đổi thế giới một cách nhanh chóng, khó lường. Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh như vậy, quản lý giáo dục được số hóa như thế nào và liên quan thế nào với thư viện trường học thông minh? Luận điểm cơ bản của bài viết này là tri thức được số hóa làm thay đổi căn bản cả mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý giáo dục nói chung và quản trị trường học nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tế quản lý giáo dục vẫn chủ yếu được nghiên cứu và triển khai theo cách tiếp cận lý thuyết quản lý dựa vào tri thức chưa số hóa của thế kỷ trước. Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đòi hỏi quản lý giáo dục phải đi đầu áp dụng các thành tựu của số hóa tri thức khoa học để đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục (Hùng, 2019a). Tình hình này đặt ra vấn đề cấp thiết phải nghiên cứu về tri thức số hóa, thể hiện tập trung nhất ở thư viện số của trường học thông minh và ảnh hưởng của nó đến quản lý giáo dục tạo thành xu thế “quản lý giáo dục số hóa”. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Trường học thông minh và thư viện trường học thông minh Trường học thông minh bao gồm cả trường đại học thông minh là thiết chế giáo dục, giảng dạy và học tập có ý thức tự giác, tích cực, chủ động và trí tuệ với việc sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại nhằm phát triển các năng lực thông minh ở người học (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018; Hùng, 2019b, 2019a; Hùng & Phương, 2019). Một yếu tố đặc trưng của trường học thông minh là thư viện số, thư viện thông minh đảm bảo tài nguyên số cho giảng dạy và học tập. Tài nguyên giáo dục số là tất cả các tài nguyên số được sản xuất, lưu giữ, truy cập, phổ biến, sử dụng thông qua công nghệ số trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu, quản lý và các hoạt động khác của lĩnh vực giáo dục. Quản lý trường học thông minh là quản lý hoạt động giảng dạy thông minh nhằm vào hoạt động học tập thông minh để phát triển các phẩm chất, năng lực và kỹ năng thông minh ở người học. Học tập thông minh là học tập tự giác, tự chỉ đạo, có chủ đích, thích ứng, sáng tạo và sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại. Một đặc trưng cơ bản hữu hình của trường học KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 53Volume 9, Issue 2 thông minh là việc các phương tiện truyền thông hiện đại được nối mạng và công nghệ số hóa được sử dụng phổ biến trong các bộ phận cấu thành của nhà trường bao gồm thư viện thông minh và quản lý thông minh. Có lẽ do tầm quan trọng ngày càng tăng lên của yếu tố công nghệ số hóa nên “số hóa” và “số” có thể được sử dụng thay thế cho “thông minh” trừ những trường hợp cụ thể được nêu rõ (Anh & Quang, 2018; Borgman, 1999, 2000; Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018; Giới, 2018; Hà & Nhiên, 2018; Hùng, 2015; Hùng & Phương, 2019) 2.2. Số hóa, giáo dục số và quản lý giáo dục số hóa Số hóa (digitalisation) là quá trình biến đổi số (digital transformation) đặc trưng bởi việc sử dụng công nghệ số và thông tin số trong hoạt động của con người (Anh & Quang, 201 ... ụ giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Từ góc độ quản lý giáo dục số hóa cần đánh giá cao việc phát triển các loại ứng dụng và dịch vụ kiểm tra sự trùng lặp trong các văn bản tài liệu học tập, nghiên cứu. Ví dụ cụ thể ở đây là Công cụ cải thiện tài liệu (Document Improvement Tool, DoIT, Hệ thống trực tuyến hỗ trợ kiểm tra lỗi chính tả và kiểm tra trùng lặp của các văn bản) (Hiếu & Lâm, 2018). Việc sử dụng công cụ này có vai trò bảo vệ người học