Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam

Bài viết giới thiệu về mức rào cản lên các nhân tố

ảnh hưởng tới ý định sử dụng Tài nguyên giáo dục mở (Open

Educational Resources - OER) của sinh viên tại một số trường đại

học ở Việt Nam. Dựa trên mô hình Thuyết hợp nhất chấp nhận

và sử dụng công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use of

Technology - UTAUT) của Venkatesh (2003), bài viết đã phân tích

và triển khai những nhân tố có ảnh hưởng tới ý định sử dụng OER

của sinh viên trong môi trường đại học. Từ đó, tiến hành khảo

sát và đánh giá mức độ rào cản lên các nhân tố ảnh hưởng tới ý

định này thế nào. Những nhân tố ảnh hưởng tới ý định sử dụng

OER của sinh viên, được tác giả đề cập tới là “Kỳ vọng hiệu suất”,

“Kỳ vọng dễ sử dụng”, “Ảnh hưởng từ Giảng viên”, “Ảnh hưởng từ

bạn bè”, “Ảnh hưởng từ nhà trường”, “Các điều kiện tạo thuận lợi”.

Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát sinh viên ở 8 trường đại học

ở 3 miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam, tuy dữ liệu khảo sát trên có

thể chưa đại diện cho toàn bộ sinh viên ở các trường đại học ở

Việt Nam, nhưng nghiên cứu cũng cho thấy những rào cản đáng

quan tâm của các trường đại học ở Việt Nam đối với việc đưa OER

vào chương trình đào tạo của trường. Tác giả kỳ vọng bài viết là

tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu tiếp theo về việc

triển khai áp dụng OER tại các trường đại học ở Việt Nam.

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang baonam 7440
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam

