Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên

Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu: Thứ nhất là tìm

hiểu thực trạng về thói quen đọc sách của các sinh viên thông qua

dữ liệu được khảo sát từ 383 sinh viên tại thành phố Đà Lạt. Thứ

hai, nghiên cứu xây dựng mô hình lý thuyết tích hợp giữa lý

thuyết hành vi có hoạch định (TPB) và thuyết động lực để giải

thích cho ý định duy trì thói quen đọc sách của các sinh viên. Mô

hình cấu trúc tuyến tính SEM được thực hiện trên mẫu gồm 252

sinh viên, cho kết quả các động lực bên trong và bên ngoài có sự

tác động tích cực đến thái độ với việc đọc sách. Thái độ, chuẩn

chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đã góp phần giải thích

cho ý định đọc sách của các sinh viên.

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 1

Trang 1

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 2

Trang 2

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 3

Trang 3

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 4

Trang 4

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 5

Trang 5

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 6

Trang 6

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 7

Trang 7

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 8

Trang 8

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 9

Trang 9

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang baonam 8680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên

Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên
 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 79 
Mô hình tích hợp giải thích cho ý định đọc sách của sinh viên 
An integrated model explaining for student’s reading intention 
Đặng Ngọc Cát Tiên1* 
1Trường Đại học Yersin Đà Lạt, Việt Nam 
*Tác giả liên hệ, Email: dangngoccattiendyd@gmail.com 
THÔNG TIN TÓM TẮT 
DOI:10.46223/HCMCOUJS. 
soci.vi.15.1.598.2020 
Ngày nhận: 17/06/2019 
Ngày nhận lại: 17/08/2019 
Duyệt đăng: 03/04/2020 
Từ khóa: 
động lực bên ngoài, động lực 
bên trong, ý định đọc sách 
Keywords: 
intrinsic motivation, extrinsic 
motivation, reading intention 
Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu: Thứ nhất là tìm 
hiểu thực trạng về thói quen đọc sách của các sinh viên thông qua 
dữ liệu được khảo sát từ 383 sinh viên tại thành phố Đà Lạt. Thứ 
hai, nghiên cứu xây dựng mô hình lý thuyết tích hợp giữa lý 
thuyết hành vi có hoạch định (TPB) và thuyết động lực để giải 
thích cho ý định duy trì thói quen đọc sách của các sinh viên. Mô 
hình cấu trúc tuyến tính SEM được thực hiện trên mẫu gồm 252 
sinh viên, cho kết quả các động lực bên trong và bên ngoài có sự 
tác động tích cực đến thái độ với việc đọc sách. Thái độ, chuẩn 
chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đã góp phần giải thích 
cho ý định đọc sách của các sinh viên. 
ABSTRACT 
The study was conducted with two objectives: Firstly, to 
understand the situation of reading habits of students through 
surveyed data from 383 students in Da Lat City. Secondly, the 
research builds a theoretical model that integrates the Theory of 
Planned Behavior (TPB) and Motivational Theory to explain the 
intention of maintaining students' reading habits. SEM structure 
model is implemented on a sample of 252 students. The results 
showed that internal and external motivations have a positive 
impact on reading attitudes. Attitudes, norms and perceived 
behavior control have contributed to explaining students’ reading 
intention. 
1. Giới thiệu 
