Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số ngày nay đã

góp phần tạo nên sự thuận tiện và nhanh chóng trong hoạt động

giao tiếp học thuật. Hầu hết các quy trình giao tiếp học thuật đều

có thể diễn ra đồng thời trên môi trường mạng Internet. Người

dùng tin có thể vừa là người nghiên cứu, người đệ trình xuất bản

nghiên cứu vừa có thể là người thực hiện vai trò bình duyệt. Tất cả

họ đều có thể thực hiện vai trò của mình đồng thời ngay trên môi

trường mạng Internet. Có thể thấy, người dùng tin ngày nay không

chỉ thể hiện có kỹ năng sử dụng công nghệ số khai thác tri thức mà

còn có khả năng thẩm định các nguồn tri thức trên môi trường số

một cách hiệu quả. Thư viện xưa nay vẫn thực hiện tốt vai trò phát

triển và cung cấp nguồn tài liệu phục vụ nhu cầu nghiên cứu của

người dùng tin. Song với xu thế người dùng tin có nhu cầu khai

thác tri thức số đa dạng và tức thời thì thư viện không chỉ là nơi

sưu tầm nguồn tài liệu gốc mà thư viện còn có thể là Trung tâm Tri

thức số. Bài viết chỉ ra xu thế nhu cầu khai thác tri thức số của người

dùng tin là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự

phát triển thư viện trở thành Trung tâm Tri thức số.

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 1

Trang 1

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 2

Trang 2

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 3

Trang 3

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 4

Trang 4

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 5

Trang 5

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 6

Trang 6

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 7

Trang 7

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 8

Trang 8

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 9

Trang 9

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang baonam 8580
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số