Những rào cản tới ý định sử dụng tài nguyên giáo dục mở của sinh viên tại một số trường đại học ở Việt Nam
NHỮNG RÀO CẢN TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ...
CỦA SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Đào Thiện Quốc1* - Nguyễn Thị Thanh Nhàn2**
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu về mức rào cản lên các nhân tố 
ảnh hưởng tới ý định sử dụng Tài nguyên giáo dục mở (Open 
Educational Resources - OER) của sinh viên tại một số trường đại 
học ở Việt Nam. Dựa trên mô hình Thuyết hợp nhất chấp nhận 
và sử dụng công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use of 
Technology - UTAUT) của Venkatesh (2003), bài viết đã phân tích 
và triển khai những nhân tố có ảnh hưởng tới ý định sử dụng OER 
của sinh viên trong môi trường đại học. Từ đó, tiến hành khảo 
sát và đánh giá mức độ rào cản lên các nhân tố ảnh hưởng tới ý 
định này thế nào. Những nhân tố ảnh hưởng tới ý định sử dụng 
OER của sinh viên, được tác giả đề cập tới là “Kỳ vọng hiệu suất”, 
“Kỳ vọng dễ sử dụng”, “Ảnh hưởng từ Giảng viên”, “Ảnh hưởng từ 
bạn bè”, “Ảnh hưởng từ nhà trường”, “Các điều kiện tạo thuận lợi”. 
Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát sinh viên ở 8 trường đại học 
ở 3 miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam, tuy dữ liệu khảo sát trên có 
thể chưa đại diện cho toàn bộ sinh viên ở các trường đại học ở 
Việt Nam, nhưng nghiên cứu cũng cho thấy những rào cản đáng 
quan tâm của các trường đại học ở Việt Nam đối với việc đưa OER 
vào chương trình đào tạo của trường. Tác giả kỳ vọng bài viết là 
tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu tiếp theo về việc 
triển khai áp dụng OER tại các trường đại học ở Việt Nam.
Từ khóa: Tài nguyên giáo dục mở; Open Educational Resources; OER; 
Rào cản ý định sử dụng OER; Nhân tố ảnh hưởng tới ý định sử dụng OER
∗ Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
** Trường Đại học Mở Hà Nội.
378
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
1. LỜI NÓI ĐẦU
Vai trò và lợi ích của Tài nguyên giáo dục mở (OER) đã được 
UNESCO khẳng định, tài nguyên giáo dục mở (OER) là sự đầu tư cho 
sự phát triển giáo dục bền vững, đảm bảo chất lượng giáo dục toàn 
diện, công bằng và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi 
người. Lợi ích từ đầu tư cho mô hình OER trong giáo dục nói riêng 
và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, có thể kể đến những lợi ích 
cơ bản của OER như: Khai thác tối đa nguồn tri thức bởi chính sách 
cộng tác, chia sẻ cởi mở tri thức; Cho phép tối đa hóa khả năng chia 
sẻ nội dung theo cách thức minh bạch, đạo đức, bảo vệ quyền tác giả; 
Mang lại nhiều cơ hội trao đổi, cộng tác và chia sẻ với đồng nghiệp trên 
phạm vi toàn cầu... UNESCO cũng đưa ra định nghĩa về OER, bao gồm 
chương trình giảng dạy, tài liệu khóa học, sách giáo khoa, video phát 
trực tuyến, ứng dụng đa phương tiện, podcast, bản đồ... được thiết kế 
để sử dụng cho việc giảng dạy và học tập, có sẵn cho giáo viên và sinh 
viên sử dụng mà không cần phải trả tiền bản quyền hay phí giấy phép.
Nghị quyết số 29-NQ/TW (Ban chấp hành Trung ương, 2013) của 
Trung ương khóa 8, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo 
đã chỉ rõ đường lối phát triển giáo dục của Việt Nam trong giai đoạn đổi 
mới của đất nước, trong đó nói rất rõ về hướng phát triển giáo dục mở, 
