Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hoà Bình
Hồ thuỷ điện Hòa Bình có diện tích mặt nước lớn nên có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt là phát triển nghề nuôi cá lồng. Nghiên cứu phân tích nhân tố ảnh hưởng đến
hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình dựa trên việc phân tích thang
đo xây dựng với 5 biến độc lập (điều kiện môi trường (MT), kỹ thuật nuôi (KT), chi phí sản xuất
(CP), con giống (CG), chính sách hỗ trợ (CS)) và 17 biến thành phần. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
biến CP có hệ số beta chuẩn hóa cao nhất (0,582) và có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất nuôi cá
lồng, tiếp theo là các biến CS (0,387), MT (0,349), KT (0,234), (CG) (0,198). Nghiên cứu cũng đưa
ra một số giải pháp liên quan đến kỹ thuật và chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động nuôi cá lồng
tại vùng hồ thuỷ điện Hòa Bình.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hoà Bình
71 PHÂN TÍCH NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NUÔI CÁ LỒNG TẠI VÙNG HỒ THUỶ ĐIỆN HOÀ BÌNH PHẠM THỊ THU HÀ, PHAN THỊ NGỌC DIỆP Tóm tắt: Hồ thuỷ điện Hòa Bình có diện tích mặt nước lớn nên có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là phát triển nghề nuôi cá lồng. Nghiên cứu phân tích nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình dựa trên việc phân tích thang đo xây dựng với 5 biến độc lập (điều kiện môi trường (MT), kỹ thuật nuôi (KT), chi phí sản xuất (CP), con giống (CG), chính sách hỗ trợ (CS)) và 17 biến thành phần. Kết quả nghiên cứu cho thấy, biến CP có hệ số beta chuẩn hóa cao nhất (0,582) và có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất nuôi cá lồng, tiếp theo là các biến CS (0,387), MT (0,349), KT (0,234), (CG) (0,198). Nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp liên quan đến kỹ thuật và chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hòa Bình. Từ khoá: Nhân tố, vùng hồ thuỷ điện Hòa Bình, năng suất nuôi cá lồng. ANALYSIS OF FACTORS AFFECTING CAGE FISH FARMING IN HOA BINH HYDROPOWER RESERVOIR Abstract: Hoa Binh hydropower reservoir has a large water surface area, so it has great potential for aquaculture development, especially cage fish farming. Research of the factors affecting cage fish farming in Hoa Binh hydropower reservoir, Hoa Binh province, was conducted in this study and was based on the analysis of construction scale using 5 independent variables, namely environmental conditions (EC), technical farming (TF), production costs (PC), breeding stock (BS), support policy (SP), and 17 component variables. The variable PC were found to have the highest normalized beta coefficient (0.582) and the greatest influence on cage fish productivity, followed by SP(0.387), EC (0.349), SP (0.387), TF (0.234), BS (0.198). The study also suggested some solutions related to techniques and policy planning to improve the efficiency of cage fish farming in Hoa Binh hydropower reservoir. Keywords: Factor, Hoa Binh hydropower reservoir area, cage fish farming productivity. 1. Đặt vấn đề Hồ thủy điện Hòa Bình có tổng diện tích mặt nước là 16.800 ha, trong đó địa phận Hòa Bình diện tích khoảng 8.900 ha, có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản [1]. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, thời gian qua hoạt động nuôi thủy sản trên vùng hồ thủy điện Hòa Bình rất phát triển, đặc biệt là hoạt động nuôi cá lồng bè [2]. Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2020, tổng số lồng nuôi trên vùng hồ thủy điện Hòa Bình (thuộc tỉnh Hòa Bình) là 4.700 lồng, sản lượng 4.600 tấn [1], số loài nuôi phong phú bao gồm cả loài bản địa (trắm cỏ, trắm đen, chép, rô phi.) và loài nhập nội (diêu hồng, tầm, lăng). Tuy nhiên, khó khăn trong phát triển nghề nuôi cá lồng ở vùng hồ Hoà Bình là nuôi nhỏ lẻ, phân tán, chưa có vùng nuôi tập trung được đầu Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 72 tư đồng bộ. Hình thức nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến là chủ yếu (chiếm 80%). Giá vật tư, con giống biến động, thị trường tiêu thụ bấp bênh. Bên cạnh đó, hoạt động nuôi cá lồng còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như nguồn nhân lực, điều kiện khí hậu, chất lượng nước, cơ chế chính sách hỗ trợ... Một số nghiên cứu của các tác giả trong nước chỉ ra các nhân tố thành phần ảnh hưởng đến năng suất nuôi cá lồng (như chi phí thức ăn, chi phí lao động, trình độ học vấn, khoảng cách giữa các lồng, tập huấn nuôi trồng) [3, 4]. Tuy nhiên, các nhân tố quan trọng khác như điều kiện môi trường nuôi, yếu tố khí hậu... chưa được đưa vào đánh giá. Chất lượng nước đã được chứng minh là đóng vai trò quan trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển của cá [5]. Trong nghiên cứu này, nhân tố Điều kiện môi trường và Con giống đã được đề xuất đưa vào đánh giá. Một số biến thành phần khác cũng được xem xét đánh giá (như chi phí lắp đặt lồng nuôi, các chương trình, dự án phát triển của địa phương...). Nghiên cứu thực hiện điều tra các hộ nuôi cá lồng ở thành phố Hoà Bình và huyện Đà Bắc. Đây là các khu vực thể hiện được đặc trưng về nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) của vùng hồ thủy điện Hòa Bình. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết và mô hình đề xuất Mô hình hàm sản xuất của Cobb-Douglas được sử dụng phổ biến để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất NTTS. Hàm sản xuất Cobb-Douglas mô tả mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng đầu ra theo công thức như sau [6]: 𝑌𝑖 = 𝐴 𝑋1 α1 𝑋2 α2 𝑋𝑘 α𝑘𝑒𝑢𝑖 (1) Trong đó: Yi: biến phụ thuộc; Xi (i = 1, 2... k): biến độc lập; αi (i = 1, 2 k): hệ số hồi quy; A: hằng số; ui: sai số; e: cơ số toán học (e = 2,71828). Ứng dụng mô hình hàm sản xuất Cobb- Douglas, nghiên cứu của M. Serajul Islam (1987) đã lựa chọn các nhân tố (giống cá, thức ăn tự nhiên và thức ăn nhân tạo, số người lao động, quy mô trang trại ... cá chép, cá nheo, cá chiên và cá trê; một số loài cá như lăng, trắm, chiên một vụ nuôi thường kéo dài từ một đến hai năm). Diện tích nuôi cá lồng dao động trong khoảng 50 - 1560 m2 và trung bình diện tích nuôi cá lồng của 135 hộ điều tra là 327,72 m2/hộ. Thể tích lồng nuôi dao động từ 10-120 m3/lồng. Kết quả điều tra thực tế cũng phù hợp với số liệu thống kê từ Chi cục thuỷ sản tỉnh Hoà Bình, trong đó số lượng lồng nuôi cá trắm (gồm cả trắm đen, trắm cỏ) là 1801 lồng, đạt sản lượng 1266,3 tấn vào năm 2019 là lớn nhất trong sự so sánh với các loài cá khác. Kết quả điều tra cũng cho thấy, thời điểm thả giống thường vào các tháng 2, 3, 7-10, cá biệt có hộ thả giống bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tỷ lệ sống của cá giống thường trên 60%. Thời gian một vụ thường kéo dài trong khoảng 6 tháng, 12 tháng và từ một đến hai năm (trong đó, tỉ lệ hộ nuôi một vụ trong vòng 6 tháng chiếm 26,67%; 12 tháng chiếm 33,33%; từ 1-2 