Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội

Trong hoạt động TT-TV các tiêu chuNn nghiệp vụ về xử lý, lưu trữ và

phục vụ thông tin được ưu tiên hàng đầu, nhất là trong điều kiện tự động hóa

công tác TT-TV trên nền tảng công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như

hiện nay. Cho đến nay, sau nhiều lựa chọn, các cơ quan TT-TV nước ta đã đi

đến đồng thuận áp dụng các tiêu chuNn tiên tiến trên thế giới vào hoạt động

của mình và đã tạo ra những tiến bộ đáng kể về chất trong các sản phNm và

dịch vụ TT-TV của mình, được bạn bè đánh giá cao và sử dụng thông qua

mạng IN TERN ET. Đó là các tiêu chuNn về Biên mục: Khổ mẫu MARC 21;

Qui tắc biên mục Anh – Mỹ AACR2 (phần mô tả, cơ bản dựa trên tiêu chuNn

quốc tế về mô tả thư mục ISBD (G)); Bảng phân loại DDC, Đặc biệt các

phần mềm quản trị thư viện hiện nay mà các thư viện sử dụng đều được xây

dựng dựa trên các tiêu chuNn quốc tế về tin học và CN TT, cho nên việc tra

cứu tài liệu trên mạng IN TERN ET đã trở nên dễ dàng.

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 1

Trang 1

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 2

Trang 2

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 3

Trang 3

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 4

Trang 4

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 5

Trang 5

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 6

Trang 6

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 7

Trang 7

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 9200
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội

Quá trình chuẩn hóa công tác nghiệp vụ tại trung tâm thông tin - Thư viện Đại học quốc gia Hà Nội
QUÁ TRÌH CHUẨ HÓA CÔG TÁC GHIỆP VỤ 
TẠI TRUG TÂM THÔG TI – THƯ VIỆ ĐHQGH 
 guyễn Văn Hành∗ 
1. Vài nét về công tác chu*n hóa các tiêu chu*n nghiệp vụ trong hoạt 
động thông tin – thư viện ở Việt am 
Các cơ quan thông tin – thư viện Việt Nam trong những năm gần đây đã nhận thức rõ vấn đề chuNn hóa các tiêu chuNn nghiệp vụ 
trong hoạt động của mình là cấp thiết. Muốn sử dụng được tài nguyên thông tin của các cơ quan TT-TV thế giới và ngược lại muốn 
chia sẻ nguồn lực thông tin của mình, các cơ quan TT-TV Việt N am phải bắt buộc tiến tới áp dụng các tiêu chuNn quốc gia và phù 
hợp với tiêu chuNn quốc tế. 
Trong hoạt động TT-TV các tiêu chuNn nghiệp vụ về xử lý, lưu trữ và 
phục vụ thông tin được ưu tiên hàng đầu, nhất là trong điều kiện tự động hóa 
công tác TT-TV trên nền tảng công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như 
hiện nay. Cho đến nay, sau nhiều lựa chọn, các cơ quan TT-TV nước ta đã đi 
đến đồng thuận áp dụng các tiêu chuNn tiên tiến trên thế giới vào hoạt động 
của mình và đã tạo ra những tiến bộ đáng kể về chất trong các sản phNm và 
dịch vụ TT-TV của mình, được bạn bè đánh giá cao và sử dụng thông qua 
mạng IN TERN ET. Đó là các tiêu chuNn về Biên mục: Khổ mẫu MARC 21; 
Qui tắc biên mục Anh – Mỹ AACR2 (phần mô tả, cơ bản dựa trên tiêu chuNn 
quốc tế về mô tả thư mục ISBD (G)); Bảng phân loại DDC, Đặc biệt các 
phần mềm quản trị thư viện hiện nay mà các thư viện sử dụng đều được xây 
dựng dựa trên các tiêu chuNn quốc tế về tin học và CN TT, cho nên việc tra 
cứu tài liệu trên mạng IN TERN ET đã trở nên dễ dàng. 
2. Bối cảnh chung về các tiêu chu*n nghiệp vụ của 
Trung tâm TT-TV ĐHQGH khi mới thành lập 
Trung tâm Thông tin - Thư viện Đại học Quốc gia Hà N ội (sau đây gọi 
tắt là Trung tâm) được thành lập tháng 2 năm 1997 trên cơ sở sáp nhập Thư 
viện trường Đại học Tổng hợp Hà N ội (ĐHTHHN ) và Thư viện trường Đại 
học Sư phạm N goại ngữ Hà N ội (ĐHSPN N HN ) trước đây. Các thư viện 
trường ĐHTHHN , trường ĐHSPN N HN là những thư viện đại học lớn, có lịch 
sử hàng chục năm thành lập. Thư viện ĐHTHHN có kho sách gần 700.000 
bản, Thư viện ĐHSPN N HN có hơn 100.000 bản. Các thư viện này tổ chức 
các kho tài liệu theo các tiêu chuNn nghiệp vụ khác nhau và mức độ tin học 
hóa chỉ là bước đầu. Kho tài liệu được tổ chức chủ yếu theo hình thức kho 
kín. Sách được sắp xếp theo số đăng kí cá biệt (ĐKCB), được cấu tạo theo các 
dấu hiệu rất khác nhau. Cả 2 thư viện có đến hàng trăm kí hiệu ĐKCB khác 
∗ ThS. Phó Giám đốc, Trung tâm Thông tin TT-TV, ĐHQGHN 
nhau. Công tác biên mục mô tả đã được tin học hóa bước đầu, sử dụng phần 
mềm CDS/ISIS 3.0 và áp dụng qui tắc mô tả của Thư viện KHKTTƯ và Thư 
viện Quốc gia VN – các qui tắc được biên soạn dựa trên tiêu chuNn quốc tế về 
mô tả thư mục ISBD. Về phân loại, thư viện ĐHTHHN sử dụng bảng BBK 
với dãy cơ bản bằng chữ số Arập, thư viện ĐHSPN N dùng bảng phân loại 
thập tiến dùng cho các thư viện KHTH do TVQGVN biên soạn. 
Đứng trước một thực trạng như trên, Trung tâm phải giải quyết một bài 
toán khó là vừa phải đảm bảo công tác phục vụ bạn đọc, vừa phải tổ chức lại 
kho tài liệu cho thống nhất sao cho phù hợp với cơ chế hoạt động mới và tiến 
