Phát triển dữ liệu – công nghệ số - Trung tâm tri thức số trong thư viện số của trường Cao đẳng công nghệ và kỹ thuật ô tô trong công tác đào tạo
Trong tác phẩm được coi là di chúc chính trị “Bàn về chế độ hợp
tác”, Lê-nin viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: Trước đây chúng
ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta
vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy
vào hoạt động giáo dục”. Theo quan điểm của Lê-nin thì giáo dục – đào
tạo là cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, bất cứ một nhà trường nào trong và ngoài quân đội cũng
đều có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó chính là: đào tạo và
nghiên cứu khoa học (NCKH). Đây là các hoạt động có mối quan hệ hữu
cơ, các nhiệm vụ cơ bản chiến lược của nhà trường, trong đó việc giảng
viên, giáo viên trong các nhà trường cần phải tích cực tham gia các hoạt
động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng, bắt buộc, cần
thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo trong Nhà trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển dữ liệu – công nghệ số - Trung tâm tri thức số trong thư viện số của trường Cao đẳng công nghệ và kỹ thuật ô tô trong công tác đào tạo
PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – CÔNG NGHỆ SỐ - TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ... TRONG THƯ VIỆN SỐ CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG CN&KT Ô TÔ TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO Đinh Văn Huy*1 Tóm tắt: Bài viết giới thiệu về Dữ liệu – công nghệ trong thư viện số/ Trung tâm Tri thức số đối với công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Từ đó đề xuất hướng phát triển dữ liệu – thông tin – tri thức cho thư viện điện tử trong Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ôtô/Tổng cục Kỹ thuật. 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Trong tác phẩm được coi là di chúc chính trị “Bàn về chế độ hợp tác”, Lê-nin viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: Trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt động giáo dục”. Theo quan điểm của Lê-nin thì giáo dục – đào tạo là cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, bất cứ một nhà trường nào trong và ngoài quân đội cũng đều có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó chính là: đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH). Đây là các hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, các nhiệm vụ cơ bản chiến lược của nhà trường, trong đó việc giảng viên, giáo viên trong các nhà trường cần phải tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng, bắt buộc, cần thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo trong Nhà trường. * Kỹ sư, Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ô tô, Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng. 617 PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – CÔNG NGHỆ SỐ - TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ... Thực tiễn và lý luận đều chứng minh một cách rõ ràng rằng, NCKH và giảng dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy ở trên lớp. Ngược lại, công tác giảng dạy phản ánh kết quả của hoạt động NCKH. Do vậy, có thể khẳng định rằng, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH là thước đo năng lực chuyên môn của giảng viên, giáo viên trong các nhà trường hiện nay. Tuy nhiên, để hoạt động NCKH của giảng viên, giáo viên đạt được hiệu quả cao, cần phải liên tục trau dồi kiến thức, tiếp cận các dữ liệu, thông tin trong các ngành, các nghề thì yếu tố quan trọng bậc nhất đó chính là tạo ra một môi trường