Người dùng tin thông minh là nhân tố góp phần phát triển trung tâm tri thức số
NGƯỜI DÙNG TIN THÔNG MINH 
LÀ NHÂN TỐ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
Nguyễn Hoàng Vĩnh Vương*1- Bùi Thị Phượng**
Tóm tắt: Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số ngày nay đã 
góp phần tạo nên sự thuận tiện và nhanh chóng trong hoạt động 
giao tiếp học thuật. Hầu hết các quy trình giao tiếp học thuật đều 
có thể diễn ra đồng thời trên môi trường mạng Internet. Người 
dùng tin có thể vừa là người nghiên cứu, người đệ trình xuất bản 
nghiên cứu vừa có thể là người thực hiện vai trò bình duyệt. Tất cả 
họ đều có thể thực hiện vai trò của mình đồng thời ngay trên môi 
trường mạng Internet. Có thể thấy, người dùng tin ngày nay không 
chỉ thể hiện có kỹ năng sử dụng công nghệ số khai thác tri thức mà 
còn có khả năng thẩm định các nguồn tri thức trên môi trường số 
một cách hiệu quả. Thư viện xưa nay vẫn thực hiện tốt vai trò phát 
triển và cung cấp nguồn tài liệu phục vụ nhu cầu nghiên cứu của 
người dùng tin. Song với xu thế người dùng tin có nhu cầu khai 
thác tri thức số đa dạng và tức thời thì thư viện không chỉ là nơi 
sưu tầm nguồn tài liệu gốc mà thư viện còn có thể là Trung tâm Tri 
thức số. Bài viết chỉ ra xu thế nhu cầu khai thác tri thức số của người 
dùng tin là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự 
phát triển thư viện trở thành Trung tâm Tri thức số.
Từ khóa: Người dùng tin thông minh; Tri thức số; Kĩ năng thông tin; 
Trung tâm Tri thức số.
1. GIỚI THIỆU
Xã hội tri thức dựa trên nhu cầu tiếp cận thông tin, phân phối 
thông tin và khả năng chuyển thông tin thành tri thức. Ở một góc 
* Thạc sĩ, Trung tâm học liệu, Đại học Cần Thơ. 
** Trung tâm học liệu, Đại học Cần Thơ.
158
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
độ nào đó, thư viện đại học đang giữ “chìa khóa” của nền kinh tế 
tri thức và góp phần hình thành xã hội tri thức. Một câu hỏi quan 
trọng đặt ra với các thư viện đại học là làm thế nào để cung cấp các 
nguồn tài nguyên tri thức một cách hiệu quả nhất cho người dùng 
tin. Những điều kiện thích hợp để tài nguyên tri thức được phát 
huy hiệu quả hơn trong bối cảnh xã hội tri thức ngày càng năng 
động và đổi mới. Một phương thức kết nối mới giữa người dùng tin 
“thông minh” và thư viện đại học đó chính là Trung tâm Tri thức số. 
Người dùng tin “thông minh” có khả năng thích ứng tốt với những 
thay đổi, phát huy hữu hiệu các kiến thức kỹ năng thông tin trong 
việc khai thác nguồn tài nguyên thông tin nhằm thỏa mãn nhu cầu 
thông tin của cá nhân. Trung tâm Tri thức số cung cấp nguồn tài 
nguyên thông tin đa dạng, tức thì thông qua kho “siêu dữ liệu” cho 
người dùng tin một cách đầy đủ và toàn vẹn hơn. Như vậy, Trung 
tâm Tri thức số vừa thúc đẩy ứng dụng đổi mới về truyền thông học 
thuật vừa đem đến những giá trị lợi ích cho người dùng tin “thông 
minh” trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập với các 
nhu cầu khác nhau.
2. CÁC KHÁI NIỆM
2.1. Người dùng tin thông minh 
Kỷ nguyên số đã mang đến cho người dùng tin nguồn tài nguyên 
thông tin “khổng lồ”. Việc tiếp cận nguồn tài nguyên thông tin đa dạng, 
phong phú đó dần dần giúp người dùng tin hình thành kĩ năng tìm 
kiếm thông tin hữu hiệu. Thêm vào đó, nhu cầu về thông tin và cách 
thức tiếp cận, khai phá nguồn tài nguyên thông tin của người dùng 
tin ngày càng đi vào chiều sâu và họ đang trở thành những người 
dùng tin “thông minh”. Họ không chỉ khai thác thông tin hữu ích có 
giá trị, mà họ còn tham gia phản biện và đánh giá chất lượng nguồn 
tài nguyên thông tin, loại bỏ những thông tin thừa, không phù hợp. 
Người dùng tin “thông minh” sử dụng nguồn tài nguyên thông tin 
hiệu quả hơn, tuân thủ tốt bản quyền và tái tạo ra tri thức mới. Người 
dùng tin ngày nay không chỉ là người am hiểu mạng máy tính hay 
159
NGƯỜI DÙNG TIN THÔNG MINH LÀ NHÂN TỐ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ 
công nghệ số mà họ có thể được gọi là “siêu thông thạo” (metaliteracy). 
Theo định nghĩa của Jacobson và Mackey (2013) cho rằng: “Siêu thông 