dần đến chuNn hoá và hội nhập với các tiêu chuNn nghiệp vụ TT-TV tiên tiến 
trong khu vực và thế giới. 
3. Áp dụng các tiêu chu*n nghiệp vụ tiên tiến TT-TV 
3.1 Tổ chức kho tài liệu theo hướng kho mở 
N gay từ khi thành lập, Trung tâm đã xác định việc tổ chức lại kho tài liệu 
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác nghiệp vụ. Do đặc 
điểm lịch sử để lại, Trung tâm tiếp nhận các kho tài liệu được tổ chức rất khác 
nhau của các thư viện đại học thành viên, thêm vào đó điều kiện cơ sở vật 
chất thời điểm 1997-1998 của Trung tâm còn rất khó khăn, đến cuối năm 
1999 mới được tiếp nhận 1 cơ sở mới. Trên cơ sở các kho tài liệu hiện có, các 
điều kiện về diện tích kho tàng và chiến lược phát triển của Trung tâm, vấn đề 
xây dựng và tổ chức lại kho tài liệu đã được đặt ra. 
Bên cạnh các loại hình kho truyền thống, như kho mượn, kho đọc tổ 
chức theo kiểu kho kín, Trung tâm bắt đầu thí điểm tổ chức dạng kho mở, 
trước hết là cho kho tài liệu tra cứu và kho ấn phNm tiếp tục. Khi đủ điều kiện 
sẽ tổ chức kho mở (Open stack) cho kho sách phòng đọc và tiến tới thực hiện 
cả dịch vụ cho mượn về ở kho tài liệu tham khảo tổ chức dạng kho mở này. 
Cho đến nay, bên cạnh các kho tổ chức dạng kho kín, Trung tâm đã có 4 kho 
tài liệu tra cứu, mỗi kho có từ 2000 đến 4000 đơn vị tài liệu; 3 kho báo và tạp 
chí được tổ chức và phục vụ mở; 3 kho tài liệu tham khảo có từ 12.000 đến 
20.000 bản sách được tổ chức kho mở và phục vụ cả mượn và đọc. 
Trong kỹ thuật tổ chức kho tài liệu thư viện, có 2 khâu rất quan trọng là 
định kí hiệu đăng kí cá biệt (KHCB) định kí hiệu xếp giá kho mở 
(KHXGKM). Kí hiệu phải đảm bảo tính thống nhất, tính ứng dụng cao (ví dụ 
cho công tác thống kê kho theo các yêu cầu) và có tính mở để có thể phát 
triển được các loại hình tài liệu khác khi cần. Do kho tài liệu của Trung tâm 
nằm ở các khu vực địa lí khác nhau, gắn liền với các đơn vị đào tạo của 
ĐHQGHN nên cấu trúc của KHCB tài liệu được tính đến cả yếu tố này. Sau 
một thời ngắn nghiên cứu và rút kinh nghiệm, Trung tâm đã triển khai hệ 
thống KHCB trên cơ sở các dấu hiệu sau: 
N gôn ngữ; Khổ cỡ; Ý nghĩa sử dụng; Vị trí địa lí của kho; 
Số thứ tự trong sổ/ dữ liệu ĐKCB 
Ví dụ: Kí hiệu cá biệt cho kho sách tham khảo dạng kín: 
VV- M1/ 01435 (Sách tiếng Việt, khổ vừa, kho mượn, phòng PVBBĐ 
KHT(, số 01435) 
Kí hiệu cá biệt cho kho sách tham khảo dạng mở: 
A - D0/ 15780 (sách tiếng Anh, kho đọc, phòng PVBĐ Chung, 
 số 15780) 
Có thể nhận thấy, KHCB trên có 2 phần, phần cố định ít thay đổi trước 
dấu vạch xiên và phần biến đổi sau dấu vạch xiên, điều này có thuận lợi cho 
việc xử lí dữ liệu trên máy tính. Hệ thống KHCB được dùng để tạo và in mã 
vạch, phục vụ việc tự động hoá lưu thông tài liệu. 
Khi tổ chức kho mở, hệ thống kí hiệu xếp giá kho mở được xây dựng 
trên cơ sở các dấu hiệu sau: 
- Kí hiệu phân loại: theo bảng DDC rút gọn 
- Kí hiệu theo họ và tên tác giả hoặc tên tài liệu (tiêu đề mô tả của tài 
liệu): dùng 3 chữ cái đầu của tiêu đề mô tả 
- N ăm xuất bản 
 Để giảm thiểu tối đa các thao tác, Trung tâm đã tích hợp Kí hiệu xếp giá 
kho mở và Kí hiệu cá biệt vào 1 nhãn sách duy nhất. Tuỳ theo loại hình kho 
có thể sắp xếp kho kín theo KHCB, và có thể sắp xếp kho mở theo kí hiệu xếp 
giá kho mở mà không phải xử lí lại tài liệu. 
3.2 Áp dụng khổ mẫu MARC21 trong biên mục 
