Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học

Đại học nghiên cứu là xu hướng chung của

nhiều trường đại học trên toàn thế giới. Theo

Mohrmana, Mab & Bakerc (2008) và Altbach

& Salmi (2011), đại học nghiên cứu là trung

tâm của hệ thống giáo dục đại học đẳng cấp

thế giới và phải được trang bị đầy đủ về điều

kiện làm việc, cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng

cao nhất, hệ thống quản lý và thư viện [23, 2].

Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn

2011 - 2020 của Chính phủ Việt Nam đã chỉ

ra rằng các chương trình giảng dạy phải được

thiết kế theo hai hướng (định hướng nghiên

cứu và định hướng nghề nghiệp) để nâng cao

năng lực nghiên cứu, nâng cao tính ứng dụng

chuyên nghiệp của người học, liên kết giữa giáo

dục và đào tạo với nhu cầu xã hội [15]. Do đó,

phát triển và trở thành trường đại học nghiên

cứu theo xu hướng toàn cầu cũng là mục tiêu

chung của các trường đại học Việt Nam.

Để đạt được mục tiêu trở thành một trường

đại học nghiên cứu, thư viện đại học giữ vai

trò quan trọng trong việc cung cấp thư viện

chất lượng và các sản phẩm và dịch vụ thông

tin cho nghiên cứu. Bên cạnh đó, tài nguyên

thông tin phải đảm bảo luôn sẵn sàng được

truy cập [8]. Tuy nhiên, để phát triển và nâng

cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thư viện,

nâng cao kỹ năng thông tin và năng lực nghiên

cứu cho sinh viên thì việc phải xây dựng mối

quan hệ hợp tác giữa GV (giảng viên) và

CBTV (cán bộ thư viện) là cần thiết. Mối quan

hệ này không những giúp xây dựng và phát

triển nguồn tài nguyên thông tin, hỗ trợ và

tăng cường năng lực nghiên cứu, mà còn tăng

khả năng xuất bản trên các tạp chí uy tín quốc

tế. Do đó, việc lựa chọn và xây dựng mô hình

hợp tác phù hợp để thúc đẩy và phát huy tối

đa các nguồn lực hiện có của trường đại học

là rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học trang 1

Trang 1

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học trang 2

Trang 2

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học trang 3

Trang 3

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học trang 4

Trang 4

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học trang 5

Trang 5

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 5420
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học

Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ thư viện tại các trường Đại học
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/202022
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
MÔ HÌNH HỢP TÁC GIỮA GIẢNG VIÊN VÀ CÁN BỘ THƯ VIỆN 
TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
ThS Nguyễn Thị Lan
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh
● Tóm tắt: Bài viết đề cập đến tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác giữa giảng viên và cán bộ 
thư viện, cũng như chỉ ra các mô hình hợp tác giảng viên - cán bộ thư viện nổi trội trong các trường 
đại học.
● Từ khóa: Mô hình hợp tác; giảng viên; cán bộ thư viện; đại học.
COLLABORATION MODEL BETWEEN ACADEMIC LECTURERS AND LIBRARIANS
● Abstract: The article mentions the importance of the collaborative relationship between lecturers 
and librarians, as well as points out the outstanding teacher - librarians cooperation models in 
universities.
● Keywords: Collaborative model; lecturers; librarian; university.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại học nghiên cứu là xu hướng chung của 
nhiều trường đại học trên toàn thế giới. Theo 
Mohrmana, Mab & Bakerc (2008) và Altbach 
& Salmi (2011), đại học nghiên cứu là trung 
tâm của hệ thống giáo dục đại học đẳng cấp 
thế giới và phải được trang bị đầy đủ về điều 
kiện làm việc, cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng 
cao nhất, hệ thống quản lý và thư viện [23, 2]. 
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 
2011 - 2020 của Chính phủ Việt Nam đã chỉ 
ra rằng các chương trình giảng dạy phải được 
thiết kế theo hai hướng (định hướng nghiên 
cứu và định hướng nghề nghiệp) để nâng cao 
năng lực nghiên cứu, nâng cao tính ứng dụng 
chuyên nghiệp của người học, liên kết giữa giáo 
dục và đào tạo với nhu cầu xã hội [15]. Do đó, 
phát triển và trở thành trường đại học nghiên 
cứu theo xu hướng toàn cầu cũng là mục tiêu 
chung của các trường đại học Việt Nam. 
Để đạt được mục tiêu trở thành một trường 
đại học nghiên cứu, thư viện đại học giữ vai 
trò quan trọng trong việc cung cấp thư viện 
chất lượng và các sản phẩm và dịch vụ thông 
tin cho nghiên cứu. Bên cạnh đó, tài nguyên 
thông tin phải đảm bảo luôn sẵn sàng được 
truy cập [8]. Tuy nhiên, để phát triển và nâng 
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thư viện, 
nâng cao kỹ năng thông tin và năng lực nghiên 
cứu cho sinh viên thì việc phải xây dựng mối 
quan hệ hợp tác giữa GV (giảng viên) và 
CBTV (cán bộ thư viện) là cần thiết. Mối quan 
hệ này không những giúp xây dựng và phát 
triển nguồn tài nguyên thông tin, hỗ trợ và 
tăng cường năng lực nghiên cứu, mà còn tăng 
khả năng xuất bản trên các tạp chí uy tín quốc 
tế. Do đó, việc lựa chọn và xây dựng mô hình 
hợp tác phù hợp để thúc đẩy và phát huy tối 
đa các nguồn lực hiện có của trường đại học 
là rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC
Tầm quan trọng của hoạt động hợp tác giữa 
GV-CBTV được đề cập đến trong nhiều tài liệu 
và ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể liệt kê 
bốn lợi ích quan trọng nhất của hoạt động hợp 
tác như sau:
2.1. Nâng cao hiệu quả giảng dạy và 
nghiên cứu khoa học
Có thể thấy rằng, mô hình hợp tác GV-
CBTV mang lại nhiều lợi ích cho giảng viên 
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2020 23
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
trong việc cải tiến kinh nghiệm giảng dạy, 
nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu 
chuyên sâu. Khi mối quan hệ hợp tác được 
xây dựng, GV sẽ được CBTV giúp đỡ trong 
việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nghiên cứu, 
có nhiều kiến thức và kỹ năng trong việc khai 
thác hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin, đặc 
biệt là các CSDL chuyên ngành. Ngược lại, 
CBTV có thể hỗ trợ GV trong việc xây dựng 
chiến lược xuất bản trên các tạp chí uy tín, 
thiết kế đề cương nghiên cứu; hướng dẫn, và 
cung cấp các phần mềm hỗ trợ nghiên cứu, 
