Những dấu ấn về viện thông tin khoa học xã hội
Viện Thông tin KHXH từ trước năm
2012 có trụ sở chính tại số 26 Lý
Thường Kiệt, Hà Nội. Nay trụ sở chính
tọa lạc từ tầng 4 đến tầng 10 số 1B Liễu
Giai, tại 26 Lý Thường Kiệt chỉ còn bộ
phận nhỏ. Địa chỉ 26 Lý Thường Kiệt từ
năm 1957 trở về trước (đến năm 1902)
là trụ sở của Viện Viễn Đông Bác cổ
Pháp (EFEO) do người Pháp xây dựng
(là cơ quan nghiên cứu khoa học làm
nhiệm vụ “phù trợ cho hệ thống thuộc
địa” của Pháp tại Đông Dương).
EFEO chính thức được thành lập
ngày 26/2/1901 theo Sắc lệnh của Tổng
thống Pháp E’mil Loubet. Là cơ quan
thực hiện các hoạt động khoa học, ngay
từ đầu EFEO đã xây dựng một Thư viện
EFEO có nhiệm vụ tập hợp, lưu trữ tất
cả các ấn phẩm sách in, tài liệu dưới
dạng chép tay, bản khắc. liên quan tới
Đông Dương và các nước vùng Viễn
Đông khác. Thư viện EFEO chính thức
có mặt ở Hà Nội năm 1903.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những dấu ấn về viện thông tin khoa học xã hội
NHữNG DấU ấN Về VIệN THÔNG TIN KHOA HọC Xã HộI Hoàng Ngọc Sinh(*) Trong cuộc đời mỗi ng−ời, ai cũng có những dấu ấn không thể nào quên, những dấu vết còn l−u lại trong quá trình học tập, công tác. Đối với quá trình phát triển của mỗi cơ quan, đơn vị, dấu ấn để lại chính là những cột mốc đánh dấu những sự kiện, những sự đổi thay to lớn. Nhân dịp Viện Thông tin KHXH tổ chức kỷ niệm 40 năm ngày thành lập (8/5/1975-8/5/2015), trong suy nghĩ của tôi - một ng−ời từng làm việc ở Viện - gợi lên rất nhiều cảm xúc. I. Dấu ấn về một cơ quan khoa học kinh điển và hàn lâm: Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp Viện Thông tin KHXH từ tr−ớc năm 2012 có trụ sở chính tại số 26 Lý Th−ờng Kiệt, Hà Nội. Nay trụ sở chính tọa lạc từ tầng 4 đến tầng 10 số 1B Liễu Giai, tại 26 Lý Th−ờng Kiệt chỉ còn bộ phận nhỏ. Địa chỉ 26 Lý Th−ờng Kiệt từ năm 1957 trở về tr−ớc (đến năm 1902) là trụ sở của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) do ng−ời Pháp xây dựng (là cơ quan nghiên cứu khoa học làm nhiệm vụ “phù trợ cho hệ thống thuộc địa” của Pháp tại Đông D−ơng). EFEO chính thức đ−ợc thành lập ngày 26/2/1901 theo Sắc lệnh của Tổng thống Pháp E’mil Loubet. Là cơ quan thực hiện các hoạt động khoa học, ngay từ đầu EFEO đã xây dựng một Th− viện EFEO có nhiệm vụ tập hợp, l−u trữ tất cả các ấn phẩm sách in, tài liệu d−ới dạng chép tay, bản khắc... liên quan tới Đông D−ơng và các n−ớc vùng Viễn Đông khác. Th− viện EFEO chính thức có mặt ở Hà Nội năm 1903.(*) Vào những năm nửa đầu của thế kỷ tr−ớc, Th− viện EFEO là một địa chỉ nổi tiếng trong giới trí thức. Giới trí thức thời đó và cho đến mãi sau này còn nhắc lại những kỷ niệm đầy tự hào rằng đã từng ngồi đọc sách ở Th− viện EFEO tại 26 Lý Th−ờng Kiệt. Đặc biệt, các cán bộ khoa học nghiên cứu về các ngành KHXH ph−ơng Đông hầu hết đều có những quãng thời gian dài miệt mài bên những tủ sách của Th− viện EFEO. Rất nhiều chuyên gia đầu ngành, những “cây đa cây đề” trong làng học thuật thuộc các chuyên ngành về