Trong quy trình xử lý tài liệu thư viện dù theo công nghệ truyền thống 
hay công nghệ hiện đại, thì khâu biên mục, trong đó có biên mục mô tả là một 
trong những khâu quan trọng nhất. Kết quả của biên mục tạo ra bộ máy tra 
cứu tìm tin cho cơ quan thông tin- thư viện. Tuy nhiên chất lượng bộ máy tra 
cứu này lại tuỳ thuộc vào các tiêu chuNn biên mục và chuNn tin học mà nó áp 
dụng. 
 Khi tin học hoá thư viện, người ta thường quan tâm đến các chuNn về tin 
học và các chuNn về biên mục của phần mềm có đáp ứng được yêu cầu chuNn 
hoá quốc tế hay không. Bởi vì các tiêu chuNn đó đảm bảo cho tính liên thông 
của hệ thống TT-TV trong môi trường thông tin toàn cầu. Đặc biệt là ở 
module biên mục, thì vấn đề khổ mẫu (Format) biên mục được quan tâm hàng 
đầu. 
 Trước đây, Trung tâm TT-TV ĐHQGHN đã sử dụng phần mềm 
CDS/ISIS Version 3.0 để xử lí tài liệu, xây dựng CSDL với hơn 43.000 biểu 
ghi. Phần mềm này do Trung tâm TTKH&CN QG chuyển giao cho Thư viện 
ĐHTHHN từ năm 1993. Việc sử dụng phần mềm này đã góp phần to lớn cho 
những bước đi ban đầu và trưởng thành của Trung tâm trong công tác tin học 
hoá. Đặc biệt là nó đã tạo cho Trung tâm một CSDL tài liệu khá lớn, đến nay 
khi sử dụng các phần mềm mới, CSDL này vẫn có giá trị sử dụng, bởi vì 
chúng được chuyển đổi sang cấu trúc khác mà thôi. Đến cuối năm 2001 đầu 
năm 2002, sau khi tiếp nhận Dự án Giáo dục Đại học mức A, trong đó được 
trang bị một phần mềm quản trị thư viện mới, đó là phần mềm Libol 5.0 của 
Công ty Tinh vân, Trung tâm có điều kiện để áp dụng MARC21 một cách 
chính thức. Sau khi có phần mềm Libol 5.0 Trung tâm đã tiến hành chuyển 
đổi CSDL cũ sang CSDL mới theo cấu trúc của MARC21. Việc chuyển đổi 
này bước đầu đáp ứng được việc phục vụ tra cứu liên tục trên hệ thống máy 
tính của Trung tâm. Tuy nhiên, cũng từ việc chuyển đổi này, đã phát hiện ra 
những sai sót của CSDL cũ, nhờ những công nghệ của phần mềm mới. Trung 
tâm đã tiến hành hiệu đính lại toàn bộ CSDL cũ, do vậy chất lượng CSDL đã 
được nâng lên một bước đáng kể. 
 Khi biên mục theo MARC21, Trung tâm đã phối hợp với bên cung cấp 
phần mềm cho xây dựng phiếu nhập tin (Worksheet) mới, dựa trên MARC21 
có tính đến các đặc điểm riêng của kho tài liệu của mình. Sau một thời gian, 
cán bộ biên mục đã thành thạo, Trung tâm đã chỉ sử dụng phiếu nhập tin cho 
xử lí tài liệu là luận văn, luận án SĐH, đề tài nghiên cứu khoa học, và tài liệu 
chuyên dạng, còn các tài liệu khác được nhập liệu trực tiếp trên máy tính. Đây 
chính là hình thức biên mục gốc mà Trung tâm áp dụng cho biên mục các tài 
liệu không lấy được biểu ghi trên mạng Internet. Đối với các tài liệu tiếng 
nước ngoài có chỉ số ISBN , Trung tâm thường áp dụng phương pháp biên 
mục sao chép qua mạng. Khi biểu ghi được tải về, sẽ thêm một số trường 
riêng có của Trung tâm, còn lại vẫn giữ nguyên biểu ghi gốc. 
 Có thể thấy một số thuận lợi khi biên mục theo MARC21 qua một thời 
gian áp dụng ở Trung tâm TT-TV ĐHQGHN . Khổ mẫu MARC21 là một khổ 
mẫu tích hợp, dùng chung cho biên mục các loại hình tài liệu thư viện, do vậy 
không phải thiết kế các mẫu nhập tin khác nhau, mà chỉ thêm hoặc bớt các 
trường dữ liệu đặc thù cho phù hợp; vẫn có thể biên mục theo các quy tắc mô 
tả dựa trên ISBD, trong khi chưa áp dụng AACR2 một cách chính thức; khả 