và người dạy khỏi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và hỗ trợ rèn luyện được phẩm chất trung thực, nghiêm túc, trách nhiệm trong giáo dục và nghiên cứu khoa học. Cần nhấn mạnh rằng, cách tiếp cận quản lý giáo dục đại học kiểu truyền thống, “kinh điển” của Việt Nam thường xếp thứ tự ưu tiên từ trên xuống dưới là: (i) đào tạo, (ii) nghiên cứu khoa học và (iii) phục vụ cộng đồng, trong đó đào tạo chiếm trên 70-80% KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 57Volume 9, Issue 2 tổng quỹ thời gian. Cách tiếp cận quản trị đại học kiểu số hóa, thông minh xếp thứ tự ưu tiên là (i) nghiên cứu khoa học, (ii) phục vụ cộng đồng và (iii) đào tạo, trong đó tỉ trọng nghiên cứu khoa học có lẽ chiếm 80%, bởi vì đào tạo và phục vụ cộng đồng đều phải dựa vào khoa học công nghệ (Hùng, 2019a) . Cách tiếp cận quản lý giáo dục kiểu cũ, chưa số hóa trước đây luôn xem nhẹ thư viện và thông tin khoa học. Cách tiếp cận quản lý giáo dục hiện đại theo xu thế số hóa đòi hỏi phải coi trọng phát triển thư viện số, thư viện thông minh. Việc nâng cao vị trí, vai trò của thư viện số, thư viện trường học thông minh phụ thuộc vào các giải pháp tạo các điều kiện thuận lợi để phát triển thư viện số trong trường. Một số tác giả đã nêu ra năm điều kiện để phát triển thư viện: (i) tư duy không gian đồng bộ thư viện từ nguồn thông tin đến tổ chức các dịch vụ thư viện; (ii) cơ sở hạ tầng thông tin với các phần cứng như hệ thống máy chủ, hệ thống lưu trữ dữ liệu lớn; (iii) đường truyền Internet; (iv) hệ thống phần mềm xử lý, khai thác thông tin; (v) nguồn tài nguyên số (Nhiên & Hà, 2018). Một số tác giả khác nhấn mạnh sáu điều kiện gồm: (i) chính sách đầu tư thích đáng cho thư viện, (ii) lựa chọn ứng dụng công nghệ phù hợp, (iii) phát triển nguồn nhân lực thư viện có chất lượng, (iv) ưu tiên phát triển nguồn tài liệu điện tử song song với các giải pháp số hoá và xây dựng các bộ sưu tập số trong thư viện, (v) đổi mới cách thức tổ chức, giới thiệu và quảng bá các dịch vụ thông tin thư viện tiện ích đến bạn đọc, (vi) xây dựng hành lang pháp lý đặc thù cho Dữ liệu lớn (big data) (Quyên & Thu, 2018). 5. Thảo luận Về các từ ngữ và khái niệm, nghiên cứu này phát hiện thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa khái niệm “số” khái niệm “thông minh” đến mức những từ ngữ như “thư viện số” và “thư viện thông minh” có thể được dùng thay thế cho nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể khi nói đến “số” là nói đến mặt công nghệ truyền thông hiện đại để số hóa hình thức và phương pháp tiếp cận, xử lý, lưu giữ, truy cập dữ liệu, thông tin, tri thức. Trong khi đó, nói đến “thông minh” là nhấn mạnh đến năng lực trí tuệ phong phú, đa dạng, phức tạp trong việc xác định vấn đề và ra quyết định giải quyết vấn đề trong những tình huống khác nhau. Một đặc trưng mới, hiện đại của “thông minh” là việc sử dụng dữ liệu số, phương tiện số, công nghệ số và quá trình số hóa. Do vậy, trường học thông minh không thể thiếu thư viện số và một thư viện số được quản lý một cách thông minh chắc chắn tạo ra nền tảng, cơ sở hạ tầng bền vững cho sự vận hành và phát triển trường học thông minh. Về mối quan hệ giữa thư viện số và quản lý giáo dục số hóa, nghiên cứu này phát hiện thấy các điều kiện để phát triển thư viện số trên thế giới có thể rất phù hợp với thực tế biến đổi thư viện từ truyền thống sang hiện đại nói chung và từ thư viện của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang thư viện của cơ chế quản lý kinh tế thị trường nói riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đòi hỏi phải ưu tiên đổi mới tư