KHXH đã (*) Nguyên Tr−ởng phòng Hành chính - Tổng hợp, Viện Thông tin KHXH. Những dấu ấn 37 tr−ởng thành nhờ dày công nghiên cứu, tra tìm t− liệu quý của Th− viện. Sau năm 1958, Th− viện EFEO đ−ợc bàn giao cho ủy ban Khoa học Nhà n−ớc và đ−ợc tổ chức thành Th− viện Khoa học trung −ơng. Năm 1968, Th− Viện Khoa học trung −ơng đ−ợc tách ra thành 2 th− viện: Th− viện Khoa học và Kỹ thuật Trung −ơng (thuộc ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà n−ớc); và Th− viện KHXH (thuộc ủy ban KHXH Việt Nam, nay là Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam). Do vậy, Th− viện EFEO đ−ợc coi là tiền thân của Th− viện KHXH. II. Giai đoạn 1975 – 1995 1. Quyết định thành lập Viện Thông tin KHXH Trên cơ sở hợp nhất Th− viện KHXH (4/1968) và Ban Thông tin KHXH (1973), ngày 8/5/1975, Thủ t−ớng Phạm Văn Đồng thay mặt Hội đồng Bộ tr−ởng (nay là Chính phủ) ký Quyết định số 93/CP về việc thành lập Viện Thông tin KHXH thuộc ủy ban KHXH Việt Nam (nay là Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam). Đây là dấu mốc đánh dấu sự “khai sinh” chính thức của Viện Thông tin KHXH. Viện Thông tin KHXH hoạt động theo mô hình kết hợp nghiên cứu khoa học với phục vụ nghiên cứu khoa học, kết hợp hoạt động thông tin với công tác th− viện, là mô hình tổ chức thông tin - th− viện phổ biến ở một số n−ớc khi đó. Đặc biệt, trong môi tr−ờng công nghệ thông tin phát triển nh− vũ bão khi b−ớc sang thế kỷ XXI, nhu cầu đáp ứng thông tin nhanh chóng và tiện ích càng khẳng định sự lựa chọn mô hình hoạt động thông tin - th− viện là sự lựa chọn đúng đắn. Viện Thông tin KHXH có chức năng nghiên cứu, thông báo, cung cấp tin tức và t− liệu về KHXH cho các cơ quan Đảng, Nhà n−ớc và các tổ chức quần chúng có trách nhiệm đối với công tác KHXH. Viện đ−ợc giao quản lý và tổ chức hoạt động Th− viện KHXH lớn nhất n−ớc. 2. Sau 20 năm thành lập Năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập, Viện Thông tin KHXH vô cùng vinh dự đ−ợc đón nhận Huân ch−ơng lao động Hạng Nhất do Nhà n−ớc trao tặng. Và cũng vào dịp này, cố Viện tr−ởng Võ Hồng C−ơng (ng−ời đầu tiên giữ c−ơng vị Viện tr−ởng Viện Thông tin KHXH, ng−ời đã nhiều năm tận tụy khai phá và đặt nền tảng cho hoạt động của Viện) vinh dự đ−ợc Nhà n−ớc trao tặng Huân ch−ơng Độc lập hạng Nhất. Sự kiện này là dấu ấn lớn, là niềm vui chung của Viện Thông tin KHXH. Chặng đ−ờng 20 năm (1975-1995) chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của lịch sử nói chung, nh−ng tập thể cán bộ viên chức của Viện đã đạt đ−ợc những kết quả to lớn trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ đ−ợc Nhà n−ớc giao, đó là: - Th−ờng xuyên thu thập tài liệu, tạo nguồn, l−u giữ và xử lý tin một cách bài bản, khoa học bằng các nguồn lực thông tin trong n−ớc và quốc tế; - Kết hợp nghiên cứu và thông tin để xây dựng hệ thống ấn phẩm khoa học kịp thời cung cấp cho xã hội những thông tin thật sự có chất l−ợng tốt: Tạp chí Thông tin KHXH, các tập san chuyên ngành, s−u tập chuyên đề, Tin 