năng chia sẻ và sử dụng các biểu ghi thư mục của các thư viện với nhau trở 
nên dễ dàng. Đến nay đã có những tài liệu hướng dẫn nhập dữ liệu theo 
MARC21, như Khổ mẫu MARC21 cho dữ liệu thư mục 2 tập do Trung tâm 
TTKH&CN QG dịch và MARC21 rút gọn cho dữ liệu thư mục cũng do Trung 
tâm TTKH&CN QG biên soạn. Đặc biệt, gần đây nhất Khổ mẫu MARC21 đã 
được đưa vào tiêu chuNn Việt N am, có mã hiệu là TCV( 7539:2005- Thông 
tin tư liệu - Khổ mẫu MARC21 cho dữ liệu thư mục Đây là những tài liệu 
chính thức để có cơ sở cho các thư viện áp dụng, tạo tiền đề cho việc thống 
nhất trong biên mục. 
 Các sản phNm và dịch vụ TT-TV của Trung tâm đã được phong phú và 
chất lượng hơn sau khi áp dụng MARC21. Do yêu cầu của việc tiếp tục hoàn 
thiện bộ máy tra cứu truyền thống, sau tạo lập biểu ghi, cán bộ biên mục tiến 
hành in phiếu mục lục, thư mục thông báo sách mới. N goài ra, để xây dựng 
kho mở, còn phải in kí hiệu xếp giá cho kho này lên các nhãn sách. 
 Đối với bộ máy tra cứu hiện đại, toàn bộ CSDL tài liệu của Trung tâm, 
kết quả của biên mục, đã được đưa lên mạng LAN của Trung tâm, mạng 
VN Unet của ĐHQGHN và mạng IN TERN ET cho người dùng tin trong và 
ngoài ĐHQGHN sử dụng. 
3.3 Bước đầu áp dụng qui tắc biên mục Anh - Mỹ AACR2 
Sau khi sử dụng MARC21 trong biên mục và thấy rõ mối quan hệ gắn bó 
giữa khổ mẫu này với qui tắc mô tả AACR2, Trung tâm đã cho nghiên cứu và 
có hướng áp dụng vào biên mục mô tả. Tinh thần chung là nếu chưa thể áp 
dụng AACR2 một cách đầy đủ, vẫn có thể áp dụng những mục đã rất rõ ràng 
mà nếu áp dụng qui tắc mô tả trong nước thì còn gây tranh cãi. N goài 
AACR2R (1998) bản tiếng Anh, đã có thêm AACR2R rút gọn (2002) bản 
tiếng Việt của LEAF-VN , đây là một thuận lợi cho công việc. 
Điển hình nhất là khi mô tả các trường liên quan đến tiêu đề mô tả/ điểm 
truy nhập là tên cá nhân trong MARC21, như trường 100 và trường 700, 
việc áp dụng qui tắc AACR2 sẽ làm cho tường minh hơn - đặc biệt, đối với 
việc mô tả tên người Việt N am. N gay từ năm 2004, Trung tâm đã vận dụng 
qui tắc AACR2 trong mô tả ở các trường này cho tên người Việt N am như 
sau: 
100 0# $a Xuân Diệu (tên bút danh - tên không gồm họ) 
100 1# $a N guyễn, Minh Châu (họ và tên đầy đủ - tên có họ) 
Dấu phảy (,) ở tiêu đề mô tả trong AACR2 làm rõ thành phần Họ trong 
cấu thành toàn bộ tên người và chỉ ra yếu tố nào của tên người được lấy làm 
dẫn tố (Entry) trong tiêu đề mô tả. Điều này phù hợp với các chỉ thị trường 
(Indicators) trong trường 100 và 700 của MARC21. 
Việc áp dụng một qui tắc nhỏ của AACR2 như trên sau này đã phù hợp 
với tài liệu hướng dẫn MARC21 do Trung tâm TTKH&CN QG biên soạn 
(2005) và TCVN 7539:2005 - Thông tin tư liệu - Khổ mẫu MARC21 cho dữ 
liệu thư mục. 
3. 4 Quá trình áp dụng bảng phân loại DDC rút gọn 
N gay sau khi thành lập Trung tâm TT-TV ĐHQGHN sử dụng 3 bảng 
phân loại để phân loại tài liệu. Đó là Bảng phân loại thư viện-thư mục Liên xô 
(BBK); Bảng phân loại tổng hợp thập tiến dùng cho thư viện khoa học tổng 
hợp, do TVQGV( biên soạn (PTB); Bảng phân loại thập phân Dewey (DDC) 
rút gọn 3 cấp do một nhóm chuyên gia biên soạn. Bảng BBK dùng định kí 
hiệu phân loại cho tài liệu kho phòng Phục vụ bạn đọc Đại học KHXH&N V 
và KHTN (Thư viện ĐHTHHN cũ). Bảng PTB dùng phân loại tài liệu kho 
