Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam

Năng lực thông tin (NLTT- tiếng Anh là

Information Literacy) là một trong những kiến

thức và kỹ năng then chốt, cần thiết trong việc

nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực nào. Đó là điều

kiện tiên quyết cho việc học tập suốt đời và

cho phép người học tham gia một cách chủ

động và có tương tác vào nội dung học tập và

mở rộng việc nghiên cứu, trở thành người có

khả năng tự định hướng, tự kiểm soát tốt hơn

quá trình học của mình.

Chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa

học của một trường đại học luôn gắn liền với

chất lượng của thông tin mà các đối tượng

tham gia vào các quá trình này - giảng viên,

nhà nghiên cứu, sinh viên - thu thập, khai

thác và sử dụng. Trước sự gia tăng không

ngừng của các nguồn thông tin cũng như của

các phương tiện truy cập, tổ chức, lưu trữ và

khai thác thông tin đòi hỏi mọi người phải có

kiến thức và NLTT. Do vậy, nâng cao NLTT

là một yếu tố quan trọng đối với sinh viên.

Nâng cao NLTT có thể được thực hiện nhờ

vào nỗ lực của mỗi cá nhân bằng việc tự tìm

tòi học hỏi. Nhưng cũng như bất kỳ một hoạt

động đào tạo khác, việc nâng cao NLTT nên

và cần được thực hiện một cách bài bản thông

qua các khóa đào tạo, huấn luyện với chương

trình, nội dung hoàn chỉnh và do những người

có trình độ chuyên nghiệp đảm trách [Thư

viện Trung tâm Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí

Minh, 2011].

