Mô hình trung tâm tri thức số tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra về nhân lực
Cùng với sự phát triển của xã hội, sứ mệnh của các thư viện đã có sự
chuyển dịch từ: Quản lý tài liệu Quản trị thông tin Quản trị tri thức.
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, sứ mệnh này lại tiếp tục được mở
rộng với vai trò mới đó là quản trị tri thức số. Theo Klaus Ceynowa [10]
quản trị tri thức trong không gian dữ liệu sẽ là nhiệm vụ trọng tâm của các
thư viện hiện nay và tương lai. Thư viện sẽ là nơi quản lý ký ức xã hội tri
thức số; thư viện sẽ quản trị các thế giới dữ liệu mở liên kết của tri thức.
Theo Agnes Mainka, Sviatlana Khveshchanka [1] các thư viện sẽ giống
như những Trung tâm Tri thức số. Sự phát triển này không chỉ được đề
cập trên phương diện lý thuyết, cũng không phải chỉ diễn ra ở các nước
phát triển mà ngay tại Việt Nam hiện nay nhiều Trung tâm thông tin thư
viện đã triển khai chiến lược chuyển đổi sang mô hình TTTTS - Digital
Knowledge Hub. Việc chuyển đổi này là xu thế tất yếu của sự phát triển,
nó mở ra nhiều cơ hội cho các thư viện và trung tâm thông tin, tuy nhiên
nó cũng đặt ra nhiều thách thức đặc biệt là vần đề nhân lực. Từ những
luận điểm trên, việc nghiên cứu những yêu cầu đối với nhân lực trong
TTTTS, luận giải về những vấn đề đặt ra tại Việt Nam hiện nay cũng như
đề xuất giải pháp hoàn thiện là mục tiêu của bài viết này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình trung tâm tri thức số tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra về nhân lực
MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NHÂN LỰC Nguyễn Văn Thiên1* - Nguyễn Thanh Thủy2** Tóm tắt: Bài viết này tập trung vào các nội dung sau: Phân tích đặc điểm của Trung tâm Tri thức số (TTTTS), yêu cầu về nhân lực trong TTTTS; luận giải đánh giá thực trạng nhân lực trong các thư viện (TV) và trung tâm thông tin (TTTT) ở Việt Nam; Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực thông tin thư viện nhằm đảm bảo vận hành hiệu quả các TTTTS. Từ khóa: Nhân lực; Trung tâm Tri thức số; Thư viện Việt Nam. MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển của xã hội, sứ mệnh của các thư viện đã có sự chuyển dịch từ: Quản lý tài liệu Quản trị thông tin Quản trị tri thức. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, sứ mệnh này lại tiếp tục được mở rộng với vai trò mới đó là quản trị tri thức số. Theo Klaus Ceynowa [10] quản trị tri thức trong không gian dữ liệu sẽ là nhiệm vụ trọng tâm của các thư viện hiện nay và tương lai. Thư viện sẽ là nơi quản lý ký ức xã hội tri thức số; thư viện sẽ quản trị các thế giới dữ liệu mở liên kết của tri thức. Theo Agnes Mainka, Sviatlana Khveshchanka [1] các thư viện sẽ giống như những Trung tâm Tri thức số. Sự phát triển này không chỉ được đề cập trên phương diện lý thuyết, cũng không phải chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ngay tại Việt Nam hiện nay nhiều Trung tâm thông tin thư viện đã triển khai chiến lược chuyển đổi sang mô hình TTTTS - Digital * Tiến sĩ, Khoa Thông tin Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. ** Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Giao thông Vận tải. 114 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Knowledge Hub. Việc chuyển đổi này là xu thế tất yếu của sự phát triển, nó mở ra nhiều cơ hội cho các thư viện và trung tâm thông tin, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức đặc biệt là vần đề nhân lực. Từ những luận điểm trên, việc nghiên cứu những yêu cầu đối với nhân lực trong TTTTS, luận giải về những vấn đề đặt ra tại Việt Nam hiện nay cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện là mục tiêu của bài viết này. 1. TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TTTTS - Digital Knowledge Hub là mô hình khá mới, nó xuất hiện cùng với xu hướng chuyển đổi số mạnh mẽ trong các lĩnh vực ngành nghề, trong đó có lĩnh vực thông tin thư viện. Đã có nhiều học giả trong và ngoài nước đề cập đến mô hình này tiêu biểu như: Klaus Ceynowa [10]; Agnes Mainka, Sviatlana Khveshchanka [1]; Martin, B., A. Hazen, and M. Sarrafzadeh [11]; Paul Pandan, M. [12]; Chowdhury, C.G & Chowdhury, S. [2]; Nguyễn Hoàng Sơn [14] Những nghiên cứu này tiếp cận TTTTS từ những phương diện khác nhau như khái niệm, đặc điểm, vai trò, hay giới thiệu về mô hình trung tâm tri thức tại một số quốc gia trên thế giới. Tổng hợp các quan điểm trên có thể nhận diện TTTTS (trung tâm) từ những đặc điểm sau: + Nơi lưu trữ, tổ chức, phổ biến và kết nối các tài nguyên tri thức số. + Hoạt động của trung tâm dựa trên một nền tảng công nghệ hiện đại, thông minh kết nối liên thông tạo thành một hệ sinh thái tri thức số. + Trung tâm hoạt động trong không gian vật lý và không gian ảo, trong đó người sử dụng tương tác với trung tâm chủ yếu thông qua môi trường mạng. + Trung tâm đóng vai trò là hạ tầng nghiên cứu, là cơ sở của không gian dữ liệu liên kết mở. Hoạt động quản trị của trung tâm dựa trên dòng tri thức thay vì những đơn vị tri thức riêng lẻ. + Dịch vụ của trung tâm hỗ trợ xử lý dữ liệu khối (dữ liệu lớn) cho các phân tích định lượng với cấu trúc ngữ nghĩa liên kết và trực quan hóa của các mạng tri thức với mục tiêu làm cho chúng có thể điều hướng được dễ dàng, đáp ứng những thay đổi nhanh chóng của các quá trình nghiên cứu hiện đại. 115 MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NHÂN LỰC + Dịch vụ của trung tâm cho phép người sử dụng có thể dùng các thuật toán cấu trúc lại không gian dữ liệu. Người sử dụng không chỉ khai thác thông tin, tri thức mà còn tái tạo ra sản phẩm tri thức mới, đồng thời chia sẻ đóng góp cho cộng đồng. Như vậy có thể thấy có khá nhiều khác biệt giữa TTTTS so với Trung tâm thông tin. Những khác biệt này đặt ra nhiều yêu cầu, thách thức đối với các thư viện khi chuyển đổi sang mô hình này. TTTTS hoạt động trên nền tảng công nghệ số và những thành tựu khác của khoa học và công nghệ, tuy nhiên nó vẫn là một thực thể được cấu thành từ các yếu tố căn bản như: con người, tài nguyên thông tin, tri thức và công nghệ. Trong đó, yếu tố con người vẫn giữ vị trí then chốt bởi trong bất cứ hoạt động nào, con người cũng luôn đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của mỗi tổ chức. TTTTS có nhiều thay đổi trong chức năng nhiệm vụ cũng như trong phương thức thực hiện công việc. Các thay đổi này đã đặt ra những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực. 2. NHÂN LỰC TRONG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Trong nghiên cứu này, TTTTS được hiểu là mô hình trung tâm phát triển trên nền tảng của thư viện điệ ... cấp quản lý khác trong TV và TTTT. Việc điều chuyển, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý từ các lĩnh vực khác sang quản lý TV và TTTT dễ tạo ra những bất cập trong quản lý, đặc biệt là quản lý các hoạt động chuyên môn trong thư viện hiện đại. Có gần 10% cán bộ lãnh đạo quản lý trong TV và TTTT Việt Nam hiện nay chưa tham gia bất cứ một khóa đào tạo nào về quản lý, đây cũng là điểm yếu cần khắc phục. Thực tế này cũng được thể hiện trong kết quả khảo sát khi có tới 12.5% cán bộ lãnh đạo quản lý không xác định được mô hình cơ cấu tổ chức TV và TTTT mình đang quản lý thuộc loại nào. Qua phân tích các kết quả khảo sát thực trạng nhân lực trong các TV và TTTT ở Việt Nam có thể thấy, cùng với quá trình áp dụng thành tựu KH&CN, các TV và TTTT đã có sự quan tâm nhất định đến phát triển nhân lực. Thực tế này thể hiện qua cơ cấu nhân lực trong các TV và TTTT. Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có trình độ khá cao và có thâm niên trong quản lý. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực còn có nhiều tồn tại, trong đó tập trung vào: cơ cấu nhân lực trong các TV và TTTT có có sự chênh lệch khá lớn, nhiều TV và TTTT chưa tuyển dụng được nhân viên có trình độ về CNTT; phần lớn nhân lực trong các TV và TTTT đã tốt nghiệp cách thời điểm hiện nay khá lâu, lại không được đào tạo bồi dưỡng thường xuyên nên ít được cập nhật kiến thức về thư viện hiện đại. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có độ tuổi trung bình cao sẽ khó khăn trong việc tiếp cận với những công nghệ mới của thư viện hiện đại. Để nhân lực trong các TV và TTTT Việt Nam có đủ năng lực vận hành và khai thác hiệu quả các thư viện theo mô hình TTTTS cần thực hiện nhiều giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên. 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC THÔNG TIN THƯ VIỆN 4.1. Đào tạo bồi dưỡng cập nhật kiến thức + Đối với cán bộ lãnh đạo quản lý Từ những phân tích về thực tế đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong các TV và TTTT ở Việt Nam trên đây, có thể thấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có trình độ khá cao, tuy nhiên vì độ tuổi cũng như 125 MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NHÂN LỰC thời điểm tốt nghiệp khá lâu nên việc đào tạo nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn thư viện hiện đại là rất cần thiết. Theo Lê Văn Viết [19], đã đến lúc phải tiến hành mở lớp đào tạo riêng cho tất cả những ai làm công tác quản lý thư viện. Tính đến thời điểm hiện nay chưa một cơ sở đào tạo nào tại Việt Nam có một chương trình đào tạo riêng dành cho cán bộ lãnh đạo quản lý TV và TTTT. Kiến thức về tổ chức quản lý TV và TTTT chủ yếu được lồng ghép vào các chương trình đào tạo chung. Với thực tiễn Việt Nam hiện nay, việc xây dựng một chương trình đào tạo riêng dành cho cán bộ lành đạo quản lý tại các cơ sở đào tạo nhân lực thông tin – thư viện là rất cần thiết. Chương trình và các khóa đào tạo này phải được xây dựng và tổ chức linh hoạt với thời lượng và các nội dung khác nhau cho nhiều đối tượng cán bộ lãnh đạo quản lý. Việc đào tạo này cần được tiến hành một cách khoa học trên cơ sở phân hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý và có những chương trình đào tạo hợp lý. Cán bộ quản lý được điều chuyển từ lĩnh vực khác sang quản lý TV và TTTT cần được đào tạo những kiến thức cơ bản về lĩnh vực thông tin thư viện, trong đó tập trung vào những kiến thức chuyên môn về thư viện hiện đại. Đối với những cán bộ lãnh đạo quản lý chưa được tham gia bất kỳ khóa đào tạo nào về tổ chức quản lý cần được đào tạo bồi dưỡng những kiến thức căn bản về khoa học quản lý. Tất cả cán bộ lãnh đạo quản lý trong các TV và TTTT cần được đào tạo bồi dưỡng những kiến thức về quản lý thư viện hiện đại, trong đó tập trung vào các nội dung như những thay đổi căn bản trong quản lý thư viện hiện đại, ứng dụng các công nghệ mới vào quản lý trong thư viện hiện đại. + Đối với nhân viên thư viện Một thực tế cho thấy trong thời gian gần đây, để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, các cơ sở đào tạo nhân lực thông tin thư viện tại Việt Nam đã có nhiều đổi mới trong đó tập trung vào chương trình đào tạo, cũng như điều kiện thực hành nghề 126 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM nghiệp cho sinh viên. Các chương trình đào tạo