Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật

Quan niệm về tổng thuật từ lâu đã

được các nhà chuyên môn trong giới

khoa học, đặc biệt là giới thông tin khoa

học bàn luận, phân tích với nhiều quan

điểm khác nhau. Tuy nhiên, một điều

khiến các nhà nghiên cứu còn nhiều băn

khoăn là ranh giới thể loại của chính

khái niệm tổng thuật chưa thật rõ ràng.

Thậm chí, có quan điểm còn liệt kê cả

sách giáo khoa, tài liệu hướng dẫn, thư

mục sưu tập theo đề tài, thư mục chú

giải chỉ dẫn vào nhóm gọi chung là tổng

thuật. Tình trạng hoả mù như thế của

các ranh giới thể loại đã gây trở ngại

cho việc đề ra những yêu cầu thật rõ

ràng đối với tổng thuật. Ngay trong

cách gọi các sản phẩm được coi là tổng

thuật cũng rất phức tạp, với nhiều

thuật ngữ như tổng thuật phân tích,

tổng lược, thư mục, sưu tập, so sánh

 

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật trang 1

Trang 1

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật trang 2

Trang 2

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật trang 3

Trang 3

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật trang 4

Trang 4

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật trang 5

Trang 5

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 39580
Bạn đang xem tài liệu "Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật

Một số quan niệm về tổng thuật và phân loại tổng thuật
Một số quan niệm về tổng thuật 
và phân loại tổng thuật 
Nguyễn Thị Huệ(*) 
1. Một số quan niệm về tổng thuật 
Quan niệm về tổng thuật từ lâu đã 
đ−ợc các nhà chuyên môn trong giới 
khoa học, đặc biệt là giới thông tin khoa 
học bàn luận, phân tích với nhiều quan 
điểm khác nhau. Tuy nhiên, một điều 
khiến các nhà nghiên cứu còn nhiều băn 
khoăn là ranh giới thể loại của chính 
khái niệm tổng thuật ch−a thật rõ ràng. 
Thậm chí, có quan điểm còn liệt kê cả 
sách giáo khoa, tài liệu h−ớng dẫn, th− 
mục s−u tập theo đề tài, th− mục chú 
giải chỉ dẫn vào nhóm gọi chung là tổng 
thuật. Tình trạng hoả mù nh− thế của 
các ranh giới thể loại đã gây trở ngại 
cho việc đề ra những yêu cầu thật rõ 
ràng đối với tổng thuật. Ngay trong 
cách gọi các sản phẩm đ−ợc coi là tổng 
thuật cũng rất phức tạp, với nhiều 
thuật ngữ nh− tổng thuật phân tích, 
tổng l−ợc, th− mục, s−u tập, so sánh 
Nếu hiểu tổng thuật là một tài liệu 
thu đ−ợc nhờ xử lý phân tích tổng hợp 
một tập hợp các tài liệu khác nhau (cấp 
một và cấp hai) thì ranh giới phân định 
loại hình cho tổng thuật sẽ trải ra rất 
rộng (Bljumenau D.I., 1972, tr.1). Trong 
tr−ờng hợp này, tổng thuật sẽ bao gồm 
các bài tổng thuật do các cơ quan thông 
tin biên soạn, các tổng thuật báo chí, các 
bài tổng thuật trong các tạp chí khoa 
học, tài liệu giáo khoa, các bài chuyên 
khảo Tuy nhiên, một phạm vi rộng lớn 
nh− vậy, theo Bljumenau D.I., là không 
hợp lý. Theo đó, từ việc xem xét trên bốn 
cấp độ xử lý thông tin và những cơ sở của 
việc biên soạn phần lớn loại hình tài liệu, 
Bljumenau D.I. cho rằng tổng thuật, với 
t− cách là một loại hình tài liệu khoa học 
kỹ thuật độc lập, chỉ có thể đ−ợc xếp 
trong phạm vi tr−ờng phục vụ thông tin. 
Trong tổng thuật có những đánh giá, kết 
luận, còn việc dự báo khuynh h−ớng hay 
không không phải là vấn đề quan trọng, 
điều chủ yếu là mục đích xử lý, phân 
tích, tổng hợp thông tin là gì - thu đ−ợc 
tri thức mới hay tạo điều kiện cho ng−ời 
dùng tin trong việc định h−ớng dòng tin 
và t− liệu.(*) 
Theo Bljumenau D.I., quan điểm 
trong Từ điển t−ờng giải (tiếng Nga) - 
tổng thuật đ−ợc định nghĩa là một ấn 
phẩm thông báo khái quát và cô đọng về 
một loạt hiện t−ợng, yếu tố, sự kiện 
đồng loại, có một quan hệ nào đó với 
nhau - có thể lấy làm cơ sở cho một định 
(*) Viện Thông tin KHXH. 
Một số quan niệm 49 
nghĩa chính xác về tổng thuật. Tổng 
thuật không phải là một thông báo tỉ mỉ 
mà tr−ớc hết phải khái quát và cô đọng 
về một loạt đối t−ợng đồng loại (hiện 
t−ợng, sự kiện), có thể coi t−ơng 
đ−ơng với nghĩa của từ “quan sát toàn 
bộ”. Nó không phải theo một tuyến hẹp, 
mà là một cách nhìn toàn cảnh, bỏ qua 
những bộ phận, những chi tiết thứ yếu, 
không cơ bản. 
Theo cách lý giải nh− vậy, 
Bljumenau D.I. cho rằng, tổng thuật là 
một tài liệu tập hợp, mang những nhận 
xét khái quát chung, cô đọng về hiện 