xử lý và lưu trữ dữ liệu nghiên cứu. Macauley 
và McKnight (1998) tiết lộ rằng một mô hình 
hợp tác sẽ có rất nhiều lợi ích trong việc nâng 
cao chất lượng nghiên cứu và cải thiện kỹ 
năng tổng quan tài liệu [20]. Federer (2013) 
và MacMillan (2014) cũng đề cập đến vai trò 
đa dạng của CBTV trong việc hỗ trợ các nhà 
nghiên cứu thu thập, quản lý, trích dẫn, phổ 
biến và lưu trữ dữ liệu [13, 21]; hướng dẫn về 
thông tin thư mục, quản lý dữ liệu nghiên cứu, 
hướng dẫn xuất bản truy cập mở và dịch vụ 
nghiên cứu điện tử (e-research) [1, 7, 19]. Bên 
cạnh đó, tìm kiếm và lựa chọn các kênh để xuất 
bản hoặc lưu trữ các dịch vụ nghiên cứu điện 
tử, hỗ trợ không gian đọc công nghệ cao, cung 
cấp hồ sơ nghiên cứu [7] cũng là kết quả đầu 
ra của hoạt động hợp tác. Ngoài ra, một nghiên 
cứu của Dearden và những người khác (2013) 
đã đề cập đến việc thiết lập mối quan hệ hợp 
tác để dạy kỹ năng thông tin, xem xét thực 
tiễn giảng dạy của môn học này và đánh giá 
kết quả để cải thiện các hoạt động giảng dạy 
[9]; thực hiện giảng dạy để đạt được mục tiêu 
dạy/học dựa trên tài nguyên thông tin [6].
2.2. Phát triển chương trình đào tạo
Trong những năm gần đây, các trường đại 
học chú trọng đến việc đánh giá chất lượng 
chương trình đào tạo, đồng thời thực hiện việc 
cải tiến và cập nhật các chương trình này để 
đáp ứng nhu cầu củ ... iữa GV và 
CBTV. 
Franklin (2013) đã chỉ ra chín yếu tố phụ 
quan trọng trong quan hệ hợp tác để phát 
triển kiến thức thông tin. Chín yếu tố phụ được 
chia thành ba nhóm: 
(1) Yếu tố tổ chức (văn hóa tổ chức, hỗ trợ 
và quản lý hành chính và nguồn lực (thời gian 
và tiền bạc)); 
(2) Yếu tố hệ thống (giá trị và nhận thức 
về kiến thức thông tin, hiểu biết về lĩnh vực 
chuyên môn của đối tác, sự không sẵn lòng 
và khả năng chống lại sự hợp tác);
(3) Yếu tố tương tác: khả năng tiếp cận, 
mục tiêu chung, đặc điểm cá nhân. 
Mỗi yếu tố phụ có liên quan đều tác động 
khác nhau trong việc thúc đẩy hoặc cản trở 
sự hợp tác. Tuy nhiên, trong mô hình này, nhà 
nghiên cứu lưu ý ba yếu tố phụ có ảnh hưởng 
lớn nhất đến mối quan hệ hợp tác, bao gồm: 
văn hóa tổ chức, nguồn lực và sự hiểu biết và 
quan tâm đến lĩnh vực chuyên môn của đối 
tác. Có thể nhận ra rằng, văn hóa tổ chức là 
một động lực để thúc đẩy các cá nhân hợp tác 
cùng nhau. Do đó, các tổ chức cần tạo ra văn 
hóa hợp tác độc đáo, dựa trên nhiệm vụ của 
tổ chức, trong đó sự hợp tác được xác định là 
một tiêu chuẩn và các cá nhân được khuyến 
khích và mong đợi hợp tác. Về nguồn lực, 
Franklin (2013) tiết lộ rằng, trong mối quan hệ 
hợp tác, thời gian là yếu tố cần thiết để các cá 
nhân giao tiếp, phát triển mối quan hệ, và thúc 
đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Bên cạnh đó, các 
nguồn lực sẵn có và vấn đề kinh tế là rất cần 
thiết để hỗ trợ các bên thực hiện các sáng kiến 
hợp tác. Liên quan đến sự hiểu biết và quan 
tâm đến lĩnh vực chuyên môn của đối tác, 
những người hợp tác cần hiểu các giá trị, thực 
tiễn và chuyên môn của đối phương để nâng 
cao sự hiểu biết, tạo điều kiện làm việc cùng 
nhau và đạt được kết quả mong muốn [14].
Tương tự như mô hình cùa Franklin (2013), 
Huệ (2016) cũng chỉ ra ba khía cạnh ảnh 
hưởng đến sự thành công hay thất bại của 
quan hệ hợp tác: (1) Cấu trúc quản trị (Quản 
lý tổ chức, Vai trò, Nguồn lực, Truyền thông và 
công nghệ), (2) Động lực văn hóa - xã hội (Bất 
đối xứng quyền lực, Chuẩn mực xã hội và văn 
hóa, Thời gian và không gian), và (3) Yếu tố 
cá nhân (Niềm tin, Mối quan hệ cá nhân, Nhận 
thức, Tính cách). Tuy nhiên, không giống như 
mô hình của Franklin, nhà nghiên cứu cho 
rằng, công nghệ cũng là một trong những yếu 
tố then chốt ảnh hưởng đến kết quả của sự 
hợp tác. Công nghệ tạo điều kiện trong việc 
kết nối, giao tiếp và thu hẹp khoảng cách 
truyền thống giữa GV và CBTV [17].
Bên cạnh đó, một mô hình hợp tác liên ngành 
được thiết kế bởi Mulligan và Kuban (2015) đã 
phác thảo ra ba yếu tố (1) Điều kiện nơi làm 
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2020 25