Phòng phục vụ bạn đọc ĐHN N (Thư viện ĐHSPN N cũ). Còn bảng DDC rút 
gọn 3 cấp, để phân loại tài liệu các kho mở (chủ yếu là kho tra cứu từ 1500 - 
2000 bản) của Trung tâm từ 1997. Đây là kết quả của sự kế thừa và phát triển 
công tác phân loại từ các thư viện đại học thành viên trước năm 1997. Chính 
điều phức tạp này đã đặt ra vấn đề là phải lựa chọn một bảng phân loại thích 
hợp để áp dụng cho Trung tâm trong thời gian trước mắt và lâu dài. 
 Việc lựa chọn bảng phân loại cho Trung tâm trong giai đoạn vừa qua đã 
dựa trên một số tiêu chí sau: (1)Tính liên tục, không làm gián đoạn công tác 
phân loại và tổ chức hệ thống MLPL phiếu của các kho tài liệu đã có mà 
thường là số lượng rất lớn và thói quen sử dụng bộ máy tra cứu của N DT; (2) 
Phù hợp và tiện lợi cho việc tổ chức kho mở và trao đổi thông tin thư mục với 
các thư viện hiện đại và tiên tiến ở khu vực và trên thế giới, tiến đến hội nhập 
với khu vực và quốc tế về lĩnh vực này; (3) Phù hợp với hệ thống chính trị và 
điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. 
 Trung tâm đã tiến hành các bước đi thích hợp để chuyển đổi sử dụng 
bảng phân loại cho phù hợp. Sau khi có bản DDC13 rút gọn (bản tiếng Anh 
1997), DDC rút gọn (bản tiếng Pháp năm 1998) và một số bản DDC tiếng 
Việt, Trung tâm đã chỉnh lí và tiến hành áp dụng thí điểm. Đến năm 2003, 
Trung tâm đã không sử dụng bảng PTB nữa và chỉ sử dụng 2 bảng phân loại 
là BBK và DDC, cho đến tháng 8 năm 2005 chỉ còn sử dụng 1 bảng là DDC 
rút gọn, được biên soạn dựa trên bản DDC rút gọn tiếng Pháp. Sự kiện vừa 
qua, Thư viện Quốc gia VN chính thức công bố DDC 14, bản tiếng Việt, là 
một thuận lợi cho Trung tâm trong công tác phân loại tài liệu. Bởi vì Trung 
tâm là một trong những thư viện đại học đầu tiên ở phía Bắc áp dụng bảng 
DDC rút gọn vào phân loại tài liệu. N hững kinh nghiệm sử dụng DDC đã có 
cộng với 1 bảng DDC chính thức được biên dịch sẽ tạo cho công tác phân loại 
của Trung tâm có bước phát triển tốt hơn. N hư vậy có thể thấy hướng đi của 
Trung tâm trong thời gian qua về lựa chọn và áp dụng bảng phân loại trong 
công tác biên mục tài liệu là đúng hướng và cập nhật. 
4. Kết quả và định hướng 
Đến nay đã được 10 năm hoạt động theo mô hình mới, Trung tâm TT-TV 
ĐHQGHN đã có những thành công nhất định trong việc thực hiện sứ mạng 
của mình là đảm bảo ngày càng tốt hơn thông tin tư liệu cho sự nghiệp đào 
tạo và nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao của Đại học 
Quốc gia Hà N ội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công trên là 
Trung tâm đã có và thực hiện tốt một chiến lược chu+n hóa từng bước các 
tiêu chu+n nghiệp vụ thông tin - thư viện theo hướng hội nhập khu vực và 
quốc tế. 
Để thực hiện chiến lược đó, Trung tâm đã có những bước đi thích hợp 
trong quá trình chuNn hóa các khâu nghiệp vụ TT-TV để đi đến các tiêu chuNn 
khu vực và quốc tế. Đó là tổ chức kho theo hướng kho mở; áp dụng các tiêu 
chu+n tiên tiến vào biên mục mô tả, như khổ mẫu MARC21 và một số điểm 
trong qui tắc AACR2. Trong biên mục theo nội dung, từ chỗ có tới 3 bảng 
phân loại, đã tiến tới dùng 1 bảng là bản DDC rút gọn dạng thí điểm. 
N hững tiêu chuNn nghiệp vụ trên được áp dụng trong công tác xử lí tài 
liệu của Trung tâm đã tạo ra những sản phNm và dịch vụ thông tin chất lượng 