trạng của một vấn đề - một loạt đối 
t−ợng cùng loại (có hoặc không có phần 
đánh giá và dự báo, định h−ớng) với 
mức độ khái quát cần thiết (Bljumenau 
D.I., 1972, tr.8). Tổng thuật chính là 
một loại hình tài liệu hoàn chỉnh, thống 
nhất về cấu trúc logic và hình thức văn 
phong. Những kết luận, đề nghị, đánh 
giá và dự báo sẽ không v−ợt quá khuôn 
khổ của những tri thức đã biết. Tính đặc 
thù của tổng thuật là tính chất trung 
gian giữa các tài liệu cấp một và cấp 
hai, giữa khoa học và chính luận, giữa 
tri thức và thông tin 
Tuy nhiên, có thể thấy, trong khi 
“một bài viết có tính chất tổng thuật” sẽ 
phản ánh tiến trình và kết quả của một 
công trình nghiên cứu (hay một loạt 
công trình) nhằm mục đích thu đ−ợc tri 
thức mới, thì tổng thuật theo cách hiểu 
của Bljumenau D.I. chỉ nhận xét, đánh 
giá khái quát vấn đề và không nhằm 
thu đ−ợc tri thức mới. 
Hoàn toàn phủ nhận và đi ng−ợc lại 
với quan điểm của Bljumenau D.I. rằng 
tổng thuật chỉ nhận xét, đánh giá khái 
quát vấn đề và không nhằm thu đ−ợc tri 
thức mới, Al’Tshuler cho rằng đây là 
nhận định hoàn toàn sai lầm. Theo 
Al’Tshuler, đ−a ra một định nghĩa cho 
khái niệm tổng thuật - điều đó có nghĩa 
là định ra giới hạn cho nó. Tuy nhiên, 
theo ông, mọi ng−ời đều hiểu rằng chữ 
“tổng thuật” về thực chất đã không còn 
là một thuật ngữ nữa, nó đã mất hẳn ý 
nghĩa về mặt thuật ngữ của mình 
(Al’Tshuler, 1974, tr.6). 
Trong Từ điển thuật ngữ lý thuyết 
và thực hành thông tin Nga-Anh-Pháp, 
tổng thuật đ−ợc định nghĩa là tài liệu 
thứ cấp phản ánh những đặc điểm khái 
quát về một vấn đề nào đó qua một loạt 
những tài liệu phân tích cấp một (Г.С. 
Жданова, О.В. Иосселевич, Е.С. 
Коловголова..., 1968, tr.107). 
ở quan điểm của E.SH. Zhuravel và 
G.V. Korsunskaja, tổng thuật đ−ợc định 
nghĩa là tài liệu khoa học kỹ thuật chứa 
đựng l−ợng thông tin tinh lọc thu đ−ợc 
trên cơ sở phân tích, hệ thống hoá và 
khái quát tin tức rút từ nguồn tài liệu 
gốc về tình hình tr−ớc đó và hiện tại 
hoặc về các khuynh h−ớng phát triển 
của vấn đề, đối t−ợng nghiên cứu (E.SH. 
Zhuravel, G.V. Korsunskaja, 1974, tr.4). 
Tuy nhiên, khi khái niệm tổng 
thuật xuất hiện lần đầu ở Việt Nam từ 
những năm 1970 trên các ấn phẩm của 
Viện Thông tin Khoa học xã hội và sau 
đó là trên các tạp chí nghiên cứu 
(Nguyễn Hoài, 1993, tr.41), nó đ−ợc 
hiểu và sử dụng với một nghĩa hẹp hơn. 
Tổng thuật, theo Đoàn Phan Tân, là 
bài trình bày tổng hợp một cách khoa 
học và có hệ thống về các vấn đề đ−ợc 
xem xét, cùng với sự phân tích hiện 
trạng, mức độ và xu h−ớng phát triển 
của chúng. Tổng thuật th−ờng đ−ợc các 
nhà khoa học có trình độ cao biên soạn 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2014 50 
từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau 
(Đoàn Phan Tân, 2001, tr.234). Theo 
quan niệm này, xét về bình diện nội 
dung văn bản, văn bản tổng thuật sẽ 
bao gồm việc trình bày các quan điểm về 
một vấn đề, đồng thời có cả những phân 