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
việc, (2) Phẩm chất/thái độ; và (3) Các mục 
tiêu chung giúp tăng cường sự hợp tác. Các 
nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, sự hợp tác chỉ 
xảy ra khi có sự kết hợp đầy đủ của ba yếu tố, 
và rất khó duy trì nếu thiếu một trong ba [24]. 
Trong khi đó, mô hình của Schrage (1990) 
chủ yếu tập trung vào hành vi, đặc điểm của 
cá nhân và không gian làm việc trong quá 
trình hợp tác [28]. Theo Schrage (1990), sự 
hợp tác thành công phải dựa trên các hành vi 
trong quá trình tương tác liên tục để đạt được 
mục tiêu như sau: năng lực của cá nhân đối 
với nhiệm vụ hiện tại, chia sẻ mục tiêu, tôn 
trọng lẫn nhau, khoan dung và tin tưởng, làm 
việc trong không gian chung, sự liên lạc liên 
tục. Ngoài ra, sự hợp tác có thể diễn ra trong 
môi trường làm việc chính thức và không chính 
thức, trách nhiệm rõ ràng và không có giới hạn 
ranh giới [28]. Sau đó, Ivey (2003) cũng đã 
phát triển một mô hình mới dựa trên lý thuyết 
hợp tác Schrage. Tuy nhiên, Ivey đã thêm một 
số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của quá trình 
hợp tác, ví dụ, không đủ thời gian, khối lượng 
công việc tăng của GV và CBTV, thiếu chính 
sách và nguồn lực [18].
Các mô hình liên quan đến các yếu tố tác 
động đến sự hợp tác sẽ giúp những nhà quản 
lý, GV, và CBTV xác định được đâu là yếu tố 
cốt lõi thúc đẩy hoặc hạn chế sự hợp tác, từ 
đó xây dựng kế hoạch hợp tác phù hợp để tối 
ưu hóa các yếu tố tích cực và hạn chế những 
tác động tiêu cực, căn cứ vào các đặc điểm 
của tổ chức.
3.2. Vai trò của những người hợp tác
Hầu hết các mô hình chỉ ra rằng, CBTV là 
người đóng vai trò quan trọng trong quan hệ 
hợp tác, ví dụ, CBTV là người tư vấn, hướng 
dẫn, tham khảo, đồng cố vấn hoặc chuyên gia 
thư viện.
Scripps - Hoekstra và Hamilton (2016) đã chỉ 
ra một mô hình trong đó CBTV giữ ba vai trò chính: 
cố vấn, người hướng dẫn và cán bộ tham khảo. 
Trong mô hình này, CBTV thực hiện các vai trò 
khác nhau trong việc đồng giảng dạy, hỗ trợ sinh 
viên bên ngoài lớp học; tư vấn kỹ năng nghiên 
cứu và trả lời câu hỏi; phát triển và đánh giá các 
chương trình kiến thức thông tin và chương trình 
giảng dạy [29]. Donham và Green (2004) cũng 
nhấn mạnh rằng, các CBTV giữ vai trò không 
thể thiếu trong việc tư vấn tài nguyên thư viện, 
phát triển nguồn tài nguyên thông tin, kỹ năng 
kiến thức thông tin và hỗ trợ sinh viên như một 
người giám sát học thuật [10].
Các nghiên cứu nổi bật khác cũng chỉ ra 
vai trò khác nhau của CBTV với tư cách là 
người đồng hướng dẫn trong việc giúp sinh 
viên cải thiện năng lực nghiên cứu, kỹ năng 
kiến thức thông tin [20]; cùng với giảng viên 
thực hiện các công trình nghiên cứu và hướng 
dẫn sinh viên [4]. Mặt khác, Yu (2009) đề xuất 
một mô hình tập trung vào vai trò của giảng 
viên làm việc tại thư viện với tư cách là một 
chuyên gia. Tuy nhiên, trong mô hình này, các 
giảng viên chỉ thực hiện ba vai trò chính là tư 
vấn, tham khảo và hướng dẫn [37]. Trong khi 
đó, công trình của Carlson và Miller (1984) và 
nghiên cứu Ivey (2003) chỉ ra vai trò ngang 
nhau của những người hợp tác. Họ là những 
đối tác giảng dạy trong việc lập kế hoạch và 
giảng dạy các chương trình hướng dẫn thông 
tin thư mục và kiến thức thông tin [5, 18].
3.3. Nguyên nhân và lợi ích của hoạt 
động hợp tác
Wijayasundara (2008) đã phát triển mô 
hình nguyên nhân và lợi ích hợp tác dựa trên 
sơ đồ xương cá của Arroyo (2003) về các 
yếu tố quyết định và kết quả của sự hợp tác. 
Kết quả của mô hình này nhấn mạnh rằng, 
sự hợp tác trước tiên phải dựa trên việc xác 
định các mục tiêu chung, quy mô của trường 
đại học, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. 
Ngoài ra, hành vi chủ động, giao tiếp cởi mở, 
rõ ràng và kỹ năng lắng nghe của những người 
hợp tác cũng là những yếu tố quan trọng để 
thúc đẩy sự thành công của mối quan hệ hợp 
tác. Do đó, Wijayasundara cho rằng, mô hình 
này mang lại nhiều lợi ích trong việc phát 