duy quản lý giáo dục theo hướng số hóa với vai trò đặc biệt của thư viện số. Phương châm của đổi mới ở đây là hãy “trả lại thư viện cho trường học”. Thư viện trường học thông minh phải là “thư viện số của trường học, do trường học và vì trường học”. Đặc trưng của thư viện này là nghiên cứu và phát triển các công nghệ truyền thông số hóa để hỗ trợ các hoạt động của nhà trường nhằm phát triển các đầu ra sáng tạo bao gồm cả phẩm chất và năng lực sáng tạo ở người học. Từ trường hợp nghiên cứu thư viện trường học thông minh có thể phát hiện một số xu hướng đổi mới quản lý giáo dục từ “không số” sang quản lý giáo dục “số hóa” với trường hợp cụ thể là quản trị đại học theo hướng số hóa như sau. Thứ nhất là đổi mới quản trị đầu vào của đào tạo theo xu hướng số hóa. Quản lý giáo dục nhất là đối với đại học càng ngày càng phải coi trọng yếu tố đầu vào của hệ thống giáo dục, ví dụ cụ thể là “tuyển sinh” đại học. Hệ thống tri thức số hóa cần được xây dựng để giúp quản trị đại học nắm chắc tình hình tuyển sinh để có thể trả lời những câu hỏi cần thiết. Chẳng hạn, có thể tiếp cận và phát triển được bao nhiêu phần trăm dân số có nhu cầu đào tạo đại học? Các thông tin tuyển sinh nhất là thông tin tư vấn tuyển sinh có thể bao phủ và thu hút được bao nhiêu phần trăm các thí sinh tiềm năng? Có thể cập nhật các thông tin về tuyển sinh với tốc độ và phạm vi như thế nào? Câu hỏi cơ bản đặt ra từ góc độ quản lý giáo dục số hóa ở đây là: thư viện số, thư viện thông minh có thể giúp nhà trường quản trị tuyển sinh như thế nào để đảm bảo tiếp cận và phát triển thị trường tuyển sinh bền vững? Câu trả lời là thư viện số không bó hẹp phạm vi phục vụ các đối tượng người sử dụng trong nhà trường mà cần phải vươn xa, mở rộng để tiếp cận, thu thập, xử lý, lưu giữ các dữ liệu số hóa đối với các dữ liệu, thông tin liên quan đến tuyển sinh trong các cộng đồng xã hội. Thứ hai là đổi mới quản trị quá trình đào tạo theo hướng số hóa với nghĩa là vừa ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy và học tập vừa huy động thư viện số và tri thức số trong toàn bộ quá trình đào tạo. Câu hỏi đặt ra, ví dụ là thư viện số và tri thức số hóa có thể đảm bảo được bao nhiêu phần trăm người học KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 58 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH tiếp cận được thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo của cả ngành, chuyên ngành, học phần, bài học? Bao nhiêu phần trăm người học tiếp cận được bao nhiêu phần trăm tài nguyên số cần thiết để học tập, nghiên cứu? Bao nhiêu phần trăm người học được kết nối theo nhiệm vụ học tập qua mạng với nhau và với giảng viên, nghiên cứu viên các bên có liên quan của nhà trường? Bao nhiêu giảng viên được kết nối với thư viện số và sử dụng thư viện số để giảng dạy nghiên cứu khoa học? Quản lý giáo dục theo kiểu cũ chỉ bó hẹp trong phạm vi một bài giảng, một lớp học, một môn học, một học phần. Quản lý giáo dục số hóa có thể mở rộng “ngay và luôn” các mạng lưới tương tác học hỏi và nghiên cứu giữa người học với nhau, với giảng viên và những người liên quan. Quản lý giáo dục số hóa đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện cho thư viện số và giảng viên, nhà khoa học kết nối với nhau tạo thành mạng lưới mở phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Thứ ba là đổi mới quản trị đầu ra của đào tạo theo hướng số hóa. Câu hỏi là thư viện số với tri thức số hóa và công nghệ số có thể giúp nhà trường tiếp cận và nắm bắt được thông tin như thế nào về thị trường lao động, việc làm của nhà trường, cụ thể là tình hình việc làm sau