để có thể tiếp cận được đầy đủ các nguồn dữ liệu – thông tin một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất. Vì vậy hoạt động thông tin - thư viện đã ra đời để những dữ liệu - thông tin thuộc các trung tâm thông tin, trung tâm tài nguyên, trung tâm học liệu, cơ sở lưu trữ, bao gồm trong các loại hình thư viện: thư viện nhà trường, thư viện quốc gia, thư viện công cộng, thư viện chuyên ngành, đa ngành phục vụ thông tin cho người sử dụng theo yêu cầu và bằng nhiều hình thức: - Tài liệu dạng vật chất thông qua thư viện học với công tác thư viện; - Thông tin tư liệu thông qua thông tin học với hoạt động thông tin; - Tài nguyên điện tử thông qua thư viện số với công nghệ mới. Vấn đề dữ liệu – công nghệ trong thư viện số/Trung tâm Tri thức số nhất là phát triển dữ liệu – thông tin – tri thức trên thế giới đang bước vào một xã hội mới đó là xã hội thông tin, trở thành nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất của xã hội. Ngành thông tin thư viện có một cơ hội lớn để bước vào một thời đại mới đó là: Sự bùng nổ thông tin và nhu cầu tiếp nhận thông tin – tri thức trên thế giới trở thành xu hướng trên toàn cầu. Dữ liệu – công nghệ trong thư viện số/Trung tâm Tri thức số đang là hình mẫu phát triển của các thư viện trên thế giới hiện nay nhằm tiếp nhận những thời cơ và đáp ứng những thách thức đó. Vấn đề xây dựng trung tâm Dữ liệu – công nghệ trong thư viện số ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước chỉ đạo thực hiện. Nhiều cơ quan thông tin - thư viện nước ta đang xúc tiến cho việc thực hiện này. Với 618 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM hệ thống máy tính đã, đang và tiếp tục được trang bị tại các thư viện hiện nay, khả năng xây dựng các thư viện điện tử, thư viện số nhất là Trung tâm Thông tin - Thư viện của Đại học Quốc gia Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong thời gian qua. Các thư viện điện tử ở các viện nghiên cứu, trường học,... là những trung tâm truy cập với các nguồn dữ liệu phân tán trong tất cả các lĩnh vực nghiên cứu tới các mạng thông tin trong và ngoài nước. Từ các máy của các trung tâm đó có thể truy cập được tới các nguồn tin có chất lượng tốt từ Internet có liên quan đến các thư viện, các mạng thông tin lớn trên thế giới. Đi theo hướng xây dựng dữ liệu – công nghệ trong thư viện số trong các thư viện điện tử tại các trường học hiện nay phải định hướng vào việc phát triển dữ liệu – thông tin – tri thức. Điều đó đã đặt ra cho các thư viện nói chung và Thư viện Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ô tô nói riêng nhiều thách thức: - Thách thức đầu tiên là cơ sở vật chất, trang thiết bị hạ tầng công nghệ thông tin trong các nhà ... ử, báo chí điện tử hay cũng có thể trên các trang tin tức, diễn đàn được pháp luật cho phép ở trên Internet. 619 PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – CÔNG NGHỆ SỐ - TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ... - Vấn đề quan trọng cuối cùng đặt ra trong thế giới dữ liệu số đó là bản quyền. Bản quyền là cách làm truyền thống để bảo vệ quyền sở hữu thông tin (thường là của nhà xuất bản chính chứ không phải tác giả) và sự kiểm soát của họ đối với việc phổ biến thông tin và dẫn đến việc thu phí sử dụng/truy cập. Đây là lý do dẫn đến sự tăng trưởng của công nghiệp xuất bản (cả ấn phẩm in và ấn phẩm điện tử) như chúng ta đã thấy ngày nay. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để hiểu rõ phát triển dữ liệu – thông tin – tri thức, ta cần phân biệt tri thức với các khái niệm tương đồng khác là dữ liệu, thông tin. Dữ liệu là những con số hoặc dữ kiện thuần túy, rời rạc mà quan sát hoặc đo đếm được không có ngữ cảnh hay diễn giải. Dữ liệu được thể hiện ra ngoài bằng cách mã hóa và dễ dàng truyền tải. Dữ liệu được chuyển thành thông tin bằng cách thêm giá trị thông qua ngữ cảnh, phân loại, tính toán, hiệu chỉnh và đánh giá. Thông tin là những mô hình hay tập hợp dữ liệu đã được tổ chức lại và diễn giải đặt trong bối cảnh và nhằm một mục đích cụ thể. Thông tin là những thông điệp thường được thể hiện theo dạng văn bản hoặc giao tiếp có thể thấy được hoặc không thấy được... nhằm mục đích thay đổi cách nhận thức của người nhận thông tin về vấn đề cụ thể, và gây ảnh hưởng đến sự đánh giá và hành vi của người nhận. Vì thông tin là những dữ liệu được tổ chức lại vì một mục đích nào đó, vì vậy mà nó sẽ giảm bớt sự không chắc chắn. Đó cũng chính là sự khác biệt của thông tin với dữ liệu. Tương tự như dữ liệu, thông tin được mã hóa và tương đối dễ dàng truyền tải. 620 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Tri thức là thông tin được cấu trúc hóa, được kiểm nghiệm và có thể sử dụng được vào mục đích cụ thể. Tri thức thường thể hiện trong những hoàn cảnh cụ thể kết hợp với kinh nghiệm và việc phán quyết hay ra quyết định. Để truyền tải thì đòi hỏi sự học tập của người tiếp nhận tri thức. Như vậy nếu một thông tin giúp chúng ta nhận thức và đưa ra quyết định thì là tri thức. Thông tin trở thành “đầu vào” được nạp vào trong não, qua quá trình xử lý sẽ tạo ra tri thức. Nhưng quá trình xử lý này với mỗi một cá nhân khác nhau sẽ cho ra những “đầu ra” khác nhau. Có nghĩa là cùng một thông tin như vậy nhưng với mỗi cá nhân thì tri thức mà họ nhận thức được sẽ khác với tri thức mà người khác nhận thức. Thông tin là những dữ liệu được cấu trúc hóa được thể hiện ra ngoài và ai cũng có thể tiếp cận. Nhưng tri thức thiên về những thông tin được cấu trúc hóa và cá nhân hóa nằm trong mỗi con người cụ thể, do đó khả năng tiếp cận khó hơn và sự thể hiện ra ngoài không phải lúc nào cũng chính xác. Sơ đồ từ dữ liệu tới tri thức Tri thức là những dữ liệu, thông tin được cấu trúc hóa, kiểm nghiệm và sử dụng được vào một mục đích cụ thể tạo ra giá trị. Chúng ta có thể chia ra làm 3 loại tri thức: Một là tri thức hiện (explicit knowledge); hai là tri thức ngầm (tacit knowledge) và ba là tri thức tiềm năng (implicit knowledge). Có rất nhiều cách tiếp cận dữ liệu – thông tin – tri thức khác nhau tuỳ theo từng cách nhìn và phương thức của mỗi cá nhân hay tổ chức. Trong các phương thức đó bao gồm có cách quản trị dữ liệu – thông tin – tri thức, việc học hỏi của từng cá nhân và tổ chức, phương pháp NCKH, khả năng tiếp cận công nghệ và các hệ thống thông tin, trí tuệ nhân tạo, tài sản tri thức, Không có một phương thức nào hay một 621 PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – CÔNG NGHỆ SỐ - TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ... cách tiếp cận nào là thống nhất trong quản trị dữ liệu – thông tin – tri thức ở các cơ quan, tổ chức nào. Tuy nhiên trong đó có những nội dung có thể bao quát toàn bộ. Quản trị dữ liệu – thông tin – tri thức bao gồm con người, các cách thức và quá trình, các hoạt động, công nghệ và một môi trường rộng hơn thúc đẩy việc định dạng, sáng tạo, giao tiếp hay chia sẻ và sử dụng các tri thức cá nhân cũng như tri thức của tổ chức. Nó là về những quy trình quản lý việc tạo ra, phát tán và sử dụng dữ liệu – thông tin – tri thức để đạt được mục tiêu của cá nhân, tổ chức. Nó đòi hỏi sự kết hợp giữa nhận thức, thái độ và thực tiễn sáng tạo, những hệ thống, chính sách và những thủ tục được tạo ra để giải phóng sức mạnh của thông tin và ý tưởng của con người. Quản