Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên
Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu: Thứ nhất là tìm
hiểu thực trạng về thói quen đọc sách của các sinh viên thông qua
dữ liệu được khảo sát từ 383 sinh viên tại thành phố Đà Lạt. Thứ
hai, nghiên cứu xây dựng mô hình lý thuyết tích hợp giữa lý
thuyết hành vi có hoạch định (TPB) và thuyết động lực để giải
thích cho ý định duy trì thói quen đọc sách của các sinh viên. Mô
hình cấu trúc tuyến tính SEM được thực hiện trên mẫu gồm 252
sinh viên, cho kết quả các động lực bên trong và bên ngoài có sự
tác động tích cực đến thái độ với việc đọc sách. Thái độ, chuẩn
chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đã góp phần giải thích
cho ý định đọc sách của các sinh viên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên
Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 79 Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên An integrated model explaining for student’s reading intention Đặng Ngọc Cát Tiên1* 1Trường Đại học Yersin Đà Lạt, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: dangngoccattiendyd@gmail.com THÔNG TIN TÓM TẮT DOI:10.46223/HCMCOUJS. soci.vi.15.1.598.2020 Ngày nhận: 17/06/2019 Ngày nhận lại: 17/08/2019 Duyệt đăng: 03/04/2020 Từ khóa: động lực bên ngoài, động lực bên trong, ý định đọc sách Keywords: intrinsic motivation, extrinsic motivation, reading intention Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu: Thứ nhất là tìm hiểu thực trạng về thói quen đọc sách của các sinh viên thông qua dữ liệu được khảo sát từ 383 sinh viên tại thành phố Đà Lạt. Thứ hai, nghiên cứu xây dựng mô hình lý thuyết tích hợp giữa lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) và thuyết động lực để giải thích cho ý định duy trì thói quen đọc sách của các sinh viên. Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM được thực hiện trên mẫu gồm 252 sinh viên, cho kết quả các động lực bên trong và bên ngoài có sự tác động tích cực đến thái độ với việc đọc sách. Thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đã góp phần giải thích cho ý định đọc sách của các sinh viên. ABSTRACT The study was conducted with two objectives: Firstly, to understand the situation of reading habits of students through surveyed data from 383 students in Da Lat City. Secondly, the research builds a theoretical model that integrates the Theory of Planned Behavior (TPB) and Motivational Theory to explain the intention of maintaining students' reading habits. SEM structure model is implemented on a sample of 252 students. The results showed that internal and external motivations have a positive impact on reading attitudes. Attitudes, norms and perceived behavior control have contributed to explaining students’ reading intention. 1. Giới thiệu Theo Bashir và Mattoo (2012), thành tựu của việc giáo dục có thể được đo lường bằng lượng kiến thức mà một cá nhân thu nhận được từ trường học. Bên cạnh những kiến thức được truyền đạt trực tiếp từ giáo viên, giảng viên, thì thói quen đọc sách báo sẽ mang lại một nguồn tri thức khổng lồ cho các học sinh, sinh viên. Thói quen đọc sách là một khía cạnh thiết yếu để xây dựng một xã hội có học thức và văn minh (Palani, 2012). Vì vậy, việc kích thích thói quen đọc sách của các học sinh, sinh viên có thể mang lại những lợi ích to lớn và lâu dài cho chính 80 