thạo được hình dung như một mô hình toàn diện về kiến thức để nâng 
cao tư duy phản biện và phản ánh trong phương tiện truyền thông xã 
hội, phần mềm học tập mở và cộng đồng trực tuyến”[6]. Người dùng tin 
“thông minh” hay người dùng tin “siêu thông thạo” không chỉ có kiến 
thức về kỹ năng thông tin (information literacy) như: tiếp cận, khai 
thác, đánh giá, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin. Mà 
còn có năng lực thích ứng với những thay đổi liên tục trong các công 
nghệ mới và phát triển tư duy phản biện. Người dùng tin tích cực 
tham gia vào hoạt động kết nối và phân phối thông tin như người học 
độc lập và hợp tác. Tác giả Mackey và Jacobson (2014) đã chỉ ra rằng: 
“Những cá nhân “siêu thông thạo” là những người có khả năng thích 
nghi với những công nghệ đang thay đổi và môi trường học tập, kết 
hợp và thấu hiểu mối quan hệ với kiến thức liên quan. Nó đòi hỏi mức 
độ tư duy và phân tích cao về cách mà chúng ta phát triển khả năng 
tự tiếp nhận thông tin như những người  ...  sự lựa chọn phổ biến nhờ vào đặc tính nhanh và tiện lợi trong 
đối chiếu đánh giá. Từ những năm đầu của thế kỷ XXI, Internet đã 
bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, là điều kiện thuận lợi để thư 
viện đưa nguồn tài nguyên thông tin số đến với người dùng. Đến 
cuối năm 2019 “Dân số Việt Nam đạt mốc xấp xỉ 97 triệu dân, với 64 
triệu người sử dụng Internet, tăng đến 28% so với năm 2017” [1]. Theo 
Nguyễn Thị Trường Giang (2017): “Hơn 1/3 số người dùng Internet di 
động có trình độ đại học và sau đại học, hơn 70% người dùng có nghề 
nghiệp chuyên môn. Đó là các học giả, doanh nhân, công chức, giáo 
viên, sinh viên, học sinh, nhân viên văn phòng, người làm công tác 
xã hội” [3] Hơn 1/3 số người dùng Internet di động có trình độ đại 
học và sau đại học, cho thấy mạng Internet đã trở thành một phương 
tiện hỗ trợ tiếp cận nguồn tài nguyên thông tin không thể thiếu trong 
nghiên cứu, học tập. 
163
NGƯỜI DÙNG TIN THÔNG MINH LÀ NHÂN TỐ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ 
Mô hình “siêu thông thạo” của các tác giả Mackey và Jacobson (2014) 
đã mô phỏng lại khả năng hiểu thông tin của người dùng tin thông qua 
các vòng tròn đồng tâm có liên quan. Trung tâm của mô hình này là 
“siêu thông thạo” hay “siêu kiến thức”. Vòng tròn bên trong được bao 
quanh bởi “siêu nhận thức” thể hiện mức độ quan trọng liên quan đến 
hiểu biết thông tin. Đường tròn đứt nét bao quanh siêu nhận thức minh 
họa ảnh hưởng của cách tiếp cận phản chiếu này trong các không gian 
khác. Mô hình “siêu kiến thức” biểu thị một cách tiếp cận cộng tác để 
hiểu biết về thông tin. Di chuyển ra ngoài lõi “siêu kiến thức” tiếp theo là 
khả năng xác định, truy cập, đánh giá và hiểu thông tin. Tất cả các khía 
cạnh của định nghĩa theo tiêu chuẩn ACRL (2000): xác định, đánh giá, 
hiểu, truy cập, kết hợp và sử dụng là thành phần của mô hình này. Tuy 
nhiên, mở rộng những đặc điểm này bao gồm bốn yếu tố cần thiết trong 
môi trường truyền thông xã hội: cộng tác, tham gia, sản xuất, chia sẻ. 
Bên cạnh đó, người dùng tin tham gia với tư cách là nhà sản xuất, cộng 
tác viên và nhà phân phối nội dung số với nhiều hình thức khác nhau. 
Hình 1: Mô hình “siêu thông thạo” của Mackey và Jacobson (2014)
Người dùng tin ngày nay tiếp cận tốt các nguồn tài nguyên thông 
tin từ Internet. Họ biết cách chọn lựa, khai thác và sử dụng những nguồn 
tài liệu có giá trị và uy tín học thuật để phục vụ cho hoạt động nghiên 
164
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
cứu, học tập. Họ biết điểm mạnh của từng nguồn tri thức học thuật. 
Ví dụ, SpringerLink có trên 2.700 tên tạp chí khoa học và công nghệ 
thuộc các lĩnh vực kỹ thuật, hóa học, khoa học vật liệu, khoa học máy 
tính, y học. CSDL Hinari là CSDL chuyên về lĩnh vực y học, sinh học và 
các lĩnh vực khoa học xã hội có liên quan. AGORA cung cấp các tạp chí 
khoa học về nông nghiệp, thực phẩm, khoa học môi trường, và các lĩnh 
vực khoa học xã hội có liên quan. Hơn thế nữa, người dùng tin ngày nay 