tích và dự báo. 
Còn theo Đào Duy Tân, các nhà 
nghiên cứu th−ờng nhất trí rằng, hiểu 
theo nghĩa rộng thì tổng thuật là tài 
liệu phản ánh một cách ngắn gọn, tập 
trung, khái quát nhiều sự kiện, nhiều 
hiện t−ợng thuộc về một vấn đề nhất 
định hoặc bao quát trong một phạm vi 
thời gian nhất định. Hoặc một cách hiểu 
khác, coi tổng thuật là văn bản tổng hợp 
nêu đặc tính chung của một vấn đề hay 
một số vấn đề nào đó, trên cơ sở sử dụng 
thông tin rút ra từ một tập hợp tài liệu 
gốc nào đó trong một giai đoạn nhất 
định. Tổng thuật còn đ−ợc hiểu là một 
tài liệu hoặc một bản tổng kết một khối 
l−ợng lớn các xuất bản phẩm về một 
ngành nào đó trên cơ sở nghiên cứu một 
cách thận trọng và khách quan từng 
xuất bản phẩm, nếu cần thì phải giải 
thích và đánh giá thông tin nêu lên 
trong các xuất bản phẩm đó dựa trên 
các thành tựu đã đạt đ−ợc sau khi tài 
liệu gốc đ−ợc công bố. Từ một góc độ 
khác, có thể coi tổng thuật chứa đựng 
đặc tr−ng tổng hợp, ngắn gọn về tình 
hình của một vấn đề nào đó, của hàng 
loạt các đối t−ợng đồng loại (có đánh giá 
về ph−ơng h−ớng phát triển hoặc 
không) với mức độ khái quát cần thiết 
(Đào Duy Tân, 1984, tr.72). Nh− vậy, 
theo các cách quan niệm này, tổng thuật 
chính là một tác phẩm trọn vẹn về mặt 
cấu tạo, có tính thống nhất về cơ cấu 
logic, phản ánh mức độ đầy đủ và chi 
tiết về quá trình và kết quả của một loạt 
các nghiên cứu. 
Tổng hợp, kế thừa quan điểm của 
các nhà nghiên cứu đi tr−ớc, cùng với 
cách nhìn nhận từ góc độ ngôn ngữ học 
văn bản và hiểu theo một nghĩa hẹp, 
chúng tôi quan niệm tổng thuật là loại 
văn bản phái sinh đ−ợc xây dựng trên 
cơ sở nhiều văn bản gốc, phản ánh một 
cách ngắn gọn, hệ thống, khái quát về 
một vấn đề nào đó trong một phạm vi 
thời gian nhất định. Cách quan niệm 
này, theo chúng tôi, vừa đảm bảo đ−ợc 
những yêu cầu về mặt hình thức – ngắn 
gọn (nếu xét tổng thuật là một dạng văn 
bản rút gọn, tóm tắt), vừa đảm bảo đ−ợc 
những yêu cầu về mặt nội dung – thông 
tin hệ thống và khái quát (nếu xét tổng 
thuật là một sản phẩm thông tin). 
2. Phân loại văn bản tổng thuật 
Tổng thuật đ−ợc phân loại theo 
nhiều quan điểm khác nhau, d−ới đây là 
một số quan điểm tiêu biểu. 
Cách phân loại của E.SH. Zhuravel 
và G.V. Korsunskaja có thể nói là mang 
tính bao quát và theo cách hiểu khái 
niệm tổng thuật rộng hơn cả. Các tác 
giả này phân loại tổng thuật dựa trên 3 
tiêu chí: theo chiều sâu của sự phân tích 
nội dung tài liệu gốc; theo mục đích sử 
dụng; và theo hình thức trình bày 
(E.SH. Zhuravel, G.V. Korsunskaja, 
1974, tr.4-10). Dựa theo hai tiêu chí đầu 
tiên, các loại tổng thuật đ−ợc chúng tôi 
tổng hợp lại trong bảng ở trang bên. 
ở đây, tổng thuật th− mục đ−ợc 
E.SH. Zhuravel và G.V. Korsunskaja 
quan niệm là tài liệu cấp hai gồm 
những tin tức dẫn liệu đã đ−ợc khái 
quát và hệ thống hoá về tính chất và 
công dụng của các ấn phẩm và t− liệu. 
Khác với bảng tra có tính chất dẫn 