trị dữ liệu – thông tin – tri thức nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ, giảng viên, giáo viên Trường Cao đẳng Công nghệ và kỹ thuật Ô tô trong quá trình sáng tạo, nắm bắt, chuyển giao và sử dụng dữ liệu – thông tin để nâng cao hiệu quả giảng dạy và NCKH. Quản trị dữ liệu là quá trình có hệ thống của việc thu thập, xử lý, lựa chọn, lưu trữ và chuyển tải những thông tin mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh tranh và hoàn thiện. Qua đó có thể phát triển hơn nữa hệ thống nguồn dữ liệu – thông tin – tri thức và các công trình NCKH trong Nhà trường, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng dạy trong các Nhà trường nói chung và trong Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ô Tô/Tổng cục Kỹ thuật nói riêng, cần phải đưa ra các giải pháp cụ thể sau. 3. QUẢN TRỊ DỮ LIỆU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – THÔNG TIN – TRI THỨC Theo phân loại tri thức như trên thì việc quản trị các nguồn dữ liệu – thông tin phụ thuộc rất nhiều vào kết quả của việc thu thập, xử lý, sàng lọc, lưu trữ truyền tải cho người đọc để có thể tạo ra tri thức. Qua phân tích thực trạng về nguồn dữ liệu – thông tin – tri thức trong Thư viện Trường Cao đẳng Công nghệ Và Kỹ thuật Ô tô/Tổng cục Kỹ thuật/Bộ Quốc phòng và để phát triển nguồn dữ liệu – thông tin – tri thức, tôi xin đề xuất bốn giải pháp như sau: 622 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Giải pháp thứ nhất: Chính sách quản trị dữ liệu – thông tin – tri thức Chúng ta có nhiều, rất nhiều nguồn dữ liệu, trong từng ngành, từng nghề, từng lĩnh vực khác nhau, trong đó có những nguồn dữ liệu đặc biệt, có những dữ liệu cơ bản đến nâng cao. Tuy nhiên, để cho người sử dụng dữ liệu đạt được hiệu quả theo nhu cầu của họ thì cần phải có các kênh giới thiệu như hệ thống thông tin qua đài phát thành của Nhà trường, các diễn đàn tuổi trẻ, lồng ghép trong các buổi sinh hoạt và các nguồn liên kết để người trong Nhà trường có thể tiếp cận được khi có nhu cầu. Sau khi có được các tiếp cận của người đọc, cần phải có có các giải pháp để người đọc đó giới thiệu, tạo ra sự thu hút của các cá nhân, tổ chức liên quan khác để duy trì sự truy cập liên tục vào các nguồn dữ liệu sẵn có. Trong các nguồn dữ liệu – thông tin vẫn có những nguồn dữ liệu đặc biệt và có giá trị kinh tế nhất định (các dữ liệu được tính phí truy cập), tuy nhiên nhiều khi những nguồn dữ liệu có tính phí truy cập lại rơi vào tình trạng “không ai trả phí để truy cập thông tin” dẫn đến nguồn dữ liệu đó không có ích. Nhiều nguồn dữ liệu có tính phí cần phải được xem xét về phí truy cập hoặc có giải pháp nhằm kích thích người đọc sẵn sàng truy cập để tìm hiểu. Để dữ liệu – thông tin - tri thức phát huy sức mạnh và vai trò của mình thì cần có môi trường. Quản trị dữ liệu – thông tin - tri thức là một lĩnh vực mà thế giới đã nhắc đến cách đây chục hàng năm nhưng lại là một lĩnh vực còn mới mẻ đối với Việt Nam nhất là trong môi trường quân đội của Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ô tô. Quản trị dữ liệu – thông tin giúp chúng ta chia sẻ, đánh giá, lưu giữ, sáng tạo và phát triển tri thức cho người đọc. Nó tạo ra môi trường để bất cứ cá nhân nào cũng có thể tiếp nhận, nắm giữ, chia sẻ, sáng tạo và ứng dụng để trở thành những con người trí thức có thể vận hành công việc ở các vị trí cụ thể. Giải pháp thứ hai: Tổ chức hội thảo, diễn đàn để tạo môi trường giao lưu, chia sẻ kiến thức cho độc giả. Chú trọng, quan tâm tới hoạt động NCKH, tìm hiểu thông tin của giảng viên, học viên trong Nhà trường. Về mặt tổ chức, từ các chuyên 623 PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – CÔNG