còn đóng góp vào sự phát triển nguồn tài nguyên thông tin số thông 
qua việc tham gia vào các kho lưu trữ tài nguyên thông tin truy cập mở. 
Ví dụ Sherpa Romeo là một nguồn tài nguyên thông tin trực tuyến tổng 
hợp và phân tích các chính sách truy cập mở của nhà xuất bản từ khắp 
nơi trên thế giới và cung cấp tóm tắt về bản quyền của nhà xuất bản và 
các chính sách lưu trữ truy cập mở trên từng tạp chí [5]. 
Theo xu hướng phát triển học thuật ngày nay, uy tín hay mức độ 
ảnh hưởng của bài viết được đánh giá thông qua các hệ số học thuật. 
Người dùng tin biết lựa chọn tạp chí xuất bản phù hợp với chuyên 
ngành, lĩnh vực nghiên cứu. Họ cũng am hiểu về các chỉ số đánh giá 
học thuật của tạp chí. Ví dụ, hệ số tác động (Impact factor). IF được 
dùng như là thông tin tham khảo mức độ quan trọng của một tạp chí 
này so với các tạp chí khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu. Các tạp chí 
có IF cao thường được coi là có uy tín hơn so với các tạp chí có IF thấp. 
Hay chỉ số H để đánh giá tầm ảnh hưởng của tạp chí hay uy tín của 
nhà khoa học. Khi chỉ số H càng cao thì uy danh nhà khoa học càng 
khẳng định. 
Người dùng tin ngày nay thể hiện là những người có kiến thức về 
kỹ năng thông tin, am hiểu về các chỉ số học thuật, chia sẻ tài nguyên 
thông tin qua các kho lưu trữ mở để kết nối với cộng đồng học thuật 
và họ đang dần dần trở thành người dùng tin “siêu thông thạo” hay 
người dùng tin thông minh.
4. PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN TRỞ THÀNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra lượng thông tin số “khổng lồ” 
cùng với các phần mềm thông minh cho phép người dùng tin tìm kiếm và 
165
NGƯỜI DÙNG TIN THÔNG MINH LÀ NHÂN TỐ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ 
truy xuất một cách hiệu quả. Nền tảng Internet hỗ trợ chia sẻ và tiếp cận 
các nguồn tài nguyên số một cách dễ dàng. Cuộc cách mạng này đã làm 
thay đổi hành vi tiếp cận thông tin và chia sẻ thông tin của người dùng 
tin cũng như các dịch vụ cung cấp thông tin ở các thư viện. Người dùng 
tin không đơn giản là người tìm kiếm và sử dụng mà còn là người tham 
gia vào quá trình đánh giá chất lượng nguồn tài nguyên thông tin. Và họ 
cũng góp phần sản xuất các nguồn tài nguyên thông tin đóng góp vào bộ 
sưu tập số thông qua việc kí gửi hoặc công bố các công trình nghiên cứu 
khoa học. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra vấn đề về việc 
tổng hợp dữ liệu, kiến thức thành những bộ sưu tập chung có giá trị phục 
vụ chung cho lợi ích xã hội. Trung tâm Tri thức số phản ánh một bước 
phát triển mới của thư viện trong việc đáp ứng nhu cầu người dùng “siêu 
thông thạo”. Trung tâm Tri thức số là một sự liên kết giữa công nghệ và 
nguồn lực thư viện; giữa nguồn tài nguyên thông tin số và dịch vụ cung 
cấp tri thức đến người dùng tin. Trung tâm tri thức là không gian mà mọi 
người giao tiếp, chia sẻ, tạo ra sản phẩm tri thức mới. Trung tâm Tri thức số 
phát huy sức mạnh tổng hợp nguồn lực thư viện trong việc cung cấp tài 
liệu đến người dùng tin và khả năng khai thác nguồn tài nguyên thông tin 
học thuật của người dùng tin. Tác giả Chowdhury và Chowdhury (2003) 
đã chỉ ra những đặc điểm của thư viện số và đó cũng chính là những đặc 
điểm của Trung tâm Tri thức số [2]:
• Đa dạng nguồn thông tin số;
• Thư viện số giảm nhu cầu về không gian thực tế;
• Người dùng từ xa;
• Người dùng tự xây dựng bộ sưu tập với tiện ích từ thư viện số;
• Thư viện số cung cấp quyền truy cập nguồn thông tin phân án;
• Nhiều người dùng cùng lúc chia sẻ cùng thông tin;
• Chuyển đổi mô hình sử dụng và sở hữu;
• Phát triển bộ sưu tập dựa trên tính hiệu quả và bộ lọc thích hợp;
• Khả năng xử lý nội dung đa ngôn ngữ;
• Thư viện số bỏ qua sự có mặt của người trung gian;
166
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
• Cung cấp phương tiện tìm kiếm và truy xuất tốt hơn;
• Thông tin số được sử dụng và xem bởi nhiều người;
• Thư viện số phá vỡ rào cản về thời gian, không gian và ngôn ngữ.