thuật, trong tổng thuật th− mục có 
đánh giá và nêu lên những điểm khác 
Một số quan niệm 51 
nhau giữa các ấn phẩm hoặc t− liệu. 
Tổng l−ợc đ−ợc coi là tài liệu cấp hai, 
gồm những tin tức dẫn liệu đã đ−ợc 
khái quát và hệ thống hoá, rút từ các 
nguồn tài liệu gốc về tình hình và 
những khuynh h−ớng phát triển cơ bản 
của vấn đề, đối t−ợng nghiên cứu. Còn 
tổng thuật phân tích đ−ợc hiểu là tài 
liệu cấp hai, có đ−ợc trên cơ sở phân tích 
một cách toàn diện tin tức dẫn liệu lấy 
từ các nguồn tài liệu gốc, gồm l−ợng 
thông tin mới về chất, tức là sự đánh giá 
của tác giả có dẫn chứng kèm theo về 
tình hình, khuynh h−ớng phát triển của 
vấn đề đang nghiên cứu, hay đối t−ợng 
nghiên cứu, và có thể có cả những đề 
nghị h−ớng giải quyết các vấn đề đó một 
cách có cơ sở. 
Còn nếu xét về hình thức trình bày, 
E. SH. Zhuravel và G. V. Korsunskaja 
phân tổng thuật thành 4 loại, bao gồm: 
bảng tra tổng thuật (tổng thuật các tài 
liệu hiện đang l−u hành hàng ngày về 
một vấn đề chuyên ngành hẹp); tổng 
thuật hàng năm (báo cáo) (là tổng thuật 
bao gồm các tài liệu về một vấn đề nào 
đó trong một năm, khi biên soạn sẽ sử 
dụng các bảng tra tổng thuật); bài báo 
tổng thuật (là tổng thuật của tài liệu 
trong một thời kỳ nhất định, th−ờng từ 
3 đến 10 năm, khi biên soạn sẽ sử dụng 
các tổng thuật hàng năm); và tổng thuật 
kiểu chuyên khảo (là một loại tổng thuật 
đặc tr−ng đa diện từ các tài liệu trong 
một quãng thời gian dài hơn, khi biên 
soạn sẽ sử dụng các bài báo tổng thuật). 
T−ơng tự E.SH. Zhuravel và G.V. 
Korsunskaja, Bljumenau D.I. cũng cho 
rằng, tuỳ thuộc vào loại hình phân tích 
nào (khoa học, kỹ thuật, thông tin, th− 
mục) chiếm −u thế trong một tổng thuật 
nhất định nào đó (mà cái đó lại hoàn 
toàn phụ thuộc vào mục đích và đối 
t−ợng độc giả), tổng thuật sẽ đ−ợc phân 
thành: tổng thuật phân tích (phân tích 
khoa học và kỹ thuật); tổng l−ợc (phân 
tích thông tin); và th− mục-thông tin, chỉ 
dẫn và phê bình (phân tích th− mục). 
Tiêu chí 
phân loại 
Theo chiều sâu của sự phân tích 
nội dung tài liệu gốc 
Theo mục đích sử dụng 
Tổng thuật sách mới nhập 
Tổng thuật h−ớng dẫn sách cần đọc Tổng thuật th− mục 
Tổng thuật h−ớng dụng 
Tổng l−ợc khoa học kỹ thuật 
Tổng l−ợc sản xuất công nghệ 
Tổng l−ợc kỹ thuật kinh tế 
Tổng l−ợc 
Tổng thuật tổng hợp 
Tổng thuật phân tích khoa học kỹ thuật 
Tổng thuật phân tích sản xuất công nghệ 
Tổng thuật phân tích kỹ thuật kinh tế 
Tổng thuật phân tích tổng hợp 
Tổng thuật đối chiếu 
Tổng thuật dự đoán 
Tổng 
thuật 
Tổng thuật phân tích 
Tổng thuật khoa học th−ờng thức 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2014 52 
Kế thừa các quan điểm tr−ớc đó, 
Nguyễn Hoài cũng phân tổng thuật 
thành ba loại chính nh− trên. Tuy 
nhiên, thực tiễn phát triển của loại hình 
sản phẩm thông tin này cho thấy sự 
xuất hiện của một loại hình tổng thuật 
mới, đó là tổng thuật hội nghị, hội thảo 
khoa học. Loại hình này có điểm khác 