Theo Bashir và Mattoo (2012), thành tựu của việc giáo dục có thể được đo lường bằng 
lượng kiến thức mà một cá nhân thu nhận được từ trường học. Bên cạnh những kiến thức được 
truyền đạt trực tiếp từ giáo viên, giảng viên, thì thói quen đọc sách báo sẽ mang lại một nguồn 
tri thức khổng lồ cho các học sinh, sinh viên. Thói quen đọc sách là một khía cạnh thiết yếu để 
xây dựng một xã hội có học thức và văn minh (Palani, 2012). Vì vậy, việc kích thích thói quen 
đọc sách của các học sinh, sinh viên có thể mang lại những lợi ích to lớn và lâu dài cho chính 
80 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 
bản thân họ, và cho toàn bộ nền kinh tế, văn hóa và sự phát triển của xã hội. Như Greene (2001) 
đã từng nhắc, thói quen đọc sách được hình thành tốt nhất là trong độ tuổi đi học, và nó có thể 
kéo dài suốt cuộc đời với những giá trị lợi ích cực kỳ to lớn. Với lý do trên, nghiên cứu này 
được thực hiện để trả lời hai câu hỏi: Thực trạng việc đọc sách của các sinh viên hiện nay như 
thế nào? Và những nhân tố nào tác động đến hành vi đọc sách của các sinh viên? 
Phạm vi không gian mà nghiên cứu thực hiện là tại thành phố Đà Lạt. Để trả lời câu hỏi 
thứ nhất, nghiên cứu thực hiện việc khảo sát các sinh viên tại hai trường đại học lớn nhất của 
Đà Lạt là Đại học Đà Lạt và Đại học Yersin, để thu thập, thống kê các thông tin về thực trạng 
đọc sách và sử dụng thời gian rảnh của các sinh viên. 
Để trả lời câu hỏi thứ hai, nghiên cứu tổng hợp hai khung lý thuyết nổi tiếng về nghiên 
cứu hành vi, đó là lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) và lý thuyết động lực có tính ngữ cảnh 
(situational motivation). Từ đó, nghiên cứu xây dựng mô hình tích hợp để giải thích cho ý định 
duy trì thói quen đọc sách của các sinh viên. Để kiểm định mô hình nghiên cứu, phương pháp 
định lượng được thực hiện, với bảng khảo sát được phát cho các đối tượng sinh viên như trên, 
số liệu được phân tích và xử lý thông qua phần mềm AMOS 21. Những cơ sở lý thuyết cụ thể 
và việc tích hợp mô hình nghiên cứu sẽ được giới thiệu ở phần tiếp theo. 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Thuyết hành vi có hoạch định (Theory of planned behavior) 
Thuyết hành vi có hoạch định được Ajzen (1991) xây dựng dựa trên nền tảng của thuyết 
hành động có lý do (Theory or Reasoned Action) để lý giải hầu hết các hành vi của con người 
và đã được chứng minh rất hữu dụng trong việc giải thích và dự đoán các hành vi cá nhân ở rất 
nhiều ngữ cảnh nghiên cứu khác nhau. Lý thuyết TPB chỉ ra rằng, hành vi của một cá nhân bắt 
nguồn trực tiếp từ ý định hành vi của họ, mà ý định này chịu sự tác động từ ba yếu tố chính là: 
Thái độ của họ đối với hành vi đó, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Thái độ 
phản ánh sự đánh giá ưa thích hay không ưa thích của một cá nhân đối với một hành vi nào đó, 
và nó ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ của hành vi hoặc niềm tin về những kết quả có thể xảy 
ra (Lee, 2009). Chuẩn chủ quan thể hiện nhận thức ... ng quan của hai khái niệm tương ứng). Từ đó, mô 
hình là hoàn toàn phù hợp cho các phân tích tiếp theo. 
Bảng 2 
Nội dung thang đo 
Các khái niệm 
(Nguồn tham 
khảo) 
Nội dung thang đo 
Hệ số 
tải 
Động lực bên 
trong (Guay et 
al., 2009) 
Bởi vì tôi nghĩ rằng việc đọc sách là thú vị 0,757 
Bởi vì tôi nghĩ rằng việc đọc sách thì thoải mái 0,689 
Bởi vì đọc sách rất là vui 0,711 
Bởi vì tôi cảm thấy thích thú khi đọc sách 0,723 
Quy định tự 
nhận thức 
(Guay et al., 
2009) 
Tôi đọc sách vì điều đó tốt cho tôi 0,722 
Bởi vì tôi nghĩ rằng đọc sách mang lại lợi ích cho tôi 0,654 