khi tốt nghiệp của cựu người học. Đây là vấn đề xưa cũ trên thế giới nhưng có thể mới đối với quản lý giáo dục ở Việt Nam. Một vấn đề đặc biệt mới của quản trị đầu ra đối với đào tạo theo hướng số hóa là tìm cách hỗ trợ theo hướng “bảo hành” có thời hạn hoặc bảo hành suốt đời các kiến thức, năng lực, kỹ năng mà nhà trường đào tạo ở người học. Thứ tư là đổi mới quản trị nghiên cứu khoa học theo hướng số hóa để phục vụ đào tạo và phục vụ cộng đồng. Quản lý giáo dục theo kiểu cũ chủ yếu quan tâm tới đào tạo và hoạt động học tập của người học mà xem nhẹ hoạt động nghiên cứu khoa học của cả người dạy và người học. Quản lý giáo dục số hóa, cụ thể là quản trị trường học thông minh là quản trị ưu tiên đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D, Research & Developmen), nghiên cứu và đổi mới (R&I, Research & Inovation) gắn với giáo dục và đào tạo với phục vụ cộng đồng phát triển bền vững. Một câu hỏi cơ bản có thể đặt ra ở đây là: làm thế nào để tất cả các công trình nghiên cứu khoa học của nhà trường được số hóa để sẵn sàng cho người dạy, người học và các thành viên khác của nhà trường có thể tiếp cận và sử dụng “ngay và luôn”? Một số cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh. Tuy nhiên, vấn đề mới đặt ra ở đây là làm thế nào xây dựng được hệ thống các mạng lưới khoa học công nghệ bao gồm cả R&D và R&I của nhà trường, trong đó các nhóm nghiên cứu mạnh là các đầu mối đảm bảo kết nối và tương tác “ngay và luôn” với tất cả các thành viên và những ai quan tâm trong và ngoài nhà trường. Câu trả lời thuộc về quản lý giáo dục số hóa với một nền tảng cơ bản, quan trọng là thư viện số, thư viện thông minh của trường học thông minh. 6. Kết luận Quản lý giáo dục số hóa là một xu hướng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trước tình hình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập thế giới và Cách mạng 4.0. Thư viện số trường học thông minh là thư viện của trường học coi trọng nghiên cứu và triển khai các công nghệ truyền thông hiện đại, nhất là công nghệ số hóa thông tin, tri thức trong tất cả các hoạt động của nhà trường. Quản lý giáo dục số hóa coi thư viện số, thư viện thông minh của trường học thông minh vừa là đối tượng quản lý và vừa là phương tiện, công cụ quản lý. Đối với trường học, quản lý giáo dục số hóa dựa vào thư viện số để quản lý các quá trình giảng dạy, học tập, nghiên cứu và các hoạt động khác của nhà trường nhằm mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực thông minh ở người học và góp phần phát triển xã hội thông minh. Tài liệu tham khảo Anh, V. T. K., & Quang, P. T. (2018). Công nghệ RFID trong thư viện - tiền đề cho dịch vụ tự phục vụ. In T. tâm T. tin – T. viện Đại học Quốc gia Hà Nội (Ed.), Thư viện thông minh 4.0: Công nghệ - Dữ liệu - Con người. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Berners-Lee, T., Hendler, J., and Lassila, O. (2001). The Semantic Web. Scientific American, 284(5). Borgman, C. L. (1999). What are digital libraries? Competing visions. Information Processing & Management, 35(3), tr.227-243. Borgman, C. L. (2000). From Gutenberg to the Global Information Infrastructure: Access to information in the networked world. Cambridge: MIT Press. Đại học Quốc gia Hà Nội, T. tâm T. tin – T. viện. (2018). Thư viện thông minh 4.0: Công nghệ - Dữ liệu - Con người. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Drucker, P. (1995). Xã hội hậu tư bản. Hà Nội: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 59Volume 9, Issue 2 DIGITALIZED EDUCATION MANAGEMENT: THE CASE STUDY OF DIGITAL LIBRARY OF SMART UNIVERSITY Le Ngoc Hunga Bui Thi Phuongb a VNU University of Education Email: lengochung.vnu@gmail.com b Hanoi University of Public Health Email: phuongbui.sociology@gmail.com Received: 20/5/2020 Reviewed: 25/5/2020 Revised: 27/5/2020 Accepted: 08/6/2020 Released: 21/6/2020 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/418 Abstract The case study of changing the status and role of smart university libraries shows that the “digital age” has appeared in the world with digital libraries, smart libraries and smart university. Smart classroom characterized by research and development, innovation of modern communication technology on the network platform. In Vietnam, education management in general and university governance in particular are undergoing a radical and comprehensive renovation in which libraries are digitalized to become smart libraries. These changes help to better meet learners’ requirements, instructors, managers and people interested in research and development of high quality human resources. Keywords Digital library; Smart university; Digitalized education management. Giới, N. H. (2018). Thử bàn về “Thư viện thông minh trong cuộc cách mạng công nghiêp 4.0: Công nghệ-Dữ liệu-Con người” trong tương lai ở trường đại học Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà, L. M., & Nhiên, T. T. H. (2018). Xu hướng phát triển của thư viện trong xã hội hiện đại. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hiếu, V. Đ., & Lâm, L. B. (2018). DoIT – Hệ thống kiểm tra trùng lặp văn bản, nâng cao chất lượng tài liệu học tập và nghiên cứu cho các trường đại học ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hùng, L. N. (2015). Hệ thống, cấu trúc & phân hóa xã hội. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hùng, L. N. (2019a). Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: lý thuyết hệ thống và kiến tạo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp. Tạp Chí Lý Luận Chính Trị, (Số 3). Hùng, L. N. (2019b). Quản lý giáo dục số hóa: Nghiên cứu trường hợp thư viện số của trường đại học. Kỷ Yếu Hội Thảo Quốc Tế Lần Thứ Nhất về Đổi Mới Đào Tạo Giáo Viên: 20 Năm Phát Triển Mô Hình Đào Tạo Giáo Viên Liên Thông. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hùng, L. N., & Phương, B. T. (2019). Vị trí, vai trò của thư viện số hóa trong đổi mới quản trị đại học theo hướng tập đoàn hóa ở Việt Nam. In T. tâm T. viện Đại học quốc gia Hà Nội (Ed.), Tối ưu hóa quản trị tri thức số: Chính phủ - Doanh nghiệp – Thư viện (p. tr.187-206). Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Jr, J. S. N. (2010). Tương lai của quyền lực. Hà Nội: Nxb. Thông tin và Truyền thông. Nga, K. T., & Thắng, L. Đ. (2018). Trí tuệ nhân tạo và tiềm năng ứng dụng trong hoạt động thư viện. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Nga, T. T. T., & Vân, T. T. A. (2018). Phần mềm mượn tài liệu số (BookWorm) dịch vụ tiện ích cho thư viện thông minh. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhiên, T. T. H., & Hà, L. M. (2018). Dịch vụ phân phối thông tin chọn lọc trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Quyên, T. T. H., & Thu, P. T. (2018). Tác động của Big Data tới hoạt động thư viện tại trung tâm thông tin – thư viện ĐHQGHN. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Sơn, Đ. T. (2018). Dịch vụ tìm kiếm tập trung (Web Scale Discovery - WSD) tại website thư viện các trường đại học - Sự lựa chọn cho mô hình thư viện thông minh. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
File đính kèm:
- quan_ly_giao_duc_so_hoa_nghien_cuu_truong_hop_thu_vien_so_cu.pdf