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 9160
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
22 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
 ThS Trần Dương
Trung tâm TT-TV, Trường Đại học Hà Tĩnh 
Tóm tắt: Bài viết trình bày khái niệm về năng lực thông tin, phân tích thực trạng đào tạo 
năng lực thông tin và đưa ra một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viên đại học 
ở Việt Nam.
Từ khóa: Năng lực thông tin; sinh viên đại học; Việt Nam.
Solutions to improve information literacy for university students in Vietnam 
Abstract: The paper presents the concept of information literacy, analyzes the status of 
information literacy training and offers a number of solutions to improve information literacy for 
university students in Vietnam. 
Keywords: Information literacy; university students; Vietnam.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THÔNG TIN CHO SINH VIỆN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 
Đặt vấn đề
Năng lực thông tin (NLTT- tiếng Anh là 
Information Literacy) là một trong những kiến 
thức và kỹ năng then chốt, cần thiết trong việc 
nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực nào. Đó là điều 
kiện tiên quyết cho việc học tập suốt đời và 
cho phép người học tham gia một cách chủ 
động và có tương tác vào nội dung học tập và 
mở rộng việc nghiên cứu, trở thành người có 
khả năng tự định hướng, tự kiểm soát tốt hơn 
quá trình học của mình. 
Chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa 
học của một trường đại học luôn gắn liền với 
chất lượng của thông tin mà các đối tượng 
tham gia vào các quá trình này - giảng viên, 
nhà nghiên cứu, sinh viên - thu thập, khai 
thác và sử dụng. Trước sự gia tăng không 
ngừng của các nguồn thông tin cũng như của 
các phương tiện truy cập, tổ chức, lưu trữ và 
khai thác thông tin đòi hỏi mọi người phải có 
kiến thức và NLTT. Do vậy, nâng cao NLTT 
là một yếu tố quan trọng đối với sinh viên. 
Nâng cao NLTT có thể được thực hiện nhờ 
vào nỗ lực của mỗi cá nhân bằng việc tự tìm 
tòi học hỏi. Nhưng cũng như bất kỳ một hoạt 
động đào tạo khác, việc nâng cao NLTT nên 
và cần được thực hiện một cách bài bản thông 
qua các khóa đào tạo, huấn luyện với chương 
trình, nội dung hoàn chỉnh và do những người 
có trình độ chuyên nghiệp đảm trách [Thư 
viện Trung tâm Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí 
Minh, 2011].
1. Khái niệm năng lực thông tin
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau 
về NLTT. Theo UNESCO (2005): “Năng lực 
thông tin là sự kết hợp của kiến thức, hiểu 
biết, các kỹ năng và thái độ mà mỗi thành 
viên cần hội tụ đầy đủ trong xã hội thông tin. 
Mỗi khi cá nhân có năng lực thì họ sẽ phát 
triển khả năng lựa chọn, đánh giá, sử dụng và 
trình bày thông tin một cách hiệu quả”. Điều 
này có nghĩa là người có NLTT phải sử dụng 
thông tin một cách đạo đức. Việc truy cập, sử 
dụng và phổ biến thông tin phải phù hợp với 
pháp luật. Theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ 
ALA (2000): “Năng lực thông tin là khả năng 
nhận biết nhu cầu thông tin của bản thân, 
cũng như khả năng định vị, đánh giá và sử 
dụng hiệu quả thông tin tìm được”.
Viện NLTT Australia và New Zealand thì cho 
rằng, một người có NLTT là người có khả năng 
[BundyAlan. Ed., 2004]: nhận dạng được nhu 
cầu tin của bản thân; xác định được phạm vi 
của thông tin mà mình cần; thẩm định thông 