Bởi vì tôi tin rằng việc đọc sách quan trọng với tôi 0,773 
Tự tôi quyết định đọc sách 0,678 
Quy định 
bên ngoài 
(Guay et al., 
2009) 
Bởi vì tôi được đề nghị đọc sách 0,658 
Bởi vì việc đọc sách là điều tôi phải làm 0,752 
Tôi đọc sách bởi vì tôi không có lựa chọn nào khác 0,703 
Bởi vì tôi nghĩ rằng tôi phải đọc sách Loại 
Động lực vô 
thức (Guay et 
al., 2009) 
Có thể là có rất nhiều lý do để đọc sách, nhưng tôi cá nhân tôi 
vẫn không hiểu vì sao 
0,713 
Tôi đọc sách, nhưng tôi cũng không chắc rằng việc này có 
đáng không 
0,742 
Tôi vẫn chưa hiểu rõ việc đọc sách có thể mang lại cho tôi 
điều gì 
0,755 
Tôi có đọc sách, nhưng tôi không chắc rằng đây là hành động 
mà tôi nên tiếp tục 
0,691 
Thái độ 
(Lee, 2009) 
Tôi nghĩ rằng việc đọc sách là một ý kiến hay. 0,793 
Tôi nghĩ rằng việc đọc sách là một ý tưởng sáng suốt. 0,818 
Tôi nghĩ rằng việc đọc sách sẽ mang lại nhiều lợi ích cho tôi 0,602 
Theo ý kiến của tôi, đọc sách là việc mọi người nên làm 0,636 
86 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 
Các khái niệm 
(Nguồn tham 
khảo) 
Nội dung thang đo 
Hệ số 
tải 
Ý định 
(Bhattacherjee, 
2001) 
Tôi sẽ tiếp tục đọc sách cho nhu cầu học hỏi 0,761 
Tôi dự định sẽ tiếp tục đọc sách trong tương lai 0,791 
Tôi sẽ tiếp tục đọc sách cho nhu cầu giải trí của tôi 0,7 
Tôi sẽ tiếp tục đọc sách và không từ bỏ thói quen này 0,711 
Chuẩn chủ quan 
(Jeon et al. 
,2011) 
Những người quan trọng với tôi nghĩ rằng tôi nên đọc sách 0,795 
Những người thân trong gia đình rất ủng hộ việc đọc sách của 
tôi 
0,631 
Bạn bè của tôi nghĩ rằng tôi nên đọc sách 0,739 
Những người có sức ảnh hưởng đến tôi nghĩ rằng tôi nên đọc 
sách 
Loại 
Nhận thức kiểm 
soát hành vi Lee 
(2009); Jeon và 
cộng sự (2011) 
Tôi nghĩ rằng mình có điều kiện thuận lợi để đọc sách 0,789 
Tôi nghĩ rằng mình có đủ thời gian dành cho việc đọc sách 0,802 
Tôi dễ dàng tiếp cận những cuốn sách mà tôi muốn 0,775 
Tôi có đủ khả năng tài chính để thuê hoặc mua những quyển 
sách mà tôi muốn 
Loại 
Thói quen 
(Venkatesh et 
al., 2012) 
Việc đọc sách đã trở thành thói quen của tôi 0,786 
Tôi rất nghiện đọc sách 0,795 
Đọc sách là việc không thể thiếu trong cuộc sống của tôi 0,821 
Nguồn: Tổng hợp của tác giả 
Bảng 3 
Độ tin cậy của các thang đo 
Khái niệm Trung bình Độ lệch chuẩn Cronbach’Alpha CR AVE 
(1) Động lực bên trong 3,72 0,59 0,812 0,800 0,519 
(2) Quy định tự nhận thức 3,91 0,55 0,797 0,799 0,502 
(3) Quy định bên ngoài 3,65 0,59 0,746 0,749 0,498 
(4) Động lực vô thức 4,09 0,57 0,815 0,800 0,527 
(5) Thái độ 3,77 0,61 0,808 0,797 0,516 
(6) Thói quen 3,50 0,72 0,842 0,750 0,641 
(7) Chuẩn chủ quan 4,00 0,58 0,764 0,748 0,525 
 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 87 
Khái niệm Trung bình Độ lệch chuẩn Cronbach’Alpha CR AVE 
(8) NT Kiểm soát hành vi 3,95 0,66 0,831 0,750 0,622 
(9) Ý định 4,21 0,57 0,829 0,800 0,550 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Bảng 4 
Ma trận tương quan các khái niệm 
Khái niệm (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) 
(1) Động lực bên trong 0,720 
(2) Quy định tự nhận thức 0,604 0,708 
(3) Quy định bên ngoài 0,365 0,463 0,705 
(4) Động lực vô thức 0,495 0,379 0,332 0,726 
(5) Thái độ 0,457 0,378 0,462 0,320 0,718 
(6) Thói quen 0,362 0,329 0,346 0,346 0,402 0,801 
(7) Chuẩn chủ quan 0,253 0,053 0,253 0,075 0,374 0,246 0,725 
(8) NT Kiểm soát hành vi 0,182 0,225 0,345 0,126 0,355 0,382 0,429 0,789 
(9) Ý định 0,289 0,249 0,281 0,233 0,455 0,355 0,407 0,496 0,742 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
4.4. Mô hình cấu trúc 