được cập nhật theo hướng hiện đại, giảm tải các kiến thức về thư viện truyền thống, tăng cường kiến thức về ứng dụng CNTT, quản trị thông tin và quản trị tri thức. Số liệu thống kê trong bảng 1 là những học phần cập nhật trong chương trình đào tạo ngành Thông tin thư viện và Quản lý thông tin hiện đang được áp dụng tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Số liệu thống kê cho thấy có rất nhiều học phần theo hướng ứng dụng công nghệ trong thư viện hiện đại được cập nhật thay thế cho các học phần cũ không còn phù hợp. Bên cạnh đó, từ năm 2019, nhà trường đã chính thức khai trương hệ thống thực hành trực tuyến gồm các phần mềm thư viện tích hợp và hệ thống thư viện số do Hoa Kỳ và Newzealand phát triển. Với hệ thống này, gần như toàn bộ các môn học thuộc chuyên ngành thông tin thư viện, sinh viên được thực hành nghề nghiệp trực tiếp trên máy tính ngay tại cơ sở đào tạo. Bảng 1: Các học phần cập nhật theo hướng ứng dụng CNTT và quản trị tri thức tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội [17-18] TT Tên môn học phần mới Thời lượng (TC) 1 Tin học đại cương 3 2 Nhập môn năng lực thông tin 2 3 Mạng máy tính 2 4 Xác suất thống kê 2 5 Nhập môn cơ sở dữ liệu 2 6 Khoa học quản lý 3 7 Chính sách thông tin 2 8 Thông tin và tổ chức 2 9 An toàn thông tin 2 10 Trình bày thông tin khoa học 2 11 Nhập môn quản trị tri thức 2 12 Đánh giá thông tin 3 13 Tổ chức thông tin 3 14 Phân tích dữ liệu 3 127 MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NHÂN LỰC 15 Hệ thống tìm tin 3 16 Thiết kế và quản trị Website 3 17 Phân tích, quản trị hệ thống thông tin 3 18 Hệ thống thông tin quản lý 3 19 Quản trị nguồn lực thông tin số 3 20 Truyền thông hiện đại 3 21 Tài nguyên giáo dục mở 2 22 Tự động hóa hoạt động thông tin thư viện 3 23 Xây dựng và quản lý dự án trong lĩnh vực TTTV 3 Tổng số 59 Phân tích thực trạng nhân lực đang làm việc trong các TV và TTTT ở Việt Nam, có thể thấy phần lớn đã được đào tạo cách thời điểm hiện nay trên 10 năm và nhiều người chưa được tham gia các khóa đào tạo bồi dưỡng cập nhật kiến thức, vì vậy giải pháp đào tạo cập nhật kiến thức về thông tin thư viện hiện đại là rất cần thiết. Tương tự như đối với cán bộ lãnh đạo quản lý, để việc đào tạo đạt hiệu quả cao, các TV và TTTT cần có sự phân hoạch nhân lực, từ đó có các kế hoạch đào tạo phù hợp. Đối với đội ngũ cán bộ được đào tạo từ ngành khác, cần được đào tạo bồi dưỡng thêm những kiến thức căn bản về lĩnh vực thông tin thư viện. Đối với những cán bộ đã được đào tạo cách thời điểm hiện nay khá lâu, cần được đào tạo bồi dưỡng cập nhật thêm các kiến thức mới về lĩnh vực chuyên môn trong thư viện hiện đại. Về hình thức, có thể áp dụng đa dạng hóa các hình thức đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho nhân lực thông tin thư viện. + Đào tạo dài hạn, tập trung cho những cán bộ nòng cốt. + Đào tạo ngắn hạn, tập huấn nghiệp vụ cho những cán bộ cần cập nhật kiến thức. + Đào tạo tại nơi làm việc đối với các thư viện có số lượng nhân viên cần đào tạo lớn, hay đối với những nội dung đào tạo cần sự hướng dẫn trực tiếp (cầm tay chỉ việc). + Tham gia các khóa do các cơ sở đào tạo tổ chức ở nhiều trình độ khác nhau: ngắn hạn, đại học, sau đại học. 128 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM + Cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo tại nước ngoài, các nước có nền khoa học thư viện phát triển. 