tin và nguồn của chúng một cách tích cực và 
hiệu quả; phân loại, lưu trữ, vận dụng và tái 
tạo nguồn thông tin được thu thập hay tạo ra; 
biến nguồn thông tin được lựa chọn thành cơ 
sở tri thức; sử dụng thông tin vào việc học 
tập, tạo tri thức mới, giải quyết vấn đề, và ra 
quyết định một cách có hiệu quả; truy cập và 
sử dụng các nguồn thông tin hợp pháp và hợp 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
đạo đức; sử dụng thông tin và tri thức để thực 
hiện các quyền công dân và trách nhiệm xã 
hội; trải nghiệm năng lực thông tin như một 
phần của học tập độc lập cũng như tự học 
suốt đời.
NLTT trong tiếng Việt đôi khi còn được 
gọi là kỹ năng thông tin, hiểu biết thông tin, 
kiến thức thông tin, tri thức thông tin, phổ biến 
thông tin, phổ cập thông tin,... Trong bài viết 
này, chúng tôi xem năng lực thông tin mang 
tính kỹ năng thực hành nhiều hơn lý luận. 
NLTT ở đây bao gồm kiến thức (về khai thác, 
sử dụng, chia sẻ) thông tin + kỹ năng thông 
tin + thái độ, đạo đức trong tiếp cận, sử dụng 
thông tin. Qua tìm hiểu các tài liệu liên quan, 
chúng ta có thể thấy rằng hầu hết các tác giả 
đều có một điểm chung là xem NLTT là khả 
năng nhận biết nhu cầu thông tin, khả năng 
định vị, tìm kiếm, đánh giá, sử dụng thông tin 
cũng như thái độ sẵn sàng chia sẻ thông tin 
với mọi người.
2. Thực trạng đào tạo năng lực thông tin 
cho sinh viên ở Việt Nam
Ở Việt Nam từ những năm 2000 đến nay, 
các trường đại học, các tổ chức cũng đã tổ 
chức các hội thảo khoa học về NLTT. Tại Hà 
Nội, ngày 20/2/2006, Trường Đại học Khoa học 
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
phối hợp với uỷ ban thường trực khu vực Châu 
Á - Châu Đại Dương của Liên hiệp Quốc tế các 
Hiệp hội và Tổ chức thư viện (IFLA-RSCAO), 
tổ chức hội thảo khoa học: “Kiến thức thông 
tin - In ... ác trường nói riêng và cho các thư viện 
đại học nói chung trong việc tạo dựng được 
một nền tảng NLTT vững chắc vì chỉ khi có 
được tiêu chuẩn này chúng ta mới biết mình 
đang ở đâu và cần làm gì để đạt tới được 
những chuẩn đó [Trương Đại Lượng, 2015]. 
Trong kỷ nguyên thông tin, mọi người cần 
có NLTT để biết cách khai thác và sử dụng 
hiệu quả thông tin. Do đó, nên xây dựng 
những tiêu chuẩn NLTT làm căn cứ để đánh 
giá trình độ NLTT của các nhóm NDT, nhất 
là đối với sinh viên. Cần thiết xây dựng một 
khung chuẩn quốc gia về NLTT dựa trên 
những đặc thù về hành vi thông tin và hệ 
thống giáo dục của Việt Nam. Khung chuẩn 
này chính là cơ sở để các cơ quan giáo dục và 
đào tạo, cũng như các cơ quan TT-TV có thể 
xây dựng cho riêng mình những chương trình 
NLTT phù hợp. Hơn thế, nó giúp cho việc 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
26 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
triển khai NLTT tại các trường đại học ở Việt 
Nam trở nên đồng bộ và có hệ thống [Nghiêm 
Xuân Huy, 2006]. Vì vậy, trên cơ sở nghiên 
cứu tiêu chuẩn về NLTT của các nước trên 
thế giới như: Chuẩn NLTT của Hội Thư viện 
đại học và nghiên cứu Hoa Kỳ ALA (2000); 
Mô hình bảy trụ cột NLTT của Hiệp hội Thư viện 
Đại học, Cao đẳng và Thư viện Quốc gia Anh 
[SCONUL, 1999]; Chuẩn NLTT gồm các chuẩn 
NLTT cụ thể giúp CBTV và giảng viên thiết kế 
chương trình giảng giạy cũng như xây dựng 
thang đánh giá trình độ NLTT của sinh viên 
[Snelson P. và Stillwell L., 2001]; Tiêu chuẩn 
NLTT của UNESCO (2005), Tiêu chuẩn về 
NLTT trong giáo dục đại học do Thư viện Đại 
học và Thư viện nghiên cứu Hoa Kỳ ACRL 