38 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2015 nhanh, Tin tham khảo đăc biệt, các ấn phẩm có giá trị lý luận làm cơ sở hoặc chỉ dẫn cho hoạt động thông tin th− viện (các ấn phẩm về th− mục, tổng mục lục, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thông tin - th− viện...); - Tổ chức tốt việc bảo quản t− liệu và đ−a công tác phục vụ bạn đọc th− viện vào nề nếp, chính quy; - Tập hợp đ−ợc một đội ngũ cán bộ có năng lực và say mê nghiên cứu, làm thông tin khoa học và phục vụ nghiên cứu khoa học, làm r−ờng cột cho những chặng đ−ờng phát triển tiếp theo của Viện. Có thể kể tên nhiều cán bộ tiêu biểu nh−: ông Nguyễn Linh, ông Đăng Duy, ông Thanh Lê, PGS. Phạm Khiêm ích, ông Nguyễn Chí Tình, PGS. Lê Xuân Vĩnh, ông Nguyễn Nh− Diệm...; - Hoàn thành các công việc chuẩn bị để triển khai Dự án Kiểm kê kho sách, báo, tạp chí... của Th− viện KHXH và hoàn thành các thủ tục xin cấp đất triển khai xây dựng Th− viện KHXH giai đoạn tiếp theo tại khu đất đầm sen (nay là số 1 Liễu Giai). Trong giai đoạn này, công tác cán bộ, tình hình nội bộ của Viện đôi khi gặp phải những trở ngại nhất định, đe doạ tình đoàn kết trong nội bộ. Rất có thể do quá say mê tranh luận về học thuật, do các chính kiến, quan điểm khoa học khác nhau, thêm vào đó là những cá tính riêng dẫn tới mâu thuẫn, làm cho tình hình nội bộ cơ quan đôi lúc nổi sóng. V−ợt lên trên tất cả, các tổ chức chính trị, các bộ máy lãnh đạo của Viện cùng tập thể cán bộ, viên chức của Viện trong thời kỳ này đã giữ các mối quan hệ nội bộ đ−ợc ổn định, chèo lái đ−a con tàu Viện Thông tin KHXH v−ợt qua mọi trở ngại thác ghềnh, cập bến vững vàng. III. Giai đoạn 1995 - 2005 Giai đoạn 1995-2005 là giai đoạn Viện Thông tin KHXH để lại những dấu ấn khá sâu sắc trên cả hai mặt trận hoạt động thông tin khoa học và th− viện. 1. Một hệ thống thông tin khoa học hoạt động sôi động Vào những năm 1990, những biến đổi to lớn về chính trị, xu h−ớng toàn cầu hóa và hội nhập, tình hình địa chính trị khu vực có nhiều diễn biến phức tạp... đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của hầu hết các n−ớc trên thế giới, tạo ra những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi n−ớc, trong đó có Việt Nam. Bối cảnh đó tạo ra nhu cầu vô cùng lớn về thông tin, đặc biệt là các thông tin về KHXH. Ngay từ những năm 1995 trở về tr−ớc, hoạt động thông tin khoa học của Viện đã có đ−ợc những thành quả lớn với những ấn phẩm chất l−ợng. ở giai đoạn này, Viện đã nỗ lực tập trung nguồn lực trí tuệ trong các hoạt động quét tin, xử lý, sản xuất tin để nâng cao chất l−ợng sản phẩm thông tin khoa học với thời gian nhanh nhất, kịp thời đáp ứng nhu cầu của các đối t−ợng dùng tin. Viện đã tập hợp đ−ợc một đội ngũ cán bộ và cộng tác viên cung cấp tin là các chuyên gia hàng đầu của các chuyên ngành KHXH trong n−ớc, xây dựng đ−ợc đội ngũ cán bộ nghiên cứu nhạy bén, có trình độ chuyên môn giỏi và say mê với sự nghiệp KHXH. Nhờ vậy, các loại hình sản phẩm thông tin khoa học của