tổng l−ợc ở chỗ, tổng l−ợc dựa trên các 
nguồn tài liệu cấp một, còn tổng thuật 
hội nghị, hội thảo khoa học dựa trên 
những tri thức ch−a đ−ợc công bố rộng 
rãi hoặc ch−a đ−ợc công bố, mới chỉ xuất 
hiện lần đầu trong các báo cáo, tham 
luận, các thảo luận và kết luận tại các 
hội thảo, hội nghị khoa học đó (Nguyễn 
Hoài, 1993, tr.43). 
Xét trên tiêu chí về tính đầy đủ của 
thông tin chứa đựng trong văn bản tổng 
thuật (theo cách hiểu ở nghĩa hẹp, nh− 
đã nói ở trên), tác giả Bùi Thiết cho 
rằng, riêng ở các khoa học xã hội, tổng 
thuật đ−ợc phân thành hai loại: tổng 
thuật không hoàn chỉnh; và tổng thuật 
hoàn chỉnh (Bùi Thiết, 1985). Đối với 
tổng thuật không hoàn chỉnh, tài liệu sử 
dụng th−ờng không đầy đủ và tuỳ thuộc 
vào sự khống chế chủ quan của ng−ời 
viết. Hơn nữa, t− liệu không đ−ợc vắt 
kiệt, không đ−ợc khai thác hết, thậm chí 
ng−ời viết chỉ đề cập và xử lý những vấn 
đề mình quan tâm, bỏ qua những vấn 
đề còn lại. Ngoài ra, tính dự báo khoa 
học trong các tổng thuật không hoàn 
chỉnh tỏ ra khá hạn chế. Còn với loại 
tổng thuật hoàn chỉnh thì ng−ợc lại, tài 
liệu đ−ợc tổng hợp và khai thác một 
cách tối đa, những dự báo khoa học có cơ 
sở và có độ tin cậy cao. 
Có thể thấy, cho đến nay, tổng thuật 
không còn là một khái niệm mới. Tuy 
nhiên, có ý kiến cho rằng, qua phân tích 
nhiều bài tổng thuật đã công bố trên các 
tạp chí, khó có thể xác định đ−ợc các 
văn bản đó thuộc loại hình tổng thuật 
nào và thậm chí đó có phải các bài tổng 
thuật theo đúng nghĩa của nó hay 
không. Vì vậy, những nội dung đ−ợc đề 
cập trên đây tuy xới lại một vấn đề 
không mới, nh−ng hy vọng có thể đem 
đến cho những ng−ời làm thông tin khoa 
học một định h−ớng rõ ràng hơn tr−ớc 
khi tạo ra một văn bản tổng thuật  
Tài liệu tham khảo 
1. Al’Tshuler M.S. (1974), Giải quyết hệ 
thống thông tin tổng thuật trong điều 
kiện “khủng hoảng thông tin” (Ngô 
Phúc dịch), Viện Thông tin Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
2. Arerbukh V.M., Mikhaleve R.I., 
But’Inovich V.V., Surove V.V. (1974), 
Hệ thống tổng thuật ngành là cơ sở 
thông tin của dự toán và lập kế 
hoạch t−ơng lai (Ngô Thế Phúc dịch), 
Viện Thông tin Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
3. Bljumenau D.I. (1972), Một số vấn 
đề lý luận tổng thuật (Ngô Thế Phúc 
dịch), Viện Thông tin Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
4. Võ Lý Hoà (2004), Tìm hiểu văn bản 
tóm tắt và ph−ơng pháp tóm tắt văn 
bản (trên cơ sở các văn bản khoa học 
tiếng Việt), Luận án tiến sĩ ngữ văn, 
Tr−ờng Đại học Khoa học xã hội và 
nhân văn - Đại học Quốc gia Tp. Hồ 
Chí Minh. 
5. Nguyễn Hoài (1993), “Một vài vấn đề 
về tổng thuật”, Thông tin Khoa học 
xã hội (6). 
6. Đào Duy Tân (1984), “Những vấn đề 
lý luận của thông tin tổng thuật”, 
Thông tin Khoa học xã hội (3). 
Một số quan niệm 53 
7. Đoàn Phan Tân (2001), Thông tin 
học: Giáo trình, Nxb. Đại học Quốc 
gia Hà Nội, Hà Nội. 