(2000). Từ các tiêu chuẩn NLTT trên, các thư 
viện đại học ở Việt Nam, đặc biệt là Hội Thư 
viện Việt Nam cần xem xét và xây dựng các 
tiêu chuẩn về NLTT để có thể áp dụng cho hệ 
thống thư viện đại học ở Việt Nam.
3.2. Xây dựng mô hình năng lực thông tin
Từ thực trạng trên, chúng ta cần xây dựng 
một mô hình thống nhất để phát triển NLTT 
sinh viên đại học ở Việt Nam. Chúng ta có thể 
tham khảo mô hình NLTT của New Zealand 
và Ôxtrâylia: (1) Tầm nhìn về NLTT phải nhất 
quán với tầm nhìn của trường, (2) Nhấn mạnh 
NLTT là cơ sở để tốt nghiệp và là yêu cầu 
chính, cần có ở mỗi sinh viên, (3) Thiết lập 
cơ chế chính thức để giao tiếp và đối thoại 
thông qua cộng đồng học thuật nhằm ủng hộ 
NLTT cũng như việc học tập suốt đời, (4) Hỗ 
trợ quan điểm về NLTT là trách nhiệm của 
tất cả các bộ phận quản lý trong trường, nhà 
nghiên cứu, CBTV và các chuyên gia công 
nghệ thông tin [Nguyễn Đăng Hà, 2011]. 
Chúng ta cũng có thể tham khảo mô hình 
NLTT của tác giả Trương Đại Lượng (2015), 
trong luận án tiến sĩ với đề tài phát triển kiến 
thức thông tin cho sinh viên đại học ở Việt 
Nam. Ở mô hình này, quá trình phát triển 
NLTT cho sinh viên, CBTV và giảng viên vừa 
có tính độc lập, vừa có tính phối hợp. CBTV 
sẽ đảm nhiệm phát triển các kỹ năng thư viện 
cho sinh viên, trong khi đó giảng viên sẽ phát 
triển kỹ năng tư duy, giải quyết vấn đề cho 
sinh viên. CBTV chia sẻ kiến thức, kỹ năng 
thư viện cho giảng viên, trong khi đó giảng 
viên chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, kiến thức 
chuyên ngành cho CBTV, lãnh đạo Bộ Giáo 
dục và Đào tạo, lãnh đạo trường đại học, lãnh 
đạo phòng đào tạo, lãnh đạo các khoa, lãnh 
đạo thư viện đại học, giảng viên, CBTV, sinh 
viên. Hiện nay, trên thế giới có ba mô hình 
phát triển NLTT: (1) Mô hình truyền thống, (2) 
Mô hình sử dụng mạng sinh viên, (3) Mô hình 
phối hợp giữa cán bộ thư viện với giảng viên 
[Trương Đại Lượng, 2015]. Từ những mô hình 
trên chúng ta có thể xây dựng một mô hình 
NLTT áp dụng rộng rãi trong các trường đại 
học ở Việt Nam và đơn vị đứng ra chủ trì sẽ là 
Liên hiệp Thư viện Việt Nam.
3.3. Xây dựng chương trình giảng dạy 
năng lực thông tin
Ở New Zealand và Ôxtrâylia đã hình thành 
chương trình khung về NLTT bao gồm các 
nguyên tắc, tiêu chuẩn và yếu tố để các 
trường căn cứ vào đó có thể phát triển chương 
trình NLTT phù hợp với mục tiêu và sứ mạng 
của từng trường. Theo tác giả Đỗ Văn Hùng 
(2006), khi triển khai nội dung NLTT, chúng ta 
có thể có những lựa chọn và hướng xây dựng 
là tích hợp NLTT vào khung chương trình đào 
tạo; Xây dựng một nội dung NLTT độc lập với 
chương trình đào tạo. Và cũng tùy thuộc vào 
điều kiện thực tế của nhà trường, thư viện các 
trường đại học có thể kết hợp hài hòa giữa hai 
hình thức, chương trình đào tạo trên với điều 
kiện hiện tại và phù hợp nhất là cần có sự kết 
hợp hài hòa giữa hai hình thức trên [Đỗ Văn 
Hùng, 2006].
Các chương trình NLTT nên được tích hợp 
vào khung chương trình đào tạo dựa vào yêu 
cầu của trường về đầu ra đối với sinh viên tốt 
nghiệp. Chương trình đào tạo cần được triển 
khai cho các nhóm đối tượng cụ thể, tích hợp 
NLTT vào chương trình học tập cho nhóm 
giảng viên, nhóm sinh viên (từ nhóm sinh 
viên năm thứ nhất đến thứ tư). Xây dựng các 
chương trình đào tạo NLTT cho sinh viên trong 
các trường đại học và tổ chức đào tạo về vấn 
đề này ngay từ năm đầu tiên bước vào đại học. 
Ở nhiều nước phát triển, người ta xây dựng 