4.2. Đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức các thư viện và trung tâm thông tin Mô hình cơ cấu tổ chức có ý nghĩa quyết định rất lớn đến việc phát huy khả năng của nhân lực làm việc trong TV và TTTT. Kết quả khảo sát tại Việt Nam cho thấy phần lớn các TV và TTTT ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng mô hình cơ cấu tổ chức trực tuyến, chức năng. Các mô hình cơ cấu tổ chức này bên cạnh những ưu điểm đã bộc lộ nhiều bất cập. Mô hình này thường chỉ tập trung giải quyết các vấn đề trong nội bộ của tổ chức mà ít chú ý đến những mối liên hệ, những nhân tố tác động từ môi trường bên ngoài. Khi môi trường xã hội và môi trường công nghệ thay đổi thì tổ chức đó khó có thể thích nghi một cách nhanh chóng và linh hoạt. Chuyển đổi sang mô hình TTTTS với nền tảng công nghệ số và những thành tựu KHCN khác sẽ có những thay đổi nhanh chóng xảy ra ở các môi trường bên ngoài, bên trong. Mô hình tổ chức đang áp dụng phổ biến hiện nay trong các TV và TTTT ở Việt Nam sẽ bộc lộ những nhược điểm và tạo ra những khó khăn trong quản lý, cũng như không thế phát huy tối đa khả năng của nguồn nhân lực. Bên cạnh đó với mô hình cơ cấu tổ chức theo chức năng sự phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong tổ chức, phòng ban trong TV và TTTT bị hạn chế bởi ranh giới về chức năng và nhiệm vụ cụ thể đã được xác định. Mô hình này không thể phát huy hết tiềm năng của mỗi đơn vị, cá nhân trong TV và TTTT theo hướng mở, liên kết đa chiều. Chính vì vậy để phát huy tốt khả năng của nguồn nhân lực trong các TV và TTTT ở Việt Nam hiện nay, việc đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức là giải pháp hữu ích. Xu hướng chung của các TV và TTTT trên thế giới hiện nay là sử dụng mô hình lai ghép nhằm tạo ra một ma trận với sự liên kết đa chiều. Mô hình này có sự linh hoạt mềm dẻo đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn về thông tin thư viện hiện đại, có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng từ môi trường bên trong và bên ngoài, đặc biệt là môi trường KH&CN. Đồng thời mô hình này cũng phát huy được tối đa nội lực của các thành viên trong TV và TTTT. 129 MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NHÂN LỰC 4.3. Cải cách về cơ chế, chế độ đãi ngộ đối với nhân lực thông tin thư viện Khảo sát thực tế cho thấy nhiều TV và TTTT không thể tuyển dụng được nhân lực có trình độ về CNTT, thậm chí gần đây tại một số TV và TTTT, nhiều cán bộ đã xin chuyển sang làm việc khác hoặc thôi việc. Mô hình TTTTS có nhiều thay đổi về qui trình, phương thức thực hiện công việc theo hướng ứng dụng công nghệ, cần có đội ngũ nhân lực đáp ứng các yêu cầu mới. Để có thể thu hút được đội ngũ này cần có giải pháp cải cách về cơ chế, cũng như chế độ đãi ngộ phù hợp. Thực tế cho thấy rằng so với nhiều lĩnh vực khác, người làm việc trong lĩnh vực thông tin thư viện thường có thu nhập thấp. Đây không phải là lĩnh vực có sự hấp dẫn người lao động. Trong điều kiện chưa có những thay đổi lớn từ Nhà nước, bản thân các TV và TTTT có thể linh hoạt trong việc áp dụng chính sách nhằm thu hút người lao động, đặc biệt là nhân lực có trình độ về CNTT. KẾT LUẬN Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các TV và TTTT đang chuyển từ mô hình TTTT sang mô hình TTTTS. Sự thay đổi này là tất yếu và là xu thế chung của các TV và TTTT hiện nay. Nó mang đến nhiều mặt tích cực, tuy nhiên sự thay đổi này cũng đặt ra những vấn đề đối với nhân lực thông tin thư viện bởi thực trạng nhân lực làm việc trong các TV và TTTT ở Việt Nam hiện nay chưa thật đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Để giải quyết được vấn đề này, các TV và TTTT Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, chỉ như vậy nhân lực thông tin thư viện mới đáp ứng được những yêu cầu mới trong vận hành TTTTS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agnes Mainka, Sviatlana