Tác giả Paul Pandian (2008) cho rằng ba yếu tố chính tạo thư viện 
số và cũng là ba yếu tố chính hình thành Trung tâm Tri thức số là: con 
người, tài nguyên thông tin và công nghệ. [10] 
Hình 2: Ba yếu tố tạo nên Trung tâm Tri thức số của Paul Pandian
Trung tâm thông tin tri thức số với những bước tiến về ứng dụng 
công nghệ số đã trở thành nơi lưu trữ nguồn dữ liệu lớn ở dạng hình 
ảnh, văn bản và video về dữ liệu thư mục, bài báo khoa học, luận án, 
đề tài nghiên cứu khoa học, bài hội nghị khoa học và sách. Ngoài ra, nó 
còn là công cụ truy cập với nhiều tiện ích như gợi ý tìm kiếm, gợi ý chất 
lượng học thuật của tài liệu và gợi ý tác giả uy tín. Hơn thế nữa, nó còn 
chứa đựng các bình luận học thuật về các nguồn tri thức số. Điều quan 
trọng nữa là, Trung tâm Tri thức số vừa mang đến tiện ích cho các truy 
cập riêng tư qua lưu vết và gợi ý tìm kiếm nhưng đảm bảo tính bảo mật 
trong quá trình khai thác tri thức số của người dùng tin. Trung tâm Tri 
thức số còn là những kho lưu trữ trước xuất bản để phổ biến tri thức đến 
với cộng đồng tham khảo. Trong kỷ nguyên số ngày nay để hình thành 
các Trung tâm Tri thức số đến với người dùng tin thông minh cũng đòi 
hỏi nguồn nhân lực vận hành có kiến thức và kỹ năng số. Nguồn nhân 
167
NGƯỜI DÙNG TIN THÔNG MINH LÀ NHÂN TỐ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ 
lực cần phải am hiểu về công nghệ, am hiểu về chỉ số học thuật và sự 
thành thạo về ứng dụng công nghệ đổi mới là những yêu cầu để thực 
hiện nhiệm vụ chuyên môn ở Trung tâm Tri thức số. Nhiều thư viện đại 
học hiện nay đang sở hữu các nguồn tài nguyên tri thức số phong phú 
là các giáo trình bài giảng, luận văn, luận án, các công trình nghiên cứu 
khoa học, kỷ yếu hội nghị, hội thảo và sách giáo trình. Ngoài ra, các thư 
viện còn đăng ký quyền truy cập các cơ sở dữ liệu học thuật uy tín có 
trả phí và miễn phí như: Taylor & Francis, Science direct, Agora, Hinari, 
OARE. Một số thư viện đại học đang cố gắng thực hiện tốt việc cung 
cấp nguồn tài nguyên thông tin số đến người dùng tin. Hơn thế nữa, 
các thư viện còn thực hiện các liên hiệp để phát huy tối đa lợi ích của 
các nguồn tri thức số. Trong những năm gần đây, hệ thống các thư viện 
đại học ở Việt Nam đã hợp tác chia sẻ nguồn tài nguyên tri thức nội sinh 
dạng số, như stinet. Có thể nói rằng, các thư viện ở Việt Nam đang có 
bước chuyển mình để hình thành các Trung tâm Tri thức số. Tuy nhiên, 
việc chia sẻ tài liệu nội sinh dạng số hiện tại cũng có những giới hạn nhất 
định. Người dùng tin phải thông qua việc cung cấp tài khoản của thư 
viện đại học đang là chủ sở hữu nguồn tài liệu đó mới có thể truy cập 
được. Bên cạnh đó, người dùng tin đối mặt với nhiều thách thức trong 
quá trình tìm kiếm các nguồn tài nguyên thông tin trên môi trường số 
bởi những hạn chế về công nghệ và nguồn tri thức số. Về phát triển 
các nguồn tri thức số mang tầm quốc tế để phục vụ người dùng tin thì 
không phải thư viện nào cũng có đủ nguồn kinh phí thực hiện. Nhìn 
chung, không nằm ngoài xu hướng phát triển các Trung tâm Tri thức số, 
nhiều thư viện ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành các Trung tâm Tri thức 
số. CSDL nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia được hình thành 
từ VISTA là một trong những CSDL thư mục lớn nhất Việt Nam. CSDL 
này bao gồm báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học 
công nghệ, báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học công 
nghệ, phụ lục tổng hợp các số liệu điều tra, khảo sát, bản đồ, bản vẽ, 
ảnh, tài liệu đa phương tiện, phần mềm được đăng ký và giao nộp tại 
Cục Thông tin KH&CN Quốc gia. Ngoài ra, nó cung cấp cho người dùng 
tin các thông tin chi tiết về chủ nhiệm đề tài hay các cán bộ tham gia đề 
tài nghiên cứu, cơ quan chủ trì, bản tóm tắt kết quả nghiên cứu của đề 
168
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
tài. Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội đặt mục 
tiêu giai đoạn 2020 – 2025 phát triển trở thành “Trung tâm Tri thức số”. 
Nhiều thư viện ở các nước đã có bước phát triển hình thành các Trung 