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 bản thân họ, và cho toàn bộ nền kinh tế, văn hóa và sự phát triển của xã hội. Như Greene (2001) đã từng nhắc, thói quen đọc sách được hình thành tốt nhất là trong độ tuổi đi học, và nó có thể kéo dài suốt cuộc đời với những giá trị lợi ích cực kỳ to lớn. Với lý do trên, nghiên cứu này được thực hiện để trả lời hai câu hỏi: Thực trạng việc đọc sách của các sinh viên hiện nay như thế nào? Và những nhân tố nào tác động đến hành vi đọc sách của các sinh viên? Phạm vi không gian mà nghiên cứu thực hiện là tại thành phố Đà Lạt. Để trả lời câu hỏi thứ nhất, nghiên cứu thực hiện việc khảo sát các sinh viên tại hai trường đại học lớn nhất của Đà Lạt là Đại học Đà Lạt và Đại học Yersin, để thu thập, thống kê các thông tin về thực trạng đọc sách và sử dụng thời gian rảnh của các sinh viên. Để trả lời câu hỏi thứ hai, nghiên cứu tổng hợp hai khung lý thuyết nổi tiếng về nghiên cứu hành vi, đó là lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) và lý thuyết động lực có tính ngữ cảnh (situational motivation). Từ đó, nghiên cứu xây dựng mô hình tích hợp để giải thích cho ý định duy trì thói quen đọc sách của các sinh viên. Để kiểm định mô hình nghiên cứu, phương pháp định lượng được thực hiện, với bảng khảo sát được phát cho các đối tượng sinh viên như trên, số liệu được phân tích và xử lý thông qua phần mềm AMOS 21. Những cơ sở lý thuyết cụ thể và việc tích hợp mô hình nghiên cứu sẽ được giới thiệu ở phần tiếp theo. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Thuyết hành vi có hoạch định (Theory of planned behavior) Thuyết hành vi có hoạch định được Ajzen (1991) xây dựng dựa trên nền tảng của thuyết hành động có lý do (Theory or Reasoned Action) để lý giải hầu hết các hành vi của con người và đã được chứng minh rất hữu dụng trong việc giải thích và dự đoán các hành vi cá nhân ở rất nhiều ngữ cảnh nghiên cứu khác nhau. Lý thuyết TPB chỉ ra rằng, hành vi của một cá nhân bắt nguồn trực tiếp từ ý định hành vi của họ, mà ý định này chịu sự tác động từ ba yếu tố chính là: Thái độ của họ đối với hành vi đó, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Thái độ phản ánh sự đánh giá ưa thích hay không ưa thích của một cá nhân đối với một hành vi nào đó, và nó ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ của hành vi hoặc niềm tin về những kết quả có thể xảy ra (Lee, 2009). Chuẩn chủ quan thể hiện nhận thức ... ng quan của hai khái niệm tương ứng). Từ đó, mô hình là hoàn toàn phù hợp cho các phân tích tiếp theo. Bảng 2 Nội dung thang đo Các khái niệm (Nguồn tham khảo) Nội dung thang đo Hệ số tải Động lực bên trong (Guay et al., 2009) Bởi vì tôi nghĩ rằng việc đọc sách là thú vị 0,757 Bởi vì tôi nghĩ rằng việc đọc sách thì thoải mái 0,689 Bởi vì đọc sách rất là vui 0,711 Bởi vì tôi cảm thấy thích thú khi đọc sách 0,723 Quy định tự nhận thức (Guay et al., 2009) Tôi đọc sách vì điều đó tốt cho tôi 0,722 Bởi vì tôi nghĩ rằng đọc sách mang lại lợi ích cho tôi 0,654 Bởi vì tôi tin rằng việc đọc sách quan trọng với tôi 0,773 Tự tôi quyết định đọc sách 0,678 Quy định bên ngoài (Guay et al., 2009) Bởi vì tôi được đề nghị đọc sách 0,658 Bởi vì việc đọc sách là điều tôi phải làm 0,752 Tôi đọc sách bởi vì tôi không có lựa chọn nào khác 0,703 Bởi vì tôi nghĩ rằng tôi phải đọc sách Loại Động lực vô thức (Guay et al., 2009) Có thể là có rất nhiều lý do để đọc sách, nhưng