Kiểm định SEM cho thấy các chỉ số phù hợp của mô hình đều đạt: CMIN/df=1,158; 
TLI=0,974; CFI=0,977; p=0,013; RMSEA=0,025; AGFI=0,872. Kết quả mô hình đo lường 
được thể hiện ở Hình 1 cho thấy có 5/8 giả thuyết được chấp nhận (p<0,05). Mô hình đã giải 
thích được 34,2% cho thái độ đối với hành vi đọc sách và 34,5% cho ý định đọc sách của các 
sinh viên. Kiểm định Bootstrap với cỡ mẫu lặp lại (N=1000) cho thấy độ chệch trung bình các 
ước lượng là rất nhỏ, các sai lệch chuẩn của sai lệch đều không đáng kể, nên các ước lượng 
trong mô hình là đáng tin cậy. 
88 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 
Hình 1. Kết quả mô hình đo lường 
Ghi chú: *: p<0,05 **: p<0,01 ***:p<0,001 
5. Kết luận 
5.1. Thảo luận kết quả 
Tương đồng với kết quả của Jeon và cộng sự (2011), kết quả của nghiên cứu này đã chỉ 
ra hai nhân tố động lực có tác động trực tiếp đến thái độ, đó là động lực bên trong (β=0,325) 
và động lực bên ngoài với khái niệm quy định tự nhận thức (β=0,364). Như vậy, hai động lực 
chính hướng sinh viên đến thái độ tích cực đối với việc đọc sách chính là niềm vui thích, sảng 
khoái trong lúc đọc sách và nhận thức của họ về những lợi ích và giá trị mà việc đọc sách mang 
lại. Yếu tố có tính ràng buộc cao là quy định bên ngoài, và yếu tố có tính chất mơ hồ, không tự 
chủ là động lực vô thức không có tác động đến thái độ. Điều này cho thấy các sinh viên đang 
rất tự chủ trong việc đọc sách, những thúc ép từ môi trường bên ngoài sẽ không có tác động 
thực sự, và chỉ có việc nhận thức được các lợi ích và sự thích thú khi đọc sách mới có tác động 
đến thái độ của họ. 
Về lý thuyết TPB, một lần nữa kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng thái độ, chuẩn 
chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi là ba yếu tố chính để giải thích cho ý định, tương đồng 
với các nghiên cứu trước của Liao và cộng sự (2007), Lee (2009) hay Jeon và cộng sự (2011). 
Kết quả cho thấy nhận thức kiếm soát hành vi có tác động mạnh nhất đến ý định (β=0,306) và 
chuẩn chủ quan có tác động yếu hơn (β=0,166). Như vậy, đối với ý định đọc sách của sinh viên, 
thì các nhân tố thuận lợi như thời gian, khả năng tiếp cận sách, điều kiện tài chính để mua 
sách có phần quan trọng hơn so với những ý kiến ủng hộ việc đọc sách từ bạn bè và người 
thân của họ. Thói quen là một yếu tố mới được bổ sung vào mô hình, tuy nhiên kết quả cho thấy 
nó không có sự tác động đến ý định. Điều này có thể được lý giải bởi vì thói quen đọc sách của 
các sinh viên còn chưa cao, với giá trị trung bình của yếu tố này bằng 3,50 với thang đo tối đa 
là 5. Như vậy, khi thói quen đang ở mức thấp, thì nó chưa đủ sức mạnh để ảnh hưởng trực tiếp 
 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 89 
đến ý định. Tóm lại, mô hình tích hợp trên đã khá thành công khi giải thích được 34,5% biến 
thiên của ý định đọc sách của các sinh viên. 
5.2. Đóng góp về mặt lý thuyết 
Nghiên cứu đã tích hợp hai khung lý thuyết chuyên dùng để giải thích cho hành vi là 
TPB và các động lực có tính hoàn cảnh (situational movivation) để xây dựng mô hình giải thích 
cho ý định đọc sách của các sinh viên. Việc tích hợp thêm yếu tố thói quen vào mô hình cũng 
là ý tưởng khá mới mẻ, tuy nhiên với thực trạng thói quen đọc sách của các sinh viên còn chưa 
cao, nên yếu tố trên đã không thể giải thích cho ý định đọc sách khi đứng chung với các yếu tố 
mạnh khác của TPB như nhận thức kiểm soát hành vi hay chuẩn chủ quan. Kết quả thu được 
một lần nữa khẳng định giá trị giải thích và tiên đoán cho ý định hành vi của con người của lý 
thuyết TPB và lý thuyết động lực. 