học tập suốt đời. OER nguồn tài nguyên đáp ứng tốt những yêu cầu của 
NQ-29/TW, song triển khai OER vào trong các trường đại học thế nào, có 
những rào cản gì ảnh hưởng tới ý định sử dụng OER của sinh viên. Tìm 
ra những rào cản và mức độ tác động của những rào cản tới những nhân 
tố ảnh hưởng tới ý định sử dung OER của sinh viên, giúp các trường đại 
học có phương án đầu tư hiệu quả trong việc triển khai áp dụng OER.
Năm 2019, có đến 56% các trường cao đẳng và đại học ở Hoa Kỳ đang 
sử dụng sách giáo khoa miễn phí từ OpenStax, trong ít nhất một khóa 
học và đã tiết kiệm 200 triệu USD, từ việc sử dụng OER của OpenStax 
(Rhea Kelly, 2019). OpenStax là một sáng kiến công nghệ giáo dục phi 
lợi nhuận, có trụ sở tại Đại học Rice, tất cả sách của Openstax đều gắn 
giấy phép CC (Creative Commons) (Wikihow, 2019), đáp ứng là nguồn 
tài nguyên giáo dục mở. Điều đó tương đương với 5.900 tổ chức với gần 
ba triệu sinh viên tại Hoa Kỳ đang sử dụng OER của OpenStax, nhà 
xuất bản có trụ sở tại Đại học Rice. Nhưng ở Việt Nam, hiện tại chưa có 
trường đại học nào chính thức đưa OER vào chương trình đào tạo, giảng 
379
NHỮNG RÀO CẢN TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ...
dạy chính thức. Điều này cho thấy giáo dục đại học Việt Nam đang thực 
sự lãng phí khi chưa sử dụng đến nguồn OER mà thế giới đang dùng, 
trong khi các trường phải chi phí cao cho việc mua tài liệu nước ngoài.
Mục tiêu của bài viết nhằm xác định những nhân tố ảnh hưởng tới 
ý định sử dụng OER của sinh viên và mức độ tác động của các rào cản 
lên các nhân tố đó. Qua đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị đối với 
các trường đại học ở Việt Nam trong việc triển khai áp dụng OER. 
2. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG OER CỦA SINH VIÊN 
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
* Trên thế giới
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu đán ... N CỨU
Mô hình UTAUT
Lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified 
Theory of Acceptance and Use of Technology - UTAUT) của Venkatesh 
và các cộng sự (Venkatesh và cộng sự, 2003), giải thích ý định hành vi 
và hành vi sử dụng của người dùng đối với công nghệ thông tin. Mô 
hình UTAUT tập trung nghiên cứu 4 nhân tố chính: Kỳ vọng hiệu suất 
(Performance Expectancy), Kỳ vọng dễ sử dụng (Effort Expectancy), 
Ảnh hưởng xã hội (Social Influence) và Các điều kiện hỗ trợ (Facilitating 
383
NHỮNG RÀO CẢN TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ...
Conditions), bên cạnh đó là các biến kiểm soát về nhân khẩu học (Giới 
tính, tuổi, kinh nghiệm và tình nguyện). 
Hình 1. Mô hình hợp nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) 
(Venkatesh và cộng sự, 2003)
Các nhân tố chính trong cấu trúc khung lý thuyết UTAUT được 
mô tả, diễn giải trong Bảng 2 dưới đây.
Bảng 2. Mô hình UTAUT và sự hợp nhất nhân tố từ tám mô hình gốc
STT Nhân tố Mô tả nhân tố
1 Kỳ vọng hiệu suất
Mức độ một cá nhân tin rằng sử dụng hệ thống sẽ giúp họ 
đạt được hiệu suất trong công việc
2 Kỳ vọng dễ sử dụng Mức độ dễ sử dụng của hệ thống.
3 Ảnh hưởng xã hội
Mức độ một cá nhân nhận thấy những người khác có ảnh 
hưởng quan trọng tới họ, tin họ nên sử dụng hệ thống mới.
4 Các điều kiện hỗ trợ
Nhận thức của người dùng đối với sự sẵn sàng về nguồn lực 
và sự hỗ trợ cho việc thực hiện
(Nguồn: Attuquayefio và Addo, 2014)
Đề xuất mô hình trong nghiên cứu 
Như trên đã đề cập, những nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử 