8. Bùi Thiết (1985), “Một số vấn đề về 
tổng thuật khoa học các khoa học xã 
hội”, Thông tin Khoa học xã hội (7). 
9. Zhuravel E. SH., Korsunskaja G.V. 
(1974), Phân loại tổng thuật, Viện 
Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. 
10. Г.С. Жданова, О.В. Иосселевич, Е.С. 
Коловголова... (1968), Русско – Англо – 
Французский терминологический 
словарь по информационной теории и 
пратике, Изд. Наука, Москва. 
(tiếp theo trang 62) 
trên “các bờ cõi và giới hạn”, tìm đến đ−ợc 
sự tri kỷ tri âm và tạo đ−ợc sự ám ảnh 
kỳ lạ đối với nhiều thế hệ công chúng. 
Cuốn sách là tập hợp các bài viết của 
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, 
đem đến cho bạn đọc sự tiếp cận sâu sắc 
đối với tài năng và phong cách nghệ 
thuật độc đáo của một ng−ời nghệ sĩ lớn, 
một trái tim lớn luôn thức đập với những 
buồn vui, đau khổ của con ng−ời, của 
cuộc đời. Nội dung sách gồm 4 ch−ơng: 
Ch−ơng một: Chân dung phác thảo 
Ch−ơng hai: Nghệ thuật độc đáo 
Ch−ơng ba: Tiếp nhận và đánh giá 
Ch−ơng bốn: Nhớ Nam Cao 
Hoài Phúc 
Võ khánh vinh (chủ biên). Những 
vấn đề lý luận và thực tiễn về các 
quyền mới xuất hiện trong quá trình 
phát triển. H.: Khoa học xã hội, 2012, 
272 tr, Vb 50552. 
Ngày nay, quyền con ng−ời đ−ợc 
thừa nhận một cách rộng rãi và đ−ợc 
xem là giá trị chung của toàn nhân loại, 
đ−ợc cộng đồng quốc tế thừa nhận và trở 
thành vấn đề cơ bản trong pháp luật 
quốc tế và quốc gia. So với tr−ớc đây, 
quyền con ng−ời không chỉ đ−ợc hiểu là 
quyền đ−ợc sống, quyền tự do và quyền 
m−u cầu hạnh phúc mà quyền con 
ng−ời còn bao gồm cả quyền phát triển, 
quyền đ−ợc thông tin, quyền đ−ợc sống 
trong môi tr−ờng trong sạch, quyền 
đ−ợc chăm sóc sức khỏe... Cuốn sách là 
kết quả nghiên cứu của các tác giả trẻ 
với nhiều chuyên ngành khác nhau và 
những cách tiếp cận khác nhau về 
những vấn đề mới của quyền con ng−ời, 
trong khuôn khổ Dự án “Diễn đàn giáo 
dục về quyền con ng−ời ở bậc đại học và 
sau đại học” thuộc Ch−ơng trình Quản 
trị công và Cải cách hành chính theo 
Hiệp định tài trợ giữa Chính phủ Việt 
Nam và Chính phủ Đan Mạch. Nội 
dung sách gồm tập hợp những bài viết 
tập trung vào các vấn đề: Phát triển con 
ng−ời và quyền con ng−ời; Quyền giữ gìn 
bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số 
ở Việt Nam; Quyền con ng−ời trong 
thảm họa thiên nhiên; Cách mạng khoa 
học công nghệ và quyền con ng−ời; ảnh 
h−ởng của suy thoái tài nguyên rừng 
đến các quyền con ng−ời ở Việt Nam; 
B−ớc đầu tìm hiểu vấn đề quyền đ−ợc 
chết trong bối cảnh hiện nay; Nhận thức 
về quyền con ng−ời góp phần phòng 
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 
Việt Nam; Bảo vệ quyền trẻ em trong 
quan hệ nuôi con nuôi - Từ thực tiễn đến 
yêu cầu hoàn thiện pháp luật và cơ chế 
bảo đảm; Bảo vệ quyền của ng−ời đồng 
tính - Một vấn đề đáng đ−ợc l−u tâm. 
HB. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_quan_niem_ve_tong_thuat_va_phan_loai_tong_thuat.pdf