5.3. Hàm ý quản trị 
Trong 383 phiếu khảo sát hoàn thành tốt phần I về thực trạng đọc sách chung, thì chỉ có 
252 phiếu khảo sát hoàn thành cả phần II về hành vi đọc sách. 131 phiếu còn lại đã đánh vào 
lựa chọn “Tôi không quan tâm” hoặc bỏ trống ý kiến, cho thấy chỉ có 65,7% các sinh viên thực 
sự quan tâm đến việc đọc sách. Giá trị trung bình của thái độ đối với việc đọc sách bằng 3,77 
và thói quen đọc sách bằng 3,5 với thang đo tối đa là 5. Ngoài ra kết quả thống kê cho thấy có 
66% lý do các sinh viên không đọc sách là vì “lười” và 57,3% hoạt động trong lúc rảnh của họ 
là dùng cho việc lướt mạng xã hội. Tất cả điều trên cho thấy các sinh viên ở thành phố Đà Lạt 
vẫn chưa có thói quen và thái độ tích cực đối với việc đọc sách. Những lý do bên ngoài ngăn 
cản việc đọc sách của các sinh viên cũng khá thấp, chỉ có 16% lý do là không có điều kiện phù 
hợp, trong khi 74% lý do còn lại là nằm ở chính thái độ “lười” hoặc không hứng thú đọc sách. 
Tuy nhiên, điều đáng mừng là kết quả mô hình nghiên cứu cho thấy, động lực tác động đến thái 
độ với việc đọc sách của các sinh viên đến từ nhận thức về lợi ích và nhu cầu giải trí, thư giãn 
của họ. Thống kê cũng cho thấy hơn 75% mục đích đọc sách của sinh viên là để thi đậu môn 
học và để giải trí. Như vậy, các sinh viên đã có cái nhìn đúng đắn về giá trị mà việc đọc sách 
mang lại. Kết quả cho thấy còn nhiều tiềm năng tăng cường hành vi đọc sách của họ bằng cách 
thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho việc đọc sách như: tăng số đầu sách trong thư viện, tăng 
khả năng tiếp cận sách, sự ủng hộ hành vi đọc từ bạn bè, người thân 
5.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo 
Mô hình tích hợp tuy có nhiều điểm mới, nhưng mức độ giải thích đối với ý định hành 
vi là chưa cao, chỉ mới 34,2% cho thái độ và 34,5% cho ý định đọc sách của các sinh viên. 
Ngoài ra phạm vi của nghiên cứu còn bó hẹp cả về đối tượng khảo sát và phạm vi địa lý, vì vậy 
kết quả nghiên cứu chưa có tính phổ quát và toàn diện cho hành vi đọc sách của mọi người. Vì 
vậy cần nhiều nghiên cứu khác mở rộng cả về phạm vi và đối tượng, cũng như tích hợp thêm 
các yếu tố khác để có những mô hình tích hợp có khả năng lý giải tốt hơn cho ý định hành vi. 
90 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 
Tài liệu tham khảo 
Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision 
processes, 50(2), 179-211. doi:10.1016/0749-5978(91)90020-T 
Bashir, I., & Mattoo, N. H. (2012). A study on study habits and academic performance among 
adolescents (14-19) years. International Journal of Social Science Tomorrow, 1(5), 1-5. 
Bhattacherjee, A. (2001). Understanding information systems continuance: An expectation 
confirmation model. MIS Quarterly, 25, 351-370. doi:10.2307/3250921 
Bock, G. W., Zmud, R. W., Kim, Y. G., & Lee, J. N. (2005). Behavioral intention formation in 
knowledge sharing: Examining the roles of extrinsic motivators, social-psychological 
factors, and organizational climate. MIS Quarterly, 29(1), 87-111. doi:10.2307/25148669 
Converse, P. E. (2006). The nature of belief systems in mass publics. Critical Review, 18(1/3), 
1-74. doi:10.1080/08913810608443650 
Deci, E. L., & Ryan, R. M. (1985). The general causality orientations scale: Self-determination 
in personality. Journal of Research in Personality, 19(2), 109-134. doi:10.1016/0092-
6566(85)90023-6 
Frey, B. S., & Osterloh, M. (2001). Successful management by motivation: Balancing intrinsic 
and extrinsic incentives. Berlin, Germany: Springer Science & Business Media. 