dụng OER của sinh viên qua các nghiên cứu trên thế giới tập trung 
vào nhóm nhân tố “Kỳ vọng hiệu suất”, “Kỳ vọng dễ sử dụng”, “ảnh 
hưởng xã hội” và “Các điều kiện hỗ trợ” mà mô hình UTAUT thể hiện. 
Ngoài ra, như trên đã đề cập, bối cảnh cho nghiên cứu này là sinh 
viên trong môi trường đại học, nển tác động ảnh hưởng xã hội được 
cụ thể hóa, phân tách thành các nhân tố mới (Nguyễn Văn Thắng, 
2013) như “ảnh hưởng từ giảng viên”, “ảnh hưởng từ bạn bè” và “ảnh 
384
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
hưởng từ nhà trường”. Như vậy, những nhân tố đề xuất trong mô 
hình nghiên cứu này bao gồm 6 nhân tố: “Kỳ vọng hiệu suất”, “Kỳ 
vọng dễ sử dụng”, “ảnh hưởng từ giảng viên”, “ảnh hưởng từ bạn 
bè”, “ảnh hưởng từ nhà trường” và “Các điều kiện hỗ trợ”. 
Ngoài ra, Trong mô hình UTAUT, biến “Ý định sử dụng” chịu tác 
động từ các biến độc lập như “Kỳ vọng hiệu suất”, “Kỳ vọng dễ sử 
dụng”, “Ảnh hưởng xã hội” và là biến trung gian tác động tới biến phụ 
thuộc “Sử dụng thực tế”. Nhưng trên thực tế hiện nay khái niệm OER 
trong các trường đại học ở Việt Nam còn khá mới mẻ, chưa trường đại 
học nào có chính sách đưa nguồn OER vào làm nguồn tài liệu giảng 
dạy chính thức, có thể nói việc sử dụng OER trong các trường đại học 
ở Việt Nam là chưa được triển khai. Vì vậy, nghiên cứu này chỉ tìm 
hiểu những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi “ý định sử dụng OER”, 
mà không nghiên cứu tới “hành vi sử dụng thực tế”. Do đó, biến phụ 
thuộc của mô hình nghiên cứu trong mô hình nghiên cứu của luận án 
là “Ý định sử dụng OER”.
Mô hình nghiên cứu được đề xuất như hình 2 dưới đây:
Hình 2. Mô hình nghiên cứu ý định sử dụng OER của sinh viên
Các biến trong mô hình nghiên cứu ý định sử dụng OER của sinh 
viên (Hình 2) được diễn giải như ở Bảng 3 dưới đây.
385
NHỮNG RÀO CẢN TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ...
Bảng 3. Diễn giải các nhân tố trong mô hình nghiên cứu ý định sử dụng 
OER của sinh viên 
STT Biến độc lập Diễn giải
1
Kỳ vọng hiệu suất
 (Performance Expectancy - PE)
Mức độ sinh viên kỳ vọng việc sử dụng OER 
 sẽ mang lại hiệu quả trong học tập
2
Kỳ vọng dễ sử dụng
 (Effort Expectancy - EE)
Mức độ sinh viên kỳ vọng vào sử dụng OER là 
dễ dàng
3
Ảnh hưởng từ bạn bè
 (Friend Influence FI)
Mức độ ảnh hưởng từ bạn bè tới việc sử dụng 
OER của sinh viên
4
 (Lecturer Influence - LI)
Ảnh hưởng từ giảng viên
Mức độ ảnh hưởng từ giảng viên tới việc sử 
dụng OER của sinh viên
5
Ảnh hưởng từ Nhà trường
 (School Influence - SI)
Mức độ ảnh hưởng từ chính sách của nhà 
trường tới việc sử dụng OER của sinh viên
6
Các điều kiện hỗ trợ
 (Facilitating Conditions - FC)
Mức độ đáp ứng hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật thuận 
lợi cho sử dụng OER của sinh viên.
7
Ý định sử dụng OER
 (Intention to Use OER - IU)
Mức độ có ý định sử dụng OER của sinh viên
Từ mô hình nghiên cứu được đề xuất, các giả thuyết nghiên cứu 
được đưa ra như sau:
- Giả thuyết 1 (H1): Sử dụng OER sẽ nâng cao kết quả học tập, điều 
này có mối tương quan thuận với ý định sử dụng OER của sinh viên.
- Giả thuyết 2 (H2): Việc sử dụng OER sẽ dễ dàng, điều này có mối 
tương quan thuận với ý định sử dụng OER của sinh viên.
- Giả thuyết 3 (H3): Ảnh hưởng của bạn bè, điều này có mối tương 
quan thuận với ý định sử dụng OER của sinh viên.
- Giả thuyết 4 (H4): Ảnh hưởng của giảng viên, điều này có mối quan 