những chương trình đào tạo về NLTT cho sinh 
viên theo nhiều cấp độ khác nhau. Đa dạng 
hóa hóa các hình thức đào tạo như đào tạo trực 
tuyến, thường xuyên [Cao Minh Kiểm, 2006]. 
Gần đây, nhóm tác giả Đỗ Văn Hùng và 
cộng sự (2018), đã đề xuất nội dung cơ bản 
chương trình NLTT dành cho sinh viên đại 
học ở Việt Nam với 6 module: (1) Tổng quan 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
về NLTT, (2) Nhận dạng nhu cầu thông tin, 
(3) Tìm kiếm và khai thác thông tin, (4) Thẩm 
định và đánh giá thông tin, (5) Sử dụng thông 
tin và phòng tránh đạo văn, (6) Tổ chức thông 
tin. Từ các chương trình NLTT trên thế giới và 
trong nước, chúng ta có thể tham khảo để xây 
dựng cho khung chương trình NLTT cho sinh 
viên đại học ở Việt Nam.
3.4. Phương pháp giảng dạy
Với giảng viên, họ cần phải nhận thức 
được rằng muốn nâng cao chất lượng giảng 
dạy cần phải thay đổi phương pháp giảng dạy 
truyền thống bằng phương pháp giảng dạy 
mới, mà ở đó phát huy tối đa tính chủ động, 
sáng tạo của sinh viên. Đồng thời, họ cần 
phải hiểu được sinh viên có NLTT sẽ thuận lợi 
hơn trong việc tiếp cận, sử dụng và sáng tạo 
tri thức, góp phần nâng cao hiệu quả học tập 
của sinh viên. CBTV cần phối hợp với giảng 
viên để nắm bắt được nhu cầu thông tin của 
sinh viên, qua đó có thể định hướng và hỗ trợ 
họ trong việc thỏa mãn nhu cầu thông tin. Về 
phương pháp giảng dạy, giảng viên phải tích 
cực tương tác hai chiều và định hướng tài liệu 
cho sinh viên, giới thiệu các nguồn tài nguyên 
thông tin phù hợp với nội dung bài học. Đồng 
thời, sau quá trình giao bài, cần phải yêu cầu 
sinh viên trả bài đầy đủ và có sự đánh giá 
cụ thể [Đỗ Văn Hùng, 2006]. Phương pháp 
giảng dạy cũng cần phải nâng cấp và đổi mới 
nhằm đưa sinh viên trở thành trung tâm của 
quá trình dạy và học. Việc dạy và học đang 
được đổi mới thông qua triết lý lấy sinh viên 
làm trung tâm, qua việc hướng vào chỉ tiêu tốt 
nghiệp, những tương tác nhằm tận dụng tối đa 
nguồn thông tin sẵn có và công nghệ thông 
tin - viễn thông [Nghiêm Xuân Huy, 2006]. 
Giảng viên phải nhận thức được tầm quan 
trọng của NLTT đối với sinh viên để từ đó 
có những phương pháp giảng dạy phù hợp. 
Việc vận dụng các hình thức giảng dạy khác 
nhau luôn là hướng tiếp cận giúp sinh viên có 
hứng thú, ngoài giảng dạy lý thuyết kết hợp 
với thực hành, cần vận dụng phương thức đào 
tạo NLTT trực tuyến dựa trên các nền tảng 
E-learning. Giảng viên hướng người học tìm 
tòi và sáng tạo để vận hành tốt quá trình tự 
đào tạo, tự học với sự chỉ dẫn của giảng viên 
đến các nguồn học liệu phù hợp.
3.5. Kiểm tra, đánh giá 
Phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh 
giá là hai trong nhiều yếu tố quan trọng có 
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. 
Phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá 
trực tiếp tác động đến nhu cầu NLTT, trình độ 
NLTT của sinh viên. 
Vì vậy, trong quá trình đào tạo NLTT cho 
sinh viên thì hình thức kiểm tra hay đánh giá 
chính thức nào về thành quả học tập của sinh 
viên đều có vai trò thúc đẩy phát triển NLTT. 
Ngoài ra, bên cạnh kiểm tra, đánh giá, chúng 
ta cần phải tiến hành khảo sát mức độ hài 
lòng của người học bằng các phiếu thăm dò ý 
kiến. Kết quả điều tra để chúng ta nhận biết 
được những điểm mạnh, những điểm yếu để 
có giải pháp cải tiến chương trình và nội dung 
của NLTT đối với sinh viên; đánh giá về trình 
độ NLTT của sinh viên. Việc kiểm tra, đánh 