tôi cá nhân tôi vẫn không hiểu vì sao 0,713 Tôi đọc sách, nhưng tôi cũng không chắc rằng việc này có đáng không 0,742 Tôi vẫn chưa hiểu rõ việc đọc sách có thể mang lại cho tôi điều gì 0,755 Tôi có đọc sách, nhưng tôi không chắc rằng đây là hành động mà tôi nên tiếp tục 0,691 Thái độ (Lee, 2009) Tôi nghĩ rằng việc đọc sách là một ý kiến hay. 0,793 Tôi nghĩ rằng việc đọc sách là một ý tưởng sáng suốt. 0,818 Tôi nghĩ rằng việc đọc sách sẽ mang lại nhiều lợi ích cho tôi 0,602 Theo ý kiến của tôi, đọc sách là việc mọi người nên làm 0,636 86 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 Các khái niệm (Nguồn tham khảo) Nội dung thang đo Hệ số tải Ý định (Bhattacherjee, 2001) Tôi sẽ tiếp tục đọc sách cho nhu cầu học hỏi 0,761 Tôi dự định sẽ tiếp tục đọc sách trong tương lai 0,791 Tôi sẽ tiếp tục đọc sách cho nhu cầu giải trí của tôi 0,7 Tôi sẽ tiếp tục đọc sách và không từ bỏ thói quen này 0,711 Chuẩn chủ quan (Jeon et al. ,2011) Những người quan trọng với tôi nghĩ rằng tôi nên đọc sách 0,795 Những người thân trong gia đình rất ủng hộ việc đọc sách của tôi 0,631 Bạn bè của tôi nghĩ rằng tôi nên đọc sách 0,739 Những người có sức ảnh hưởng đến tôi nghĩ rằng tôi nên đọc sách Loại Nhận thức kiểm soát hành vi Lee (2009); Jeon và cộng sự (2011) Tôi nghĩ rằng mình có điều kiện thuận lợi để đọc sách 0,789 Tôi nghĩ rằng mình có đủ thời gian dành cho việc đọc sách 0,802 Tôi dễ dàng tiếp cận những cuốn sách mà tôi muốn 0,775 Tôi có đủ khả năng tài chính để thuê hoặc mua những quyển sách mà tôi muốn Loại Thói quen (Venkatesh et al., 2012) Việc đọc sách đã trở thành thói quen của tôi 0,786 Tôi rất nghiện đọc sách 0,795 Đọc sách là việc không thể thiếu trong cuộc sống của tôi 0,821 Nguồn: Tổng hợp của tác giả Bảng 3 Độ tin cậy của các thang đo Khái niệm Trung bình Độ lệch chuẩn Cronbach’Alpha CR AVE (1) Động lực bên trong 3,72 0,59 0,812 0,800 0,519 (2) Quy định tự nhận thức 3,91 0,55 0,797 0,799 0,502 (3) Quy định bên ngoài 3,65 0,59 0,746 0,749 0,498 (4) Động lực vô thức 4,09 0,57 0,815 0,800 0,527 (5) Thái độ 3,77 0,61 0,808 0,797 0,516 (6) Thói quen 3,50 0,72 0,842 0,750 0,641 (7) Chuẩn chủ quan 4,00 0,58 0,764 0,748 0,525 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 87 Khái niệm Trung bình Độ lệch chuẩn Cronbach’Alpha CR AVE (8) NT Kiểm soát hành vi 3,95 0,66 0,831 0,750 0,622 (9) Ý định 4,21 0,57 0,829 0,800 0,550 Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 4 Ma trận tương quan các khái niệm Khái niệm (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (1) Động lực bên trong 0,720 (2) Quy định tự nhận thức 0,604 0,708 (3) Quy định bên ngoài 0,365 0,463 0,705 (4) Động lực vô thức 0,495 0,379 0,332 0,726 (5) Thái độ 0,457 0,378 0,462 0,320 0,718 (6) Thói quen 0,362 0,329 0,346 0,346 0,402 0,801 (7) Chuẩn chủ quan 0,253 0,053 0,253 0,075 0,374 0,246 0,725 (8) NT Kiểm soát hành vi 0,182 0,225 0,345 0,126 0,355 0,382 0,429 0,789 (9) Ý định 0,289 0,249 0,281 0,233 0,455 0,355 0,407 0,496 0,742 Nguồn: Tính toán của tác giả 4.4. Mô hình cấu trúc Kiểm định SEM cho thấy các chỉ số phù hợp của mô hình đều đạt: CMIN/df=1,158; TLI=0,974; CFI=0,977; p=0,013; RMSEA=0,025; AGFI=0,872. Kết quả mô hình đo lường được thể hiện ở Hình 1 cho thấy có 5/8 giả thuyết được chấp nhận (p<0,05). Mô hình đã giải thích được 34,2% cho thái độ đối với hành vi đọc sách và 34,5% cho ý định đọc sách của các