hệ thuận với ý định sử dụng OER của sinh viên. 
- Giả thuyết 5 (H5): Ảnh hưởng của nhà trường, điều này có mối 
tương quan thuận với ý định sử dụng OER của sinh viên.
- Giả thuyết 6 (H6): Các điều kiện hỗ trợ về mặt kỹ thuật, điều này có 
mối tương quan thuận với ý định sử dụng OER của sinh viên.
386
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ MỨC ĐỘ RÀO CẢN TỚI CÁC NHÂN TỐ 
ẢNH HƯỞNG TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG OER CỦA SINH VIÊN TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Từ những nhân tố được đề xuất trong mô hình nghiên cứu, tác giả 
đã có những khảo sát sinh viên ở 08 trường đại học, đại diện cho sinh 
viên các 3 miền (Bắc, Trung, Nam) Việt Nam. Với bộ hỏi khảo sát gồm 
35 câu hỏi, với 640 phiếu hỏi thu về, trong đó có 526 phiếu hợp lệ, đủ 
điều kiện để đưa vào phân tích. Bộ câu hỏi dựa trên 06 biến độc lập sẽ 
tác động thế nào tới biến phụ thuộc “Ý định sử dụng OER”, như Hình 
2 đã nêu.
Qua phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS cho thấy:
Tác động của các nhân tố
Thứ nhất: Các biến điều khiển như “Tuổi”, “Giới tính”, “Kinh 
nghiệm”, “Tình nguyện” qua kiểm định T-test cho thấy chỉ số kiểm 
định levene đều có giá trị sig >0.05, nghĩa là không có sự khác biệt. 
Điều đó có nghĩa các biến điều khiển này không có ý nghĩa tác động 
tới các biến độc lập. 
Thứ hai: Kết quả kiểm định thang đo cho mô hình bao gồm 07 
nhân tố, với 06 nhân tố độc lập: “Kỳ vọng hiệu suất, “Kỳ vọng dễ sử 
dụng”, “Ảnh hưởng từ bạn bè”, “Ảnh hưởng từ giảng viên”, “Ảnh 
hưởng từ nhà trường”, “Các điều kiện hỗ trợ” và “Ý định sử dụng 
OER”, đều chấp nhận được, với các hệ số Cronbach’s Alpha >0.6, các 
hệ số Cronbach’s Alpha tổng thể nằm trong khoảng 0.7-0.9, đồng thời 
hệ số tương quan biến tổng đều >0.3. Các nhân tố này sẽ được đưa vào 
phân tích nhân tố khám phá EFA. 
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy mức độ quan trọng của các 
nhân tố độc lập tác động đến nhân tố phụ thuộc (Ý định sử dụng OER) 
như thế nào. Cụ thể hàm số hồi như sau:
IU = -1.343 + 0.243*PE + 0.344*EE + 0.2*FI + 0.252*LI + 
0.214*SI+ 0.204*FC
Hàm hồi quy trên cho thấy mức độ tác động của các nhân tố tác 
động tới ý định sử dụng OER của sinh viên như sau: Nhân tố “Kỳ vọng 
dễ sử dụng” có tác động lớn nhất với hệ số Belta = 0.344, và nhân tố 
“Ảnh hưởng từ bạn bè” có tác động thấp nhất với hệ số Belta = 0.2.
387
NHỮNG RÀO CẢN TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ...
Mức rào cản của các nhân tố
Thang đo trong mô hình nghiên cứu là thang đo Likert 5 mức. (1) 
Hoàn toàn không đồng ý, (2) Không đồng ý, (3) trung lập, (4) đồng ý, 
(5) hoàn toàn đồng ý. Như vâỵ, từ giả thiết (H1H6) cùng với mức trả 
lời không đồng thuận (mức (1) và mức (2)) trong bảng khảo sát cho 
thấy mức độ rào cản đối với các nhân tố ảnh hưởng tới ý định sử dụng 
OER của sinh viên. Mức độ rào cản được tính bằng tỷ lệ % của tổng các 
phương án trả lời không đồng thuận trên tổng các phương án trả lời 
cho cả 5 mức, đối với từng nhân tố. Bảng 3 cho thấy tỷ lệ này.
Ký hiệu viết tắt tiếng Anh của các trường:
- NEU: Đại học Kinh tế Quốc dân
- BA: Học viện Ngân hàng
- TUEBA: Trường Đại học Kinh tế - Đại học Thái Nguyên
- DUE: Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
- UEH: Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
- NTTU: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