Khveshchanka (2012), “Digital Libraries as Knowledge Hubs in Informational Cities” Truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: https:// www.researchgate.net 2. Chowdhury, C.G & Chowdhury, S. (2003), Introduction to Digital Libraries. London: Facet Pub. 3. Gandhi, S. Knowledge management and reference services. Truy cập ngày 5.09 - 130 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 2020, tại trang Web: 4. Grey, D. (2012), What is knowledge management? The Knowledge Management Forum, 5. Henczel, S., Supporting the KM environment: The roles, responsibilities, and rights of information professionals. Truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: https://www.researchgate.net/publication/247677530_Supporting_ the_KM_environment_The_Roles_Responsibilities_and_Rights_of_ Information_Professionals. 6. Jon Gregson, John M. Brownlee, Rachel Playforth and Nason Bimbe (2015), “The Future of Knowledge Sharing in a Digital Age: Exploring Impacts and Policy Implications for Development”. Journal of IDS Evidence Report, Issue 125. Truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: https://www.researchgate. net/publication/304539535_The_Future_of_Knowledge_Sharing_ in_a_Digital_Age_Exploring_Impacts_and_Policy_Implications_for_ Development 7. Nguyễn Hữu Hùng (2005), Thông tin: Từ lý luận đến thực tiễn, Văn hóa thông tin, Hà Nội. 8. Kimiz Dalkir (2011), Knowledge Management in Theory and Practice. The MIT Press Cambridge, Massachusetts London, England 9. Krishan Kumar (2007), Library Management in Electronic Environment, Har- Anand, S.D. India. 10. Klaus Ceynowa (2016), Information in the Digital Knowledge Ecosystem – Challenges for the Library of the future, IFLA Publication, Berlin Germany. 11. Martin, B., A. Hazen, and M. Sarrafzadeh (2006), Knowledge management and the LIS professions: Investigating the implications for practice and for educational provision. truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: https://www. researchgate.net/publication/271995437_Knowledge_management_ and_the_LIS_professions_Investigating_the_implications_for_practice_ and_for_educational_provision 12. Paul Pandian M. (2011), Digital Knowledge Resources, truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: https://www.researchgate.net/publication/226457215_ Digital_Knowledge_Resources 13. Robert D. Stueart và Barbara B. Moran (2007), Library and Information Center Management, Library and Information Science Text Series, Libraries Unlimited, NewYork. 131 MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NHÂN LỰC 14. Nguyễn Hoàng Sơn (2020), Chuyển đổi thư viện số thành Trung tâm Tri thức số: nền tảng phát triển đại học số - đại học thông minh. truy cập ngày 5.10 - 2020, tại trang Web: https://lic.vnu.edu.vn/vi/content/chuyen-doi-tu-thu- vien-so-thanh-trung-tam-tri-thuc-so 15. Đoàn Phan Tân (2009), Tin học tư liệu, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Thiên (2017), Quản lý thư viện hiện đại tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội. 17. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2019), Chương trình đào tạo ngành Quản trị thông tin, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội. 18. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2019), Chương trình đào tạo ngành Thông tin Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội. 19. Lê Văn Viết (2011), “Thử bàn về chương trình đào tạo giám đốc thư viện”, 50 Năm đào tạo nguồn nhân lực thông tin – thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
File đính kèm:
- mo_hinh_trung_tam_tri_thuc_so_tai_viet_nam_va_nhung_van_de_d.pdf