sinh viên. Kiểm định Bootstrap với cỡ mẫu lặp lại (N=1000) cho thấy độ chệch trung bình các ước lượng là rất nhỏ, các sai lệch chuẩn của sai lệch đều không đáng kể, nên các ước lượng trong mô hình là đáng tin cậy. 88 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 Hình 1. Kết quả mô hình đo lường Ghi chú: *: p<0,05 **: p<0,01 ***:p<0,001 5. Kết luận 5.1. Thảo luận kết quả Tương đồng với kết quả của Jeon và cộng sự (2011), kết quả của nghiên cứu này đã chỉ ra hai nhân tố động lực có tác động trực tiếp đến thái độ, đó là động lực bên trong (β=0,325) và động lực bên ngoài với khái niệm quy định tự nhận thức (β=0,364). Như vậy, hai động lực chính hướng sinh viên đến thái độ tích cực đối với việc đọc sách chính là niềm vui thích, sảng khoái trong lúc đọc sách và nhận thức của họ về những lợi ích và giá trị mà việc đọc sách mang lại. Yếu tố có tính ràng buộc cao là quy định bên ngoài, và yếu tố có tính chất mơ hồ, không tự chủ là động lực vô thức không có tác động đến thái độ. Điều này cho thấy các sinh viên đang rất tự chủ trong việc đọc sách, những thúc ép từ môi trường bên ngoài sẽ không có tác động thực sự, và chỉ có việc nhận thức được các lợi ích và sự thích thú khi đọc sách mới có tác động đến thái độ của họ. Về lý thuyết TPB, một lần nữa kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi là ba yếu tố chính để giải thích cho ý định, tương đồng với các nghiên cứu trước của Liao và cộng sự (2007), Lee (2009) hay Jeon và cộng sự (2011). Kết quả cho thấy nhận thức kiếm soát hành vi có tác động mạnh nhất đến ý định (β=0,306) và chuẩn chủ quan có tác động yếu hơn (β=0,166). Như vậy, đối với ý định đọc sách của sinh viên, thì các nhân tố thuận lợi như thời gian, khả năng tiếp cận sách, điều kiện tài chính để mua sách có phần quan trọng hơn so với những ý kiến ủng hộ việc đọc sách từ bạn bè và người thân của họ. Thói quen là một yếu tố mới được bổ sung vào mô hình, tuy nhiên kết quả cho thấy nó không có sự tác động đến ý định. Điều này có thể được lý giải bởi vì thói quen đọc sách của các sinh viên còn chưa cao, với giá trị trung bình của yếu tố này bằng 3,50 với thang đo tối đa là 5. Như vậy, khi thói quen đang ở mức thấp, thì nó chưa đủ sức mạnh để ảnh hưởng trực tiếp Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 89 đến ý định. Tóm lại, mô hình tích hợp trên đã khá thành công khi giải thích được 34,5% biến thiên của ý định đọc sách của các sinh viên. 5.2. Đóng góp về mặt lý thuyết Nghiên cứu đã tích hợp hai khung lý thuyết chuyên dùng để giải thích cho hành vi là TPB và các động lực có tính hoàn cảnh (situational movivation) để xây dựng mô hình giải thích cho ý định đọc sách của các sinh viên. Việc tích hợp thêm yếu tố thói quen vào mô hình cũng là ý tưởng khá mới mẻ, tuy nhiên với thực trạng thói quen đọc sách của các sinh viên còn chưa cao, nên yếu tố trên đã không thể giải thích cho ý định đọc sách khi đứng chung với các yếu tố mạnh khác của TPB như nhận thức kiểm soát hành vi hay chuẩn chủ quan. Kết quả thu được một lần nữa khẳng định giá trị giải thích và tiên đoán cho ý định hành vi của con người của lý thuyết TPB và lý thuyết động lực. 5.3. Hàm ý quản trị Trong 383 phiếu khảo sát hoàn thành tốt phần I về thực trạng đọc sách chung, thì chỉ có 252 phiếu khảo sát hoàn thành cả phần II về hành vi đọc sách. 131 phiếu còn lại đã đánh vào lựa chọn “Tôi không quan tâm” hoặc bỏ trống