- FTU: Trường Đại học Ngoại thương
- VUC: Trường Đại học Thương mại
Bảng 3 . Tổng hợp khảo sát sơ bộ rào cản sử dụng OER tại 08 trường đại học
STT Yếu tố ảnh hưởng
Mức độ không đồng tình của sinh viên thông qua các biến 
quan sát ở tám trường (Tỷ lệ %)
NEU BA TUEBA DUE UEH NTTU FTU VUC
1 Kỳ vọng hiệu suất 4% 5% 8% 0% 3% 5% 3% 4%
2
Kỳ vọng sử dụng 
dễ dàng
5% 7% 12% 3% 5% 4% 2% 7%
3 Ảnh hưởng từ bạn bè 10% 7% 9% 4% 7% 5% 10% 7%
4 Ảnh hưởng từ giáo viên 17% 15% 17% 3% 10% 9% 14% 16%
5
Ảnh hưởng từ nhà 
trường
13% 16% 12% 4% 10% 9% 15% 14%
6 Các điều kiện hỗ trợ 6% 5% 11% 0% 4% 5% 7% 4%
388
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Từ mức độ rào cản khác nhau giữa các trường cho thấy, các trường 
cần có sự ưu tiên lựa chọn khác nhau để giải quyết các vấn đề. Ví dụ, 
đối với NEU, tỷ lệ sinh viên không đồng tình với việc ảnh hưởng của 
giáo viên đến ý định sử dụng OER của sinh viên, lên tới 17%, cao nhất 
trong tám trường. Điều đó cho thấy giảng viên của NEU chưa tác động 
nhiều tới sinh viên trong việc nâng cao ý định sử dụng OER. Từ đó, 
NEU cần tập trung nhiều hơn để giải quyết điều này. Ngược lại chỉ số 
không đồng thuận vào Kỳ vọng hiệu suất của OER là thấp (4%) điều 
đó cho thấy sinh viên đánh giá cao nguồn OER. Từ đó, NEU không cần 
đầu tư quá nhiều vào việc nâng cao nhận thức của sinh viên về tính 
hiệu quả của OER. Bảng 4 cũng cho thấy sự giống nhau ở các trường 
về mức độ rào cản từ giảng viên tới ý định sử dụng OER của sinh viên, 
mức này cao hơn hẳn so với các mức ở các yếu tố khác. Điều này cũng 
cho thấy giảng viên ở các trường đại học ở Việt Nam nói chung, chưa 
có tác động nhiều tới sinh viên về ý định sử dụng OER.
5. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Qua tổng quan, đánh giá và phân tích dữ liệu về những nhân tố 
ảnh hưởng tới ý định sử dụng OER của sinh viên ở một số trường đại 
học ở Việt Nam, cho thấy các trường cần có chiến lược rõ ràng trong, 
đánh giá đúng mức độ rào cản sử dụng nguồn tài nguyên giáo dục mở 
để có hướng tập trung đầu tư hiệu quả. Một số khuyến cáo chung cho 
các trường đại học như sau:
Thứ nhất, nhà trường cần đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức về tài 
nguyên giáo dục mở cho sinh viên, giảng viên thông qua các lớp tập huấn 
từ thư viện của trường, đưa tới giảng viên, sinh viên kho tri thức mở vô 
tận cũng như cách sử dụng đúng cách nguồn tài nguyên này. Từ đó nâng 
cao kỳ vọng của sinh viên vào tính hiệu quả của OER trong học tập.
Thứ hai, thư viện trường đại học, cần tăng cường việc hướng 
dẫn sinh viên sử dụng nguồn OER bằng nhiều hình thức như mở lớp 
offline miễn phí, đưa tài liệu hướng dẫn lên Website thư viện. Từ đó, 
tạo điều kiện để sinh viên cảm nhận việc sử dụng OER là dễ dàng.
Thứ ba, Đoàn thanh niên nhà trường cần có sinh hoạt về OER, qua 
đó giáo dục các bạn để giác ngộ và hướng dẫn bạn bè sử dụng OER.
Thứ tư, các khoa cần hướng giảng viên vào việc sử dụng OER làm tài 
liệu trong giảng dạy, cũng như tham khảo nghiên cứu. Điều đó sẽ giúp sinh 
viên tìm đến nguồn OER để tham khảo tài liệu trong quá trình học tập.
389
NHỮNG RÀO CẢN TỚI Ý ĐỊNH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ...
Thứ năm, Ban Giám hiệu nhà trường cần thành lập bộ phận 
chuyên trách để quản lý, phát triển nguồn OER cho trường. Qua đó, 
nhà trường có chính sách cho việc sử dụng OER cho vấn đề đào tạo 
của nhà trường.