cao hơn, có khả năng chia sẻ với các cơ quan TT-TV khác trong và ngoài 
nước. Sự lựa chọn các tiêu chuNn nghiệp vụ trên của Trung tâm đã đúng 
hướng và phù hợp với hướng lựa chọn hiện nay của các thư viện Việt N am. 
Tuy nhiên hiện nay, Trung tâm vẫn còn một số tồn tại, như vấn đề áp 
dụng từ khoá có kiểm soát hay áp dụng đề mục chủ đề? Lâu nay trong CSDL 
của Trung tâm, nhiều nhất vẫn là từ khoá tự do, gần đây đã sử dụng Bộ từ 
khóa KHCN có kiểm soát của Trung tâm TTKH&CN QG và Bộ từ khóa có 
kiểm soát của TVQGVN để xử lí tài liệu. Đó cũng là vấn đề chung của các 
thư viện đại học trong việc áp dụng công cụ gì trong biên bục theo chủ đề. 
Sắp tới, Trung tâm sẽ chú trọng phát triển nguồn tin điện tử, tài liệu số 
hoá, do vậy vấn đề nghiên cứu áp dụng các tiêu chuNn liên quan đến xử lí, lưu 
trữ và phục vụ loại tài liệu này đã được đặt ra. Ví dụ như các chuNn biên mục 
MARC XML, chuNn biên mục siêu dữ liệu DC (Dublin Core), các chuNn liên 
thông hệ thống,  
N hư vậy có thể thấy, trong việc tiến tới chuNn hoá các khâu nghiệp vụ 
trong cơ quan TT-TV, vấn đề định hướng tới tiêu chuNn gì? Và bước đi như 
thế nào cho thích hợp là rất quan trọng. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi các 
cơ quan thông tin - thư viện vẫn phải liên tục phục vụ người dùng tin và trong 
nước không phải một sớm một chiều mà đã có ngay các công cụ tiêu chuNn 
cho các hoạt động nghiệp vụ và thậm trí ngay cả tạo ra một sự đồng thuận 
cũng là một điều không đơn giản./. 
Tài liệu tham khảo 
1. Áp dụng khung phân loại DDC vào việc tổ chức kho mở / Vũ Văn Sơn // 
Kỷ yếu Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động TT-TV. Trung tâm TT-
TV ĐHQGHN , 2002 .- tr. 45-49 
2. Áp dụng MARC21 ở một số thư viện đại học Việt N am / N guyễn Văn 
Hành // Tạp chí Thông tin và Tư liệu, 2006, số 2 .- tr.20-22 
3. Công tác xử lí tài liệu của Trung tâm TT-TV Đại học Quốc gia Hà N ội, 
thực trang và giải pháp / Trần Thị Quý // Kỷ yếu Hội thảo khoa học và 
thực tiễn hoạt động TT-TV. Trung tâm TT-TV ĐHQGHN , 2002 .- tr.23-28 
4. Hoạt động tiêu chuNn hóa trong lĩnh vực thông tin tư liệu: hiện trạng và 
định hướng phát triển / Tạ Bá Hưng, N guyễn Tiến Đức, Phan Huy Quế // 
Kỷ yếu hội thảo Tăng cường công tác tiêu chuNn hóa trong hoạt động 
thông tin tư liệu . Trung tâm TTKH&CN QG, 11/2006 .- Tr.3-13 
5. Một số vấn đề về áp dụng bảng phân loại ở Trung tâm TT-TV Đại học 
Quốc gia Hà N ội / N guyễn Văn Hành // Kỷ yếu Hội thảo khoa học và thực 
tiễn hoạt động TT-TV. Trung tâm TT-TV ĐHQGHN , 2002.- tr.20-22 
6. Quá trình chuNn hóa các tiêu chuNn nghiệp vụ tại Trung tâm TT-TV 
ĐHQGHN / N guyễn Văn Hành // Kỷ yếu hội thảo Tăng cường công tác 
tiêu chuNn hóa trong hoạt động thông tin tư liệu.Trung tâm 
TTKH&CN QG, 11/2006.- Tr. 113-119 
7. Standards and Best Practices: Route to Vietnamese Library Globalization / 
Patricia G. Oyler // Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Thư viện Việt N am hội nhập 
và phát triển. Tp.HCM. 28-30/8/2006 .-  
8. Vài nét về hoạt động số hoá tài liệu tại Trung tâm TT-TV Đại học Quốc 
gia Hà N ội / N guyễn Huy Chương, Lâm Quang Tùng // Kỷ yếu hội thảo 
chuyên đề quản trị và chia sẻ các nguồn tin số hoá. 2005 

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_chuan_hoa_cong_tac_nghiep_vu_tai_trung_tam_thong_t.pdf