giá cần bám sát vào các tiêu chuẩn mà chúng 
ta đã lựa chọn cho nội dung và chương trình 
đào tạo. Ngoài ra, để kiểm tra và đánh giá 
NLTT của người học, đòi hỏi không chỉ thay 
đổi về cách thức tổ chức kiểm tra và đánh 
giá môn học chuyên ngành nói chung, mà 
còn yêu cầu xây dựng bộ tiêu chuẩn và chính 
sách đánh giá NLTT của sinh viên.
Kết luận
NLTT là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng 
trong kỷ nguyên thông tin. Đây là một khái 
niệm đã dần quen thuộc đối với các trường 
đại học ở nước ta. Trong những năm gần đây, 
khi giáo dục đại học chuyển từ hình thức đào 
tạo niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ 
với việc lấy người học làm trung tâm, chúng 
ta vẫn nhận thấy sản phẩm đầu ra của các 
cơ sở đào tạo phần nhiều là thiếu khả năng 
thích ứng với môi trường làm việc mới, hiện 
tượng tái đào tạo diễn ra khá phổ biến tại các 
cơ quan tuyển dụng. Có thể thấy rằng, những 
người mới tốt nghiệp thường rất hạn chế trong 
khả năng tiếp cận nguồn thông tin, tri thức 
mới, không chủ động trong việc tự nghiên cứu 
để đào sâu và mở rộng kiến thức chuyên môn 
và các kỹ năng mềm cần thiết. Do vậy, hoạt 
động TT-TV trong các trường đại học, bên 
cạnh việc xây dựng cho mình những kế hoạch 
hoạt động, loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu 
thông tin phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa 
học và học tập của các đối tượng người dùng; 
cũng cần góp phần trang bị cho họ những kỹ 
năng và kiến thức để làm chủ thế giới thông 
tin trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0. 
Đó chính là sự tổng hợp những kỹ năng nhận 
dạng nhu cầu thông tin của bản thân, định vị 
nguồn thông tin phù hợp với nhu cầu, tổ chức 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
28 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
nguồn thông tin tìm được một cách hợp lý, 
thẩm định nguồn thông tin đã được lựa chọn, 
sử dụng thông tin đó một cách hiệu quả và 
hợp pháp, còn được gọi là NLTT. NLTT được 
xem là chìa khóa quan trọng mở ra những cơ 
hội tri thức và nghề nghiệp cho mỗi cá nhân, 
góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học, 
công nghệ và giáo dục của đất nước [Nghiêm 
Xuân Huy, 2010]. 
Ở Việt Nam, đã có những hoạt động đầu 
tư phát triển NLTT như dự án NLTT trong các 
thư viện đại học do UNESCO tài trợ. Để đẩy 
mạnh hơn nữa công tác nâng cao NLTT, cần 
phải tiến hành đẩy mạnh hoạt động nâng cao 
nhận thức về NLTT trong xã hội, xây dựng 
những tiêu chuẩn về NLTT để phục vụ cho 
phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và đẩy 
mạnh các chương trình đào tạo về NLTT, đa 
dạng hóa các hình thức đào tạo về NLTT, tăng 
cường đào tạo NLTT thông qua hình thức trực 
tuyến, thường xuyên, đẩy mạnh đào tạo, nâng 
cao trình độ NLTT của cán bộ TT-TV chuyên 
nghiệp, đặc biệt là huấn luyện kỹ năng đào 
tạo để họ trở thành những người đào tạo 
NLTT chuyên nghiệp [Cao Minh Kiểm, 2006]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ALA (2000). Information Literacy 
Competency Standards for Higher Education. 
Chicago: American Library Association, 16p. 
2. Bundy, Alan. ed (2004). Australian and 
New Zealand Information Literacy Framework: 
principles, standards and practice, 2nd ed, 
Adelaide: Australian and New Zealand Institute for 
Information Literacy, 48 p.
3. Nguyễn Đăng Hà (2011). Các yêu cầu đối 
với một thư viện đại học trong việc huấn luyện kiến 