NGHỆ SỐ - TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ... ngành, lĩnh vực khác nhau thành lập các tổ chuyên môn trực thuộc từng đơn vị trong Nhà trường để hướng các hoạt động độc giả là các giảng viên, học viên tích cực tham gia thảo luận nhằm góp phần giúp giảng viên, học viên chú trọng hơn về vị trí, tầm quan trọng NCKH, kiến thức chuyên ngành và giao lưu kiến thức với các ngành khác, các thông tin hữu ích cho ngành, môn học cho học viên. Các tổ chuyên môn trực thuộc Phòng Đào tạo của Nhà trường thường xuyên tổ chức đánh giá, phân tích và tiếp thu các ý kiến của các thành viên trong diễn đàn để đưa ra được những định hướng NCKH hàng năm cho giảng viên, các thông tin mới và định hướng ngành nghề mới trên thế giới cho học viên. Bên cạnh đó là đưa ra các biện pháp khuyến khích NCKH cho giảng viên và học viên để tạo được động lực cho giảng viên trau dồi kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy và cho học viên hăng say hơn trong lĩnh vực nghiên cứu, học tập của mình, góp phần đáp ứng cao cho nhu cầu sử dụng sau khi nhận nhiệm vụ công tác tại các đơn vị trong toàn quân. Giải pháp thứ ba: Tạo được sự thống nhất của các cấp, các ngành về tầm quan trọng của Dữ liệu – thông tin – tri thức trong thư viện Nhà trường. Các cấp, các ngành có quan điểm thống nhất về tầm quan trọng của dữ liệu – thông tin – tri thức trong thư viện nhà trường sẽ đưa ra được nhiều giải pháp cụ thể để xây dựng hệ thống dữ liệu – thông tin – tri thức trong thư viện nhà trường một cách toàn diện. Các giải pháp khuyến khích đội ngũ cán bộ, giảng viên có chất lượng tham gia tích cực vào việc tạo ra thêm nhiều nguồn dữ liệu – thông tin trong các ngành, nghề vào Thư viện Nhà trường để tạo ra nhiều môi trường phong phú từ các nguồn dữ liệu – thông tin phục vụ nghiên cứu, học tập, góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đó là đội ngũ cán bộ, giảng viên, giáo viên, học viên ở từng cấp, từng cương vị công tác, từng chức trách, nhiệm vụ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, sức khỏe tốt; có trình độ, trí tuệ, năng lực chuyên môn cao, đáp ứng sự phát triển của nhiệm vụ trong mọi tình huống. Thực tiễn cho thấy, môi trường hoạt động quân đội với những áp lực căng thẳng trong thực hiện các nhiệm vụ đã phần nào tác động, ảnh hưởng đến sự nhiệt tình, sức sáng tạo của không ít cán bộ, giảng 624 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM viên, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao. Để nguồn nhân lực này có điều kiện vươn lên tiếp thu, làm chủ nguồn dữ liệu – thông tin thì vấn đề quan trọng không chỉ coi trọng đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật mà cần phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề con người. Điều đó đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường phải quan tâm xây dựng lòng say mê, sự nhiệt tình, trách nhiệm cao của các lực lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với công tác giáo dục và đào tạo; bằng nhiều biện pháp tăng cường đưa họ vào các hoạt động thực tiễn ở các môi trường khác nhau để bồi dưỡng, rèn luyện và tạo điều kiện tốt nhất cho họ phát huy vai trò, khả năng của mình. Luôn quan tâm xây dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở trong các hoạt động; coi trọng việc tham khảo ý kiến các chuyên gia đầu ngành, cán bộ quản lý giỏi nhằm tôn trọng, khuyến khích và phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của họ trong các hoạt động, nhất là áp dụng việc khai thác nguồn dữ liệu – thông tin trong thư viện Nhà trường để tự học tập, nâng cao trình độ áp dụng tốt