ý kiến, cho thấy chỉ có 65,7% các sinh viên thực sự quan tâm đến việc đọc sách. Giá trị trung bình của thái độ đối với việc đọc sách bằng 3,77 và thói quen đọc sách bằng 3,5 với thang đo tối đa là 5. Ngoài ra kết quả thống kê cho thấy có 66% lý do các sinh viên không đọc sách là vì “lười” và 57,3% hoạt động trong lúc rảnh của họ là dùng cho việc lướt mạng xã hội. Tất cả điều trên cho thấy các sinh viên ở thành phố Đà Lạt vẫn chưa có thói quen và thái độ tích cực đối với việc đọc sách. Những lý do bên ngoài ngăn cản việc đọc sách của các sinh viên cũng khá thấp, chỉ có 16% lý do là không có điều kiện phù hợp, trong khi 74% lý do còn lại là nằm ở chính thái độ “lười” hoặc không hứng thú đọc sách. Tuy nhiên, điều đáng mừng là kết quả mô hình nghiên cứu cho thấy, động lực tác động đến thái độ với việc đọc sách của các sinh viên đến từ nhận thức về lợi ích và nhu cầu giải trí, thư giãn của họ. Thống kê cũng cho thấy hơn 75% mục đích đọc sách của sinh viên là để thi đậu môn học và để giải trí. Như vậy, các sinh viên đã có cái nhìn đúng đắn về giá trị mà việc đọc sách mang lại. Kết quả cho thấy còn nhiều tiềm năng tăng cường hành vi đọc sách của họ bằng cách thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho việc đọc sách như: tăng số đầu sách trong thư viện, tăng khả năng tiếp cận sách, sự ủng hộ hành vi đọc từ bạn bè, người thân 5.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo Mô hình tích hợp tuy có nhiều điểm mới, nhưng mức độ giải thích đối với ý định hành vi là chưa cao, chỉ mới 34,2% cho thái độ và 34,5% cho ý định đọc sách của các sinh viên. Ngoài ra phạm vi của nghiên cứu còn bó hẹp cả về đối tượng khảo sát và phạm vi địa lý, vì vậy kết quả nghiên cứu chưa có tính phổ quát và toàn diện cho hành vi đọc sách của mọi người. Vì vậy cần nhiều nghiên cứu khác mở rộng cả về phạm vi và đối tượng, cũng như tích hợp thêm các yếu tố khác để có những mô hình tích hợp có khả năng lý giải tốt hơn cho ý định hành vi. 90 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 Tài liệu tham khảo Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision processes, 50(2), 179-211. doi:10.1016/0749-5978(91)90020-T Bashir, I., & Mattoo, N. H. (2012). A study on study habits and academic performance among adolescents (14-19) years. International Journal of Social Science Tomorrow, 1(5), 1-5. Bhattacherjee, A. (2001). Understanding information systems continuance: An expectation confirmation model. MIS Quarterly, 25, 351-370. doi:10.2307/3250921 Bock, G. W., Zmud, R. W., Kim, Y. G., & Lee, J. N. (2005). Behavioral intention formation in knowledge sharing: Examining the roles of extrinsic motivators, social-psychological factors, and organizational climate. MIS Quarterly, 29(1), 87-111. doi:10.2307/25148669 Converse, P. E. (2006). The nature of belief systems in mass publics. Critical Review, 18(1/3), 1-74. doi:10.1080/08913810608443650 Deci, E. L., & Ryan, R. M. (1985). The general causality orientations scale: Self-determination in personality. Journal of Research in Personality, 19(2), 109-134. doi:10.1016/0092- 6566(85)90023-6 Frey, B. S., & Osterloh, M. (2001). Successful management by motivation: Balancing intrinsic and extrinsic incentives. Berlin, Germany: Springer Science & Business Media. Gillet, N., Vallerand, R. J., Amoura, S., & Baldes, B. (2010). Influence of coaches' autonomy support