thức thông tin cho NDT thông qua việc xem xét 
kinh nghiệm ở nước ngoài và điều kiện ở việt nam, 
Kỷ yếu hội thảo - tập huấn “Nội dung và phương 
pháp thực hiện các khóa huấn luyện kỹ năng thông 
tin cho độc giả”, tr. 73-78.
4. Phạm Xuân Hoàn (2016). Lồng ghép kiến 
thức vào bài giảng tại các trường đại học: Thách 
thức và giải pháp. Kỷ yếu “Kỹ năng thông tin trong 
nghiên cứu". Trung tâm TT-TV Đại học Quốc gia 
Hà Nội, tr. 40 - 52.
5. Đỗ Văn Hùng, Lê Thị Nga, Nguyễn Bích Thủy 
(2018). Nghiên cứu và phát triển chương trình đào 
tạo năng lực thông tin cho sinh viên trong kỷ nguyên 
số. Tạp chí Thông tin và Tư liệu, Số 3, 9 - 20.
6. Đỗ Văn Hùng (2006). Kiến thức thông tin 
với công tác đào tạo nhân lực ngành thông tin thư 
viện ở Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học ngành 
Thông tin - Thư viện trong xã hội thông tin, tr. 120 
- 126.
7. Nghiêm Xuân Huy (2010). Vai trò của kiến 
thức thông tin đối với cán bộ nghiên cứu khoa học. 
Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 3(23), 11 - 18.
8. Nghiêm Xuân Huy (2006). Kiến thức thông 
tin nhân tố đổi mới diện mạo ngành thông tin thư 
viện Việt Nam - Những thách thức và triển vọng 
trong triển khai. Kỷ yếu hội thảo khoa học ngành 
Thông tin - Thư viện trong xã hội thông tin, tr. 28 
- 29.
9. Dương Thúy Hương (2011). Chương trình 
kiến thức thông của Thư viện Đại học Khoa học 
Tự nhiên, ĐHQG - HCM”. Bản tin Thư viện - Công 
nghệ Thông tin, Số 6, tr. 25 - 27.
10. Cao Minh Kiểm (2006). Hiểu biết tông tin: 
Tình hình và một số đề xuất. Kỷ yếu hội thảo khoa 
học ngành Thông tin - Thư viện trong xã hội thông 
tin, tr. 150 - 157.
11. Trương Đại Lượng (2015). Phát triển kiến 
thức thông tin cho sinh viên đại học ở Việt Nam: 
Luận án Tiến sĩ Khoa học Thông tin - Thư viện. Hà 
Nội: Trường Đại học Văn Hà Nội, 222 tr.
12. Huỳnh Thị Trúc Phương (2011). Xây dựng 
và triển khai chương trình đào tạo kỹ năng thông tin 
cho độc giả tại Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí Thư 
viện Việt Nam, Số 3 (29), tr. 12 -19.
13. Đinh Thúy Quỳnh (2016). Phát triển công 
tác đào tạo kỹ năng thông tin tại các trường đại 
học ở Việt Nam. Kỷ yếu “Kỹ năng thông tin trong 
nghiên cứu". Trung tâm TT-TV Đại học Quốc gia 
Hà Nội, tr. 57 - 63.
14. SCONUL (1999). Information skills in 
higher education: A Sconul position paper. Paper 
presented at the Society of College: National and 
University Libraries.
15. Snelson P. , Stillwell L. (2001). Transforming 
bibliographic instruction intoan information 
literacy program: challenges and opportunities”. 
In Crossing the divide, Proceedings of the 10th 
National conference of the Association of College 
and Research libraries, ALA, Denver, Colorado: 
Chicago, tr. 226 - 230.
16. Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia Tp. 
Hồ Chí Minh (2011). Kỷ yếu hội thảo - Tập huấn: 
Nâng cao nội dung và phương pháp thực hiện các 
khóa huấn luyện kỹ năng thông tin cho độc giả. 
Tp. Hồ Chí Minh: Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí 
Minh, 114 tr.
17. UNESCO (2005). Development of 
Information Literacy through School Libraries 
in South-East Asian Countries (IFAP Project 
461RAS5027). Bangkok: Unesco, 12p.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 16-3-2019; 
Ngày phản biện đánh giá: 20-5-2019; Ngày chấp 
nhận đăng: 15-6-2019).

File đính kèm:

  • pdfmot_so_giai_phap_nang_cao_nang_luc_thong_tin_cho_sinh_vien_d.pdf