năm chiếm 40%). Hầu hết các hộ nuôi được phỏng vấn cho biết trong quá trình nuôi có xảy ra dịch bệnh 0 0.2 0.4 0.6 0.8 1 1.2 0 1000 2000 3000 4000 5000 2015 2016 2017 2018 2019 2020 N ăn g su ất ( tấ n /l ồ n g) Số lồ n g n u ô i ( lồ n g) Số lồng nuôi Năng suất Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 76 (thời điểm hay xảy ra dịch bệnh là từ tháng 5 - 10), các biểu hiện bệnh thường gặp là nấm, thối mang, đốm đỏ, chóc vảy. Vì vậy, cách phòng bệnh và trị bệnh cho cá rất quan trọng giúp khắc phục được suy giảm sản lượng do dịch bệnh gây ra. 3.2. Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng 3.2.1. Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha cho thấy, 5 nhân tố có hệ số Cronbach’s Alpha nằm trong khoảng từ 0,711 đến 0,820. Hệ số tương quan biến tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0,40 (Bảng 4). Bảng 4. Bảng giá trị Cronbach's Alpha của các biến Kí hiệu Nhân tố Số lượng biến thành phần Hệ số Cronbach’s Alpha MT Điều kiện môi trường 3 0,807 KT Kỹ thuật nuôi 4 0,711 CG Con giống 3 0,719 CP Chi phí sản xuất 3 0,741 CS Chính sách hỗ trợ 4 0,820 Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), hệ số Cronbach’s Alpha > 0,80 là thang đo lường tốt, từ 0,70 – 0,80 là sử dụng được; chọn các biến thành phần có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,40 [12]. Do đó, nghiên cứu quyết định không loại biến quan sát nào và thang đo phù hợp sử dụng cho phân tích EFA tiếp theo. 3.2.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA Thông qua phân tích nhân tố khám phá nhằm xác định mối quan hệ của nhiều biến và tìm ra nhân tố đại diện cho các biến thành phần. Kết quả phân tích EFA sử dụng phép trích nhân tố là Principal Component với phép quay vuông góc Varimax và điểm dừng khi trích các yếu tố có Eigenvalue lớn hơn hoặc bằng 1 [12]. Kết quả kiểm định tương quan của các biến với nhau theo tổng thể dựa vào hệ số KMO và kiểm định Bartlett cho thấy, trị số KMO = 0,578 thỏa mãn điều kiện 0,5 ≤ KMO ≤ 1 nên việc phân tích các nhân tố là thích hợp với dữ liệu thực tế. Giá trị Sig trong kiểm định Bartlett là 0,000 < 0,05 (bác bỏ giả H0 là “các biến không tương quan với nhau”), chứng tỏ các biến thành phần có mối tương quan với nhau trong tổng thể và việc áp dụng phân tích nhân tố là thích hợp. Theo kết quả, hệ số Eigenvalues của cả 5 nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng đều lớn hơn 1 và tổng phương sai trích = 68,640% > 50% nên đạt yêu cầu. Với cỡ mẫu là 135 thì tiêu chuẩn hệ số tải thường lấy là 0,5 [13]. Kết quả phân tích cho thấy, biến KT1 có hệ số tải Factor Loading là 0,496 (không thỏa mãn điều kiện ≥ 0,5), do vậy biến KT1 được loại bỏ. Sau khi biến KT1 được loại bỏ, còn lại 16 biến thành phần, tiến hành phân tích nhân tố khám phá tương tự như các bước nêu trên. Kết quả thu được, hệ số KMO = 0,574 (thỏa mãn điều kiện 0,5 ≤ KMO ≤ 1). Giá trị Sig trong kiểm định Bartlett là 0,000 < 0,05, chứng tỏ các biến Phạm Thị Thu Hà, Phan Thị Ngọc Diệp - Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động 77 thành phần có mối tương quan với nhau trong tổng thể và việc áp dụng phân tích nhân tố là thích hợp. Kết quả hệ số Eigenvalues của cả 5 nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng đều lớn hơn 1 và tổng phương sai trích bằng 70,176% (> 50%) nên đạt yêu cầu. Kết quả kiểm định Factor Loading sau khi loại bỏ biến KT1 cho thấy, các biến thành phần đều lớn hơn 0,60 nên đạt yêu cầu. Như vậy, 