Gillet, N., Vallerand, R. J., Amoura, S., & Baldes, B. (2010). Influence of coaches' autonomy 
support on athletes' motivation and sport performance: A test of the hierarchical model 
of intrinsic and extrinsic motivation. Psychology of Sport and Exercise, 11(2), 155-161. 
doi:10.1016/j.psychsport.2009.10.004 
Greene, B. (2001). Testing reading comprehension of theoretical discourse with cloze. Journal 
of Research in Reading, 24(1), 82-98. doi:10.1111/1467-9817.00134 
Guay, F., Vallerand, R. J., & Blanchard, C. (2000). On the assessment of situational intrinsic 
and extrinsic motivation: The Situational Motivation Scale (SIMS). Motivation and 
Emotion, 24(3), 175-213. doi:10.1023/A:1005614228250 
Hair, J. F., Sarstedt, M., Ringle, C. M., & Mena, J. A. (2012). An assessment of the use of 
partial least squares structural equation modeling in marketing research. Journal of the 
Academy of Marketing Science, 40(3), 414-433. doi:10.1007/s11747-011-0261-6 
Jeon, S., Kim, Y. G., & Koh, J. (2011). An integrative model for knowledge sharing in 
communities-of-practice. Journal of Knowledge Management, 15(2), 251-269. 
doi:10.1108/13673271111119682 
Lee, M. C. (2009). Factors influencing the adoption of internet banking: An integration of TAM 
and TPB with perceived risk and perceived benefit. Electronic Commerce Research and 
Applications, 8(3), 130-141. doi:10.1016/j.elerap.2008.11.006 
 Đặng Ngọc Cát Tiên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 79-91 91 
Liao, C., Chen, J. L., & Yen, D. C. (2007). Theory of planning behavior (TPB) and customer 
satisfaction in the continued use of e-service: An integrated model. Computers in Human 
Behavior, 23(6), 2804-2822. doi:10.1016/j.chb.2006.05.006 
Lin, H. F. (2007). Effects of extrinsic and intrinsic motivation on employee knowledge sharing 
intentions. Journal of Information Science, 33(2), 135-149. doi:10.1177/ 
0165551506068174 
Lin, H. H., & Wang, Y. S. (2006). An examination of the determinants of customer loyalty in 
mobile commerce contexts. Information & Management, 43(3), 271-282. 
doi:10.1016/j.im.2005.08.001 
Ouellette, J. A., & Wood, W. (1998). Habit and intention in everyday life: The multiple 
processes by which past behavior predicts future behavior. Psychological Bulletin, 
124(1), 54-74. doi:10.1037/0033-2909.124.1.54 
Palani, K. K. (2012). Promoting reading habits and creating literate society. Researchers World, 
3(2), 90-94. 
Pelletier, L. G., Tuson, K. M., Fortier, M. S., Vallerand, R. J., Briere, N. M., & Blais, M. R. 
(1995). Toward a new measure of intrinsic motivation, extrinsic motivation, and 
amotivation in sports: The Sport Motivation Scale (SMS). Journal of Sport and Exercise 
Psychology, 17(1), 35-53. doi:10.1123/jsep.17.1.35 
Standage, M., Duda, J. L., Treasure, D. C., & Prusak, K. A. (2003). Validity, reliability, and 
invariance of the Situational Motivation Scale (SIMS) across diverse physical activity 
contexts. Journal of Sport and Exercise Psychology, 25(1), 19-43. 
doi:10.1123/jsep.25.1.19 
Vallerand, R. J. (1997). Toward a hierarchical model of intrinsic and extrinsic motivation. 
Advances in Experimental Social Psychology, 29, 271-360. doi:10.1016/S0065-
2601(08)60019-2 
Venkatesh, V., Thong, J. Y., & Xu, X. (2012). Consumer acceptance and use of information 
technology: Extending the unified theory of acceptance and use of technology. MIS 
Quarterly, 36(1), 157-178. doi:10.2307/41410412 

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_tich_hop_giai_thich_cho_y_dinh_doc_sach_cua_sinh_vie.pdf