Thứ sáu, tuy hệ thống mạng Internet của Việt Nam nói chung, nhất là 
các trường đại học nói riêng đã khá tốt, các trường đại học đã có những đầu 
tư nhất định cho nền tảng công nghệ thông tin của mình. Song, nhà trường 
cần củng cố sự ổn định của mạng Wifi cho truy cập Internet tốt hơn nữa, 
giúp sinh viên không ngại khi truy cập các nguồn OER trên thế giới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Attuquayefio Samuel và Hillar Addo (2014), ‘Using the UTAUT model 
to analyze students’ ICT adoption’, International Journal of Education and 
Development Using ICT, số 10, tập 3.
2. Ban chấp hành Trung ương (2013), ‘Nghị quyết Số 29-NQ/TW: “Về đổi 
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”’, Tạp chí Xây dựng Đảng.
3. Coleman-Prisco Virginia (2017), ‘Factors influencing faculty innovation 
and adoption of open educational resources in United States higher 
education’, International Journal of Education and Human Developments, số 
3, tập 4, tr. 1-12.
4. Colvard Nicholas B, C Edward Watson và Hyojin Park (2018), ‘The Im-
pact of Open Educational Resources on Various Student Success Metrics’, 
International Journal of Teaching and Learning in Higher Education, số 30, tập 
2, tr. 262-276.
5. Cox Glenda và Henry Trotter (2017), Factors shaping lecturers’ adoption of OER 
at three South African universities): NXB African Minds, International Devel-
opment Research Centre & Research on Open .
6. Đỗ Văn Hùng, Nghiêm Xuân Huy, Trần Đức Hòa, Phạm Tiến Toàn, Nguyễn 
Kim Dung, Nguyễn Kim Lân và Bùi Thanh Thủy (2019), "Xây dựng và khai 
thác Tài nguyên giáo dục mở: Báo cáo khảo sát tài nguyên giáo dục mở 
trong giáo dục đại học Viêt Nam", Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 469.
7. Dulle Frankwell W và MK Minishi-Majanja (2011), ‘The suitability of the 
Unified Theory of Acceptance and Use of Technology (UTAUT) model in 
open access adoption studies’, Information development, số 27, tập 1, tr. 32-45.
390
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
8. Huang Geng, Zhenxiang Zeng và Liqun Zhong (2011), ‘A study on learner’s 
acceptance behavior to OER based on UTAUT modle’, Kỷ yếu 2011 Interna-
tional Conference on Electrical and Control Engineering, IEEE, tr. 1940-1942.
9. Mtebe Joel S và Roope Raisamo (2014), ‘Investigating perceived barriers to 
the use of open educational resources in higher education in Tanzania’, The 
International Review of Research in Open and Distributed Learning, số 15, tập 2.
10. Nguyễn Văn Thắng (2013), ‘Thực hành nghiên cứu trong kinh tế và quản 
trị kinh doanh’, NXB Đại học kinh tế quốc dân.
11. Padhi Nayantara (2018), ‘Acceptance and usability of OER in India: An 
investigation using UTAUT model’, Open Praxis, số 10, tập 1, tr. 55-65.
12. Rhea Kelly (2019), More than Half of All U.S. Colleges and Universities Using 
OpenStax Textbooks, từ liên kết:
 https://campustechnology.com/articles/2019/09/11/more-than-half-of-all-
us-colleges-and-universities-using-openstax-textbooks.aspx?m=1 
13. Venkatesh Viswanath, MG Morris, FD Davis và GB Davis (2003), ‘Unified 
theory of acceptance and use of technology (UTAUT)’, Management Infor-
mation Systems Quarterly, số 27, tr. 425-478.
14. Wikihow (2019), OpenStax, từ liên kết: https://www.wikihow.vn/Tìm-
sách-giáo-khoa-được-cấp-phép-mở-trên-OpenStax 

File đính kèm:

  • pdfnhung_rao_can_toi_y_dinh_su_dung_tai_nguyen_giao_duc_mo_cua.pdf