on athletes' motivation and sport performance: A test of the hierarchical model of intrinsic and extrinsic motivation. Psychology of Sport and Exercise, 11(2), 155-161. doi:10.1016/j.psychsport.2009.10.004 Greene, B. (2001). Testing reading comprehension of theoretical discourse with cloze. Journal of Research in Reading, 24(1), 82-98. doi:10.1111/1467-9817.00134 Guay, F., Vallerand, R. J., & Blanchard, C. (2000). On the assessment of situational intrinsic and extrinsic motivation: The Situational Motivation Scale (SIMS). Motivation and Emotion, 24(3), 175-213. doi:10.1023/A:1005614228250 Hair, J. F., Sarstedt, M., Ringle, C. M., & Mena, J. A. (2012). An assessment of the use of partial least squares structural equation modeling in marketing research. Journal of the Academy of Marketing Science, 40(3), 414-433. doi:10.1007/s11747-011-0261-6 Jeon, S., Kim, Y. G., & Koh, J. (2011). An integrative model for knowledge sharing in communities-of-practice. Journal of Knowledge Management, 15(2), 251-269. doi:10.1108/13673271111119682 Lee, M. C. (2009). Factors influencing the adoption of internet banking: An integration of TAM and TPB with perceived risk and perceived benefit. Electronic Commerce Research and Applications, 8(3), 130-141. doi:10.1016/j.elerap.2008.11.006 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 91 Liao, C., Chen, J. L., & Yen, D. C. (2007). Theory of planning behavior (TPB) and customer satisfaction in the continued use of e-service: An integrated model. Computers in Human Behavior, 23(6), 2804-2822. doi:10.1016/j.chb.2006.05.006 Lin, H. F. (2007). Effects of extrinsic and intrinsic motivation on employee knowledge sharing intentions. Journal of Information Science, 33(2), 135-149. doi:10.1177/ 0165551506068174 Lin, H. H., & Wang, Y. S. (2006). An examination of the determinants of customer loyalty in mobile commerce contexts. Information & Management, 43(3), 271-282. doi:10.1016/j.im.2005.08.001 Ouellette, J. A., & Wood, W. (1998). Habit and intention in everyday life: The multiple processes by which past behavior predicts future behavior. Psychological Bulletin, 124(1), 54-74. doi:10.1037/0033-2909.124.1.54 Palani, K. K. (2012). Promoting reading habits and creating literate society. Researchers World, 3(2), 90-94. Pelletier, L. G., Tuson, K. M., Fortier, M. S., Vallerand, R. J., Briere, N. M., & Blais, M. R. (1995). Toward a new measure of intrinsic motivation, extrinsic motivation, and amotivation in sports: The Sport Motivation Scale (SMS). Journal of Sport and Exercise Psychology, 17(1), 35-53. doi:10.1123/jsep.17.1.35 Standage, M., Duda, J. L., Treasure, D. C., & Prusak, K. A. (2003). Validity, reliability, and invariance of the Situational Motivation Scale (SIMS) across diverse physical activity contexts. Journal of Sport and Exercise Psychology, 25(1), 19-43. doi:10.1123/jsep.25.1.19 Vallerand, R. J. (1997). Toward a hierarchical model of intrinsic and extrinsic motivation. Advances in Experimental Social Psychology, 29, 271-360. doi:10.1016/S0065- 2601(08)60019-2 Venkatesh, V., Thong, J. Y., & Xu, X. (2012). Consumer acceptance and use of information technology: Extending the unified theory of acceptance and use of technology. MIS Quarterly, 36(1), 157-178. doi:10.2307/41410412
File đính kèm:
- mo_hinh_tich_hop_giai_thich_cho_y_dinh_doc_sach_cua_sinh_vie.pdf