Viện có đ−ợc chất l−ợng tốt, phong Những dấu ấn 39 phú, đa dạng, chiếm đ−ợc sự tin cậy của ng−ời dùng tin. Các bộ phận in ấn, phát hành các ấn phẩm thông tin của Viện luôn là những trợ thủ đắc lực, gắn bó, phát huy sáng tạo trong công việc, giúp cho các sản phẩm thông tin đến đ−ợc tay ng−ời dùng tin sớm, nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thông tin. 2. Thực hiện thành công Dự án Tổng kiểm kê kho sách, báo, tạp chí... năm 1995-1999 Hoạt động của công tác th− viện trong thời gian này cũng để lại những dấu ấn đặc biệt sâu đậm, đó là kết quả thực hiện thành công Dự án Tổng kiểm kê kho sách, báo, tạp chí... l−u giữ tại Th− viện (1995-1999), tiếp nối là dấu ấn về hoạt động của một dây chuyền th− viện mang tính chuyên nghiệp. Th− viện KHXH tuy mới chính thức đ−ợc thành lập năm 1968 nh−ng có nguồn gốc và bề dày lịch sử tính tới nay đã hơn 100 năm do kế thừa Th− viện EFEO. Cũng vào thời gian chuyển giao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm và để lại tấm ảnh l−u niệm cùng cán bộ nhân viên Th− viện EFEO (ảnh hiện đang l−u giữ tại Th− viện KHXH). Th− viện đã đ−ợc tiếp nhận một khối t− liệu đồ sộ gồm sách, báo, tạp chí khoa học... thuộc các chuyên ngành KHXH bằng nhiều ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Nhật, Trung Quốc...), hội tụ hầu nh− đầy đủ điều kiện để xây dựng một th− viện khoa học chuyên ngành lớn. Khối t− liệu khoa học quý hiếm này đã từ lâu đ−ợc giới học giả đánh giá là “Kho báu trong thành phố”, bao gồm: 36.747 cuốn sách tiếng Pháp, tiếng Anh; 31.175 cuốn sách tiếng Trung Quốc cổ; 11.223 cuốn sách tiếng Nhật Bản cổ; 2055 cuốn sách Hán Nôm; 58751 cuốn tài liệu viết tay (bao gồm Thần tích Thần sắc, Thần sắc Hán Nôm, H−ơng −ớc, H−ơng −ớc Nôm); 9.437 tấm bản đồ; 58.000 tấm ảnh; 5.700 cuộn phim cuộn và 23.400 tấm phim kính... Kho sách từng trải qua những khó khăn, biến động lớn: đ−ợc phân chia, sơ tán về nông thôn trong những năm chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ; đóng gói phân kho chuẩn bị di chuyển vào Đà Lạt trong chiến tranh biên giới chống Trung Quốc năm 1979. Sách nhiễm thuốc DDT bột trong từng trang do hoạt động bảo quản chống mối mọt côn trùng phá hoại trong những năm sơ tán; sách ẩm mốc, bết dính, bong tróc, mờ, mất nhãn,... Thêm vào đó, diện tích kho chật chội, trong khi sách mới nhập bổ sung hàng năm tới chục ngàn cuốn, giá kệ thiếu thốn... phải đặt cả xuống sàn nhà. Sau những nỗ lực không ngừng d−ới sự chỉ đạo của Ban quản lý kiểm kê (do Viện thành lập), công tác kiểm kê đ−ợc tổ chức theo ph−ơng pháp cuốn chiếu đảm bảo “vừa kiểm kê vừa phục vụ bạn đọc”, những đơn vị tài liệu cuối cùng đã đ−ợc đối chiếu, bổ sung sổ sách quản lý, đóng dấu kiểm kê và đ−a lên giá đúng với quy định nghiêm ngặt của tổ chức kho. Tuy nhiên, do thiếu diện tích nên kho sách tiếng Nga đã phải gửi Viện Triết học cho tới khi chuyển đến số 1A Liễu Giai năm 2006. Trong quá trình tổng kiểm kê, Th− viện đã tổ chức tốt công tác bảo vệ, đảm bảo an toàn kho sách và tiếp tục duy trì hoạt động này cho tới năm 2012 (kho sách tập trung về tòa nhà số 1B Liễu Giai, Hà Nội). 