vào giảng dạy và các công trình NCKH. Cùng với đó, cần quan tâm phát triển hạ tầng kỹ thuật, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại theo hướng tăng cường cho cơ sở, ưu tiên việc trang bị cho các khoa giáo viên có các phòng học chuyên dùng, hệ thống thiết bị ảo, mô phỏng, các phần mềm giảng dạy, để nguồn nhân lực chất lượng cao có điều kiện học tập, vươn lên tiếp thu và ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 vào thiết kế nội dung bài giảng và nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích họ tự nghiên cứu, sáng tạo ra các phần mềm, thiết kế giáo án điện tử, bài giảng điện tử, tập hợp các kho tư liệu, để chia sẻ, trao đổi thông tin trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở phạm vi từng trường và liên kết giữa các nhà trường. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần xác định việc xây dựng dữ liệu – thông tin – tri thức trong Thư viện Nhà trường là khâu đột phá trong xây dựng phát triển giáo dục – đào tạo trong quân đội hiện nay. Thực hiện tốt nhiệm vụ này không chỉ có ý nghĩa trực tiếp đối với việc hoàn thành nhiệm vụ đào tạo của quân đội, mà còn gián tiếp đóng góp nguồn nhân lực có chất lượng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 625 PHÁT TRIỂN DỮ LIỆU – CÔNG NGHỆ SỐ - TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ... Giải pháp thứ tư: Tạo sự chuyển biến về nhận thức của các lực lượng về xây dựng và phát huy vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao ở các nhà trường quân đội trong bối cảnh cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0. Cơ quan tham mưu đào tạo trong nhà trường cần chủ động xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng phù hợp. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, tôn vinh những đóng góp của nguồn nhân lực chất lượng cao trong công tác giáo dục và đào tạo, nhất là trong công tác phát triển nguồn dữ liệu – thông tin trong Thư viện Nhà trường, từ đó tiếp tục gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và NCKH để tạo ra phong trào trong toàn đơn vị. Vấn đề quan trọng là phải vừa khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia tra cứu dữ liệu – thông tin trong thư viện bằng các hình thức tuyên truyền khác nhau, vừa đề xuất ra nhiều hoạt động thực tiễn để từng bước khẳng định tầm quan trọng của dữ liệu – thông tin trong công tác đào tạo và NCKH trong Nhà trường. KẾT LUẬN Như vậy, quản trị dữ liệu – thông tin - tri thức là một quá trình để có thể chia sẻ, thu nhận, lưu giữ, lựa chọn, và truyền tải tới người đọc, đóng góp vào quá trình tạo ra các sản phẩm NCKH, tạo ra của cải cho xã hội. Để quản trị được dữ liệu – thông tin - tri thức, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đó ưu tiên hàng đầu là: Thứ nhất, chúng ta cần xây dựng chính sách thu thập, xử lý, sàng lọc, lưu trữ truyền tải dữ liệu – thông tin cho người đọc theo hướng thực tế hơn và biến nó thành hiện thực chứ không chỉ nằm trên giấy tờ. Thứ hai, xây dựng và triển khai một chương trình quốc gia về quản trị dữ liệu – thông tin - tri thức triển khai rộng rãi trong các cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường... TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Huy Chương (2011), “Học liệu mở và hướng phát triển tài nguyên số, thư viện điện tử và vấn đề phát triển học liệu số”, tr.1-3. 2. Đại tá, TS. Vũ Đình Đắc (2019), “Giải pháp cơ bản xây dựng và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao ở các nhà trường quân đội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”.
File đính kèm:
- phat_trien_du_lieu_cong_nghe_so_trung_tam_tri_thuc_so_trong.pdf