16 biến thành phần của 5 biến độc lập được đưa vào phân tích ở bước tiếp theo (Bảng 5). Bảng 5. Phân tích nhân tố khám phá EFA biến độc lập Biến thành phần Các nhân tố tác động CS MT CP KT CG CS1 0,823 CS4 0,819 CS3 0,803 CS2 0,775 MT1 0,902 MT3 0,836 MT2 0,814 CP1 0,860 CP2 0,828 CP3 0,734 KT2 0,850 KT3 0,762 KT4 0,721 CG2 0,883 CG1 0,771 CG3 0,751 Eigenvalue 2,954 2,481 2,132 1,851 1,810 Phương sai trích (%) 18,463 33,968 47,295 58,865 70,176 3.2.3. Kết quả phân tích hồi quy đa biến Bước đầu tiên khi tiến hành phân tích hồi quy là xem xét các mối tương quan tuyến tính giữa biến phụ thuộc và từng biến độc lập, cũng như giữa các biến độc lập với nhau. Kết quả cho thấy, các biến độc lập có tương quan với biến phụ thuộc khá mạnh, các hệ số tương quan có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0,05). Như vậy, nghiên cứu tiếp tục tiến hành phân tích hồi quy. Tuy nhiên, kết quả phân tích cho thấy, một số hệ số tương quan giữa các biến độc lập khá mạnh, do đó cần quan tâm đến hiện tượng đa cộng tuyến khi phân tích hồi quy đa biến. Phân tích hồi quy được thực hiện với một biến phụ thuộc là Sự hài lòng của hộ nuôi về năng suất nuôi cá lồng với 5 biến độc lập được thể hiện ở Bảng 6. Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 78 Bảng 6. Phân tích trọng số hồi quy Trọng số hồi quy Mô hình Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số chuẩn hóa t Sig. B Sai số chuẩn Beta Hằng số -3,579 0,675 -5,299 0,000 Điều kiện môi trường 0,346 0,069 0,349 5,043 0,000 Kỹ thuật nuôi 0,239 0,070 0,234 3,421 0,001 Con giống 0,174 0,061 0,198 2,863 0,005 Chi phí nuôi 0,478 0,057 0,582 8,421 0,000 Chính sách hỗ trợ 0,478 0,085 0,387 5,602 0,000 R2 = 0,608; R2 hiệu chỉnh = 0,585; F = 26,059; Sig. F = 0,000 Kết quả hệ số xác định R2 = 0,608 và R2 hiệu chỉnh = 0,585 (Bảng 4) cho thấy, khoảng 58,5% ảnh hưởng của các nhân tố đang xét đến hoạt động nuôi cá lồng, còn lại 41,5% ảnh hưởng của các yếu tố khác ngoài mô hình. Kiểm định F cho thấy mức ý nghĩa Sig = 0,000, đồng thời trong kiểm tra đa cộng tuyến hệ số VIF của biến độc lập đều nhỏ hơn 2 (nghĩa là không có hiện tượng đa cộng tuyến). Các biến độc lập được đưa vào mô hình hồi quy đều có giá trị Sig. < 0,05 bao gồm MT (0,000), KT (0,001), CG (0,005), CP (0,000), CS (0,000). Phương trình hồi quy đa biến được xây dựng có dạng như sau: Y = 0,582X4 + 0,387X5 + 0,349X1 + 0,234X2 + 0,198X3 (3) Phân tích hồi quy chỉ ra các hệ số của mô hình đều mang dấu dương (mối quan hệ thuận giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc). Điều này cho thấy, cải thiện bất kỳ nhân tố nào cũng đều góp phần tích cực vào hiệu quả hoạt động nuôi cá lồng. Chi phí sản xuất có hệ số hồi quy lớn nhất (0,582) với mức ý nghĩa là 0,000 < 0,05, cho thấy biến này có tác động lớn nhất đến hoạt động nuôi cá lồng, cụ thể: nếu tăng chi phí sản xuất thêm 1 điểm (trong khi các biến khác vẫn giữ nguyên), thì hiệu quả hoạt động nuôi cá lồng tăng lên 0,582 điểm. Vì vậy, các cấp chính quyền cần có các chính sách hỗ trợ đầu tư về vốn cho các hộ dân nuôi cá lồng góp phần tăng hiệu quả của hoạt động nuôi cá lồng. Chính sách hỗ trợ phát triển nuôi cá lồng cũng ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng với hệ số hồi quy bằng 0,387 và mức ý nghĩa là 0,000 < 0,05%. Điều này cho thấy, các dự án đầu tư phát triển, tập huấn, chính sách hỗ trợ vốn và nghiên cứu con giống đều góp phần tích cực vào kết quả của hoạt động nuôi cá lồng. Điều kiện