40 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2015 Qua kiểm kê, hàng nghìn tài liệu quý hiếm gồm sách, bản đồ, sắc phong, tranh và các tài liệu có giá trị khoa học khác đ−ợc phát hiện đã đ−ợc bổ sung nhập kho theo đúng quy trình th− viện. 3. Một dây chuyền th− viện từng b−ớc hiện đại hóa Song song với công tác kiểm kê kho sách, công tác th− viện đặt ra mục tiêu nhanh chóng củng cố quy trình nghiệp vụ của từng khâu, bộ phận và các phòng công tác th− viện. Hình thành tổ chức dây chuyền th− viện hoạt động theo mô hình dòng n−ớc chảy, gồm các phòng công tác th− viện, phòng nghiệp vụ, phòng tin học hóa và phòng phụ trợ (phòng Hành chính Tổng hợp) cùng tham gia vào hoạt động th− viện theo sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Viện tr−ởng phụ trách. Dây chuyền th− viện duy trì chế độ giao ban nghiệp vụ mỗi tháng một lần, qua đó các vấn đề phát sinh nghiệp vụ, các thao tác chuyên môn, các b−ớc đi ch−a đồng bộ giữa các bộ phận, các phòng đ−ợc đ−a ra bàn bạc để điều chỉnh, tìm sự thống nhất. Th− viện đ−a ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các khâu, thiết lập mối quan hệ hữu cơ gắn kết các phòng công tác th− viện thông qua hoạt động nghiệp vụ. Nhờ đó, Th− viện đã cập nhật đ−ợc CSDL sách mới, từng b−ớc hồi cố CSDL sách đã nhập (không chỉ hồi cố vốn sách của Th− viện Viện KHXH mà còn từng b−ớc tích hợp vốn sách của tất cả các th− viện của các viện trực thuộc Viện KHXH Việt Nam). Từ năm 2001, dây chuyền th− viện th−ờng kỳ xuất bản Thông báo sách mới thay thế cho loại hình tủ phiếu th− mục, phục vụ tốt hơn công tác nghiên cứu khoa học của độc giả, các cán bộ, nhà nghiên cứu. Cũng trong giai đoạn này, Th− viện KHXH đã mở rộng quan hệ với hơn 80 trung tâm thông tin - th− viện lớn của hơn 30 n−ớc tiên tiến hàng đầu thế giới. Ngoài ra, Th− viện còn liên kết chặt chẽ, trao đổi thông tin - t− liệu, đào tạo cán bộ với các th− viện lớn, các th− viện đại học trong n−ớc. Những kết quả đạt đ−ợc trong việc thực hiện Dự án Tổng kiểm kê và trong công tác th− viện trong giai đoạn này thật sự để lại những ấn t−ợng sâu sắc. Đó cũng là nhờ sự ủng hộ, tạo điều kiện của Nhà n−ớc, Lãnh đạo Viện KHXH Việt Nam cùng những đóng góp to lớn về trí tuệ, kinh nghiệm và sức lực của đội ngũ cán bộ th− viện lâu năm. III. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 1. Những thay đổi trong cơ cấu tổ chức Tổ chức của Viện từ 16 phòng (theo Điều lệ về Tổ chức và hoạt động của Viện Thông tin KHXH thuộc Trung tâm KHXH&NV Quốc gia - Ban hành kèm theo Quyết định số 1889/KHXH-TC ngày 24/12/1994) tăng lên 21 phòng (theo Quyết định số 352/ QĐ-KHXH ngày 25/4/2005 của Chủ tịch Viện KHXH Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Thông tin KHXH). Theo đó, có phòng không còn tồn tại (Phòng Thông tin Triết học), có phòng mới đ−ợc thành lập (Phòng Thông tin toàn cầu và Khu vực). Biên chế cán