tâm Tri thức số như Thư viện Eisenhower của Đại học Johns Hopkins, ở 
Baltimore, thành lập Trung tâm Tri thức Kỹ thuật số từ việc cải tiến thư 
viện với trị giá 4,6 triệu đô la. (https://www.library.jhu.edu/about/). Thư 
viện hiện chứa hơn 4,2 triệu tài liệu và cung cấp khả năng truy cập liên 
tục vào bộ sưu tập tài nguyên điện tử phong phú, bao gồm hơn 154.000 
tạp chí in và điện tử, cùng hơn 1,6 triệu sách điện tử. Nguồn tài liệu 
phong phú từ Trung tâm Tri thức số mở ra cơ hội tiếp cận nguồn tri thức 
số đa dạng cho người dùng tin. 
Toàn cầu hóa và xu hướng phát triển các nền kinh tế dựa vào tri 
thức đòi hỏi các thư viện chủ động phát triển thành các Trung tâm Tri 
thức số, đặc biệt là các thư viện đại học vì các trường đại học là nơi 
thường xuyên sử dụng và sản sinh ra các nguồn tri thức học thuật.
5. KẾT LUẬN
Người dùng tin “thông minh” ngoài những kiến thức về kỹ năng 
thông tin và sự thông thạo về công nghệ số, còn có năng lực, kiến thức, 
tư duy phản biện, có trách nhiệm chia sẻ thông tin trong cộng đồng 
với tư cách là người tham gia tích cực. Họ hiểu “siêu kiến thức” là rất 
quan trọng trong môi trường thông tin số ngày nay. “Siêu kiến thức” 
cho phép người dùng tin tham gia vào môi trường thông tin, tương 
tác, trang bị năng lực phản xạ liên tục, thay đổi và đóng góp như là 
người tư duy phản biện. Trung tâm Tri thức số là bước phát triển tất 
yếu của thư viện, thể hiện bước nhảy vọt cơ bản trong mối quan hệ 
hài hòa giữa thư viện và người dùng tin “thông minh”, giữa thư viện 
và cộng đồng nghiên cứu. Trung tâm Tri thức số là sự liên kết giữa các 
nhà nghiên cứu, thư viện và công nghệ để tối ưu hóa sự hữu ích của 
việc thu thập dữ liệu và tạo thông tin. Trung tâm Tri thức số là phương 
thức tích cực để người dùng tin phát huy khả năng “siêu thông thạo” 
của mình trong việc tiếp cận, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài 
nguyên tri thức số.
169
NGƯỜI DÙNG TIN THÔNG MINH LÀ NHÂN TỐ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), 
Internet Việt Nam: Đổi mới sáng tạo để chuyển đổi số. Truy cập ngày 20/8/2020 
tại  
-moi-sang-tao-de-chuyen-doi-so/382326.vgp
2. Chowdhury, C.G & Chowdhury, S. (2003), Introduction to Digital Libraries. 
London: Facet.
3. Giang, N. T. T. (2017), Báo chí và truyền thông đa phương tiện, NXB Đại học 
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Hassannuddin, I.A., Dahlan, H.M., & Hussin, A.R. (2013), Requirement of 
knowledge centre based on Web analysis. 2013 International Conference of 
Information and Communication Technology (ICoICT), 170-175. doi: 10.1109/
ICoICT.2013.6574568.
5. Halmstad University, SHERPA/RoMEO, truy cập ngày 20/8/2020 tại https://
halmstad-university-library.helpscoutdocs.com/article/36-sherpa-romeo.
6. Jacobson, T. E., & Mackey, T. P. (2013), Proposing a metaliteracy model to 
redefine information literacy. Communications in Information Literacy, 7(2).
7. Lifer, E. S., & Rogers, M. (1998), Digital knowledge center established. 
Library Journal, 123(5), 22. Retrieved from https://db.vista.gov.vn:2071/do
cview/196793196?accountid=47774
8. Mackey, T. P., & Jacobson, T. E. (2014), Metaliteracy: Reinventing Information 
Literacy to Empower Learners. ALA Neal-Schuman.
9. Nove Eka, V. A. (2016), Library as knowledge centre: Managing local 
content through community based library in indonesia. International 
Journal of Knowledge Management and Practices, 4(2), 23-30. Retrieved from 
https://db.vista.gov.vn:2071/docview/1845226427?accountid=47774
10. Paul Pandan, M. (2008), Digital knowledge resources. Policy Futures 
Education, 6 (1).
11. Texas center for digital knowledge awarded more than $375,000 for 
digital repository. (2008, Jan 23), US Fed News Service, Including US State 
News Retrieved from https://db.vista.gov.vn:2071/docview/469697338?ac
countid=47774
Phần 2 
QUẢN TRỊ MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC 

File đính kèm:

  • pdfnguoi_dung_tin_thong_minh_la_nhan_to_gop_phan_phat_trien_tru.pdf