môi trường cũng là nhân tố tác động khá mạnh đến hoạt động nuôi cá lồng với hệ số hồi quy là 0,349 và mức ý nghĩa là 0,000 (< 0,05). Theo kết quả đánh giá của Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản (2019) [14], trong 6 thông số quan trắc (nhiệt độ, pH, NO3-, NO2-, NH4 +, DO) đo tại 30 điểm trên hồ thủy điện Hòa Bình thì thông số DO ở tầng giữa và tầng đáy tại các điểm đo đều < 4 mg/l (thấp hơn tiêu chuẩn Phạm Thị Thu Hà, Phan Thị Ngọc Diệp - Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động 79 là 6 mg/l), do vậy không phù hợp cho các loài sinh vật thủy sinh. Ở vùng hồ thuỷ điện Hoà Bình, cá được nuôi ở độ sâu đến 10m. Theo số liệu quan trắc thì cá sống ở độ sâu này sẽ bị thiếu oxy, vì vậy người nuôi phải lắp thêm máy sục khí ở các lồng cá để tăng hàm lượng ôxy hoà tan trong nước cho cá. Nhân tố kỹ thuật nuôi tác động đáng kể đến hoạt động nuôi cá lồng với hệ số hồi quy là 0,234 với mức ý nghĩa là 0,001 (< 0,05). Hiện nay diện tích nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến chiếm tỷ lệ rất lớn, chưa sử dụng nhiều lao động có trình độ và tay nghề cao, hiệu quả sử dụng lao động chưa cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần có thêm các giải pháp khuyến khích các hộ có điều kiện chuyển sang nuôi thâm canh và bán thâm canh (ưu tiên hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, vay vốn, tập huấn đào tạo kỹ thuật cho người dân...). Con giống là nhân tố tác động đáng kể đến hoạt động nuôi cá lồng với hệ số hồi quy là 0,198 và mức ý nghĩa là 0,005 (< 0,05). Toàn tỉnh Hòa Bình hiện có 03 cơ sở sản xuất và ươm nuôi cá giống, các cơ sở chủ yếu cho sinh sản nhân tạo và ươm nuôi các giống cá (trắm cỏ, chép, mè, trôi, rô phi, lăng chấm, trắm đen...), chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu con giống, còn lại chủ yếu được nhập từ các tỉnh lân cận như Phú Thọ, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Nội [1]. Vì vậy, cần kiểm soát chất lượng con giống đầu vào được nhập từ các nơi khác và đồng thời sản xuất cá giống đảm bảo cung cấp nguồn cá giống chất lượng cho sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, giá trị và chất lượng sản phẩm. 4. Kết luận Dựa trên cơ sở lý thuyết hàm sản xuất của Cobb-Douglas, nghiên cứu đã xây dựng được 5 nhân tố chính (Điều kiện môi trường, Kỹ thuật nuôi, Con giống, Chi phí sản xuất, Chính sách hỗ trợ) và 17 biến thành phần tương ứng ảnh hưởng tới hoạt động nuôi cá lồng ở vùng hồ thuỷ điện Hoà Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố Chi phí sản xuất có ảnh hưởng mạnh nhất, nhân tố Con giống ít ảnh hưởng nhất đến hoạt động nuôi cá lồng. Khoảng 58,5% ảnh hưởng của các nhân tố đang xét đến hoạt động nuôi cá lồng, còn lại 41,5% là do ảnh hưởng của các yếu tố khác ngoài mô hình. Vì vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể xem xét bổ sung thêm với nhiều biến thành phần khác vào mô hình đánh giá. Đây là một hướng đi có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động nuôi cá lồng ở vùng hồ thuỷ điện Hoà Bình. Dựa trên kết quả đạt được, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hòa Bình bao gồm: - Các cấp chính quyền cần tăng cường nâng cao kỹ thuật nuôi cá lồng cho các hộ dân (thông qua tập huấn, các dự án đầu tư hợp tác phát triển nuôi cá lồng giữa doanh nghiệp và các hộ dân). - Phát triển các chính sách hỗ trợ, đầu tư chi phí cho hoạt động nuôi cá lồng (bằng cách cho vay vốn đầu tư, hỗ trợ chi phí lắp đặt lồng nuôi, con giống và nguồn thức ăn). - Định kỳ tiến hành đo đạc một số thông số môi trường nước như pH, nhiệt độ, DO... thường xuyên vệ sinh lồng nuôi, lắp đặt thiết bị máy sục khí để tăng hàm lượng oxy hoà tan trong nước... - Đầu tư phát triển nghiên cứu các giống cá phù hợp với điều kiện tại địa phương, đảm bảo chế độ ăn và phòng ngừa dịch bệnh, kịp thời báo cho cơ quan chuyên môn tư vấn, hỗ trợ khi có các tình huống bất thường để giảm thiểu thiệt hại. Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) – Tháng 6/2021 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chi cục Thủy sản tỉnh Hòa Bình (2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo Tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2016, 2017, 2018, 2019 và triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm 2017, 2018, 2019, 2020. 2. Tỉnh ủy Hòa Bình (2014), Nghị quyết số 12 – NQ/TU của Ban thường vụ tỉnh ủy về phát triển nuôi cá lồng, bè hồ thủy điện Hòa Bình, giai đoạn 2014 – 2020. 3. Lưu Thị Thảo (2019), Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, 1, tr. 73 – 80. 4. Lưu Thị Thảo, Lê Đình Hải (2019), Phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thuỷ điện Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình, Tạp chí khoa học và công nghệ Lâm nghiệp. Kinh tế và chính sách. 3, 191-2000. 5. Rohasliney Hashimab & Noor Fakira Ismaila. (2015), Fish biomass in relation to water quality index as an indication of fisheries productivity of four selected fish species along the Galas River, Kelantan, Malaysia, Procedia Environmental Sciences, 30, pp. 38 – 43. 6. Ronald D. Zweig, John D. Morton, Macol M. Stewart. (1999), Source Water Quality for Aquaculture: A Guide for Assessment, Washington, D.C: The World Bank. 7. Islam, S., Rasul, T., Alam, J. B., & Haque, M. A. (2010), Evaluation of Water Quality of the Titas River Using NSF Water Quality Index, Journal of Scientific Research, 3(1), pp. 151 – 159, doi:10.3329/jsr.v3i1.6170. 8. David E. Antwi, John K.M. Kuwornu, Edward E. Onumah & Ram C. Bhujel (2016), Productivity and constrants analysis of commercial tilapia farms in Ghana, Kasetsart Journal of Social Sciences, 38(3), pp.282 – 290. 9. Hoàng Quang Thành & Nguyễn Đình Phúc (2012), Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi tôm ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, 72B(3), tr. 317 – 324. 10. Tabachnick Barbara G và Fidell Linda S (1996), Using multivariate statistics , Northridge, Cal.: Harper Collins. 11. Hair Joseph F, Anderson RE, Tatham RL, và Black WC (1998), Multivariate Data Analysis Prentice Hall, Upper Saddle River, NJ, số 730. 12. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Hồng Đức 2008. 13. Hair Joseph F, Anderson Rolph E, Babin Barry J, và Black Wiiliam C (2010), Multivariate data analysis: A global perspective (Vol. 7), Upper Saddle River, NJ: Pearson. 14. Viện Kinh tế và Quy hoạch Thuỷ sản (2019), Đánh giá hiện trạng môi trường và sức tải môi trường ở hồ chứa thuỷ điện Hoà Bình, Báo cáo chuyên đề. Thông tin tác giả: Phạm Thị Thu Hà - Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Email: phamthithuha.hus@gmail.com; Điện thoại: 0948813688 Địa chỉ liên hệ: 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi. Phan Thị Ngọc Diệp, Viện Kinh tế và Quy hoạch Thuỷ sản. Nhật ký tòa soạn Ngày nhận bài: 23/3/2021 Biên tập: 5/2021
File đính kèm:
- phan_tich_nhan_to_anh_huong_den_hoat_dong_nuoi_ca_long_tai_v.pdf