bộ viên chức của Viện đ−ợc trẻ hóa với tốc độ nhanh. Một số l−ợng lớn các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, nhiệm vụ khoa học đ−ợc phê duyệt triển khai hàng Những dấu ấn 41 năm. Đặc biệt trong đó có 2 đề tài khoa học cấp nhà n−ớc do cán bộ của Viện làm chủ nhiệm, đ−ợc đánh giá xuất sắc. Bắt đầu từ năm 2006, Viện có thêm loại hình thông tin khoa học mới là Niên giám thông tin KHXH (mỗi năm xuất bản 1 số). Năm 2007, Tạp chí Thông tin KHXH bản tiếng Anh – Social Sciences Information Review cũng đ−ợc xuất bản (mỗi năm xuất bản 4 số). Những thành tự đó là minh chứng cho sự nỗ lực cao của tập thể Lãnh đạo Viện và sự phấn đấu v−ơn lên mạnh mẽ của đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong Viện. 2. Một th− viện điện tử đang hoàn thiện và h−ớng tới th− viện số Th− viện là kho tri thức của loài ng−ời. Từ th− viện truyền thống phát triển sang th− viện điện tử là con đ−ờng tất yếu, là xu h−ớng chung của tất cả các th− viện trên thế giới hiện nay. Đ−ợc sự quan tâm đầu t− của Nhà n−ớc đối với ngành KHXH, Th− viện KHXH đang chuyển đổi mạnh mẽ từ th− viện truyền thống sang th− viện điện tử và h−ớng tới th− viện số, thực hiện một b−ớc tiến dài trong sự nghiệp phát triển. Hy vọng trong một thời gian không xa, một Th− viện KHXH điện tử đ−ợc hoàn thiện và vận hành sẽ đ−a lại những tiện ích tốt nhất cho các nhà KHXH và độc giả xa gần, đạt đ−ợc tính hiệu quả cho ng−ời sử dụng. Xây dựng thành công Th− viện KHXH điện tử sẽ là dấu ấn lớn của Viện nói chung và đội ngũ những ng−ời làm công tác th− viện nói riêng. 3. Một cuộc di chuyển kho sách lớn nhất của Th− viện KHXH và giấc mơ về một th− viện hiện đại Cuộc di chuyển kho sách Th− viện KHXH tới trụ sở số 1B Liễu Giai (từ tầng 4 đến tầng 10) là một dấu ấn quan trọng của Th− viện KHXH. Tuy nhiên, đã từ lâu các cán bộ Viện Thông tin KHXH và cả giới nghiên cứu KHXH, các độc giả gắn bó với Th− viện đều mơ −ớc về một khuôn viên Th− viện KHXH khang trang, tiện nghi, hiện đại nh− hầu hết các th− viện khoa học của các n−ớc văn minh trên thế giới đã có, xứng tầm giá trị mà ngành KHXH ngày đêm trăn trở đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp phát triển đất n−ớc. Nhận biết đ−ợc vai trò và những đóng góp to lớn của KHXH cho sự nghiệp phát triển đất n−ớc, Nhà n−ớc đã không d−ới 2 lần phê duyệt quy hoạch cấp đất, cấp kinh phí để xây dựng trụ sở Th− viện KHXH. Mỗi lần nh− vậy, các cán bộ, nhân viên của Th− viện lại rạo rực những giấc mơ. Nh−ng trong điều kiện khó khăn của đất n−ớc nói chung và ngành KHXH nói riêng, giấc mơ đó vẫn ch−a thành hiện thực. Mong sao vào một ngày nào đó, giấc mơ về mô hình trụ sở Th− viện KHXH đã lựa chọn, trong đó có đầy đủ các điều kiện hạ tầng cơ sở, nh− hình mẫu của những th− viện ở các n−ớc tiên tiến trên khắp các châu lục mà Viện đã dày công tham quan, tìm hiểu, sẽ trở thành hiện thực để Việt Nam có một Th− viện KHXH xứng với tầm vóc của nó
File đính kèm:
- nhung_dau_an_ve_vien_thong_tin_khoa_hoc_xa_hoi.pdf