triển và sửa đổi chương trình giảng dạy, hỗ 
trợ giảng dạy; nâng cao chất lượng học tập, 
tư duy phản biện và kỹ năng nghiên cứu của 
sinh viên; nâng cao hiệu quả và chất lượng 
nguồn tài nguyên, sản phẩm và dịch vụ của 
thư viện [35].
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/202026
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Ngoài ra, một mô hình khác được thực hiện 
bởi Sugarman và Demetracopoulos (2001) 
cũng xác định CBTV làm việc với các nhà 
nghiên cứu để cung cấp các dịch vụ thông tin 
chất lượng và toàn diện cho cộng đồng học 
thuật [32].
Kết luận
Mô hình hợp tác giữa giảng viên và cán bộ 
thư viện được xem là mang lại nhiều lợi ích 
cho các trường đại học trong việc nâng cao 
chất lượng học tập, giảng dạy và nghiên cứu 
khoa học. Tuy nhiên, sự hợp tác bị tác động 
bởi nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, việc lựa 
chọn và xây dựng mô hình hợp tác phù hợp 
cần phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể của 
tổ chức, từ đó thiết kế mô hình phù hợp với 
thực tiễn và các yếu tố cần thiết để có thể tận 
dụng tối đa các nguồn lực hiện có và thúc đẩy 
sự hợp tác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adema, J., & Schmitdt, B. (2010). From 
service providers to content producers: New 
opportunities for libraries in collaborative 
open access book publishing. New Review of 
Academic Librarianship. 16(81), 28-43.
2. Altbach, P. G., & Salmi, J. (2011). The Road to 
Academic Excellence-The Making of World-
Class Research Universities. World Bank 
Report. 
3. Belanger, J., Bliquez, R., & Mondal, S. (2012). 
Developing a collaborative faculty-librarian 
information literacy assessment project. Library 
Review, Vol. 61, No. 2, pp. 68-91.
4. 4. Brown, J. D., & Duke, T. S. (2005). 
Librarian and faculty collaborative instruction: 
A phenomenological self-study. Research 
Strategies, 20(3), 171-190.
5. Carlson, D., & Miller, R. H. (1984). Librarians 
and teaching faculty: Partners in bibliographic 
instruction. College & Research Libraries, 
45(6), 483-491.
6. Chutima, S. (2012). Building collaboration 
between library and information science 
educators and practitioners in Thailand: 
Transcending barriers, creating opportunities. 
LIS Education in Developing Countries Special 
Interest Group, 78th IFLA General Conference.
7. Corrall, S. (2014). Designing libraries for 
research collaboration in the network world: an 
exploratory study. Liber Quarterly, 24(1).
8. Courant, P. N. (2017). The future of the library 
in the research university. Truy cập từ https://
www.clir.org/pubs/reports/pub142/courant/, 
ngày 15/8/2018.
9. Dearden, R., Dermoudy, J., Evans, C., Barmuta, 
L., Jones, S., Magierowski, R., Osborn, J., 
Sargison, J., & Waters, D. (2005). Aligning 
information literacy with the faculty teaching 
and learning agenda. Australian Academic & 
Research Libraries, 36:4, 138-152.
10. Donham, J., & Green, G. W. (2004). Developing 
a culture of collaboration: Librarians as 
consultant. The Journal of Academic 
Librarianship, 30(4), 314-321.
11. Donner, J. L., Taylor, S. E., & Hodson, C. 
K. (2001). Faculty-librarian collaboration for 
nursing information literacy: A tiered approach. 
Reference Services Review, 29(2), 132-140.
12. Ellis, P., & Beck, M. (2003). Collaboration 
between the library and business faculty. 
Academic Exchange Quarterly, 7(1), 297-301.
13. Federer, L. (2003). The librarian as research 
informationist: a case study. Journal of the 
Medical Library Association: JMLA, 101(4), 
298.
14. Franklin, K. Y. (2013). Faculty/librarian in-
terprofessional collaboration and in-
formation literacy in higher education. 
Truy cập từ https://search.proquest.com/pqdt-
global/docview/1353094219/6F3CE41318F-
644DAPQ/1?accountid=27797
15. Government. (2012). Chien luoc phat trien 
giao duc Vietnam 2011-2020 [A strategy for the 
development of Vietnamese education 2011-
2020].
16. Government. (2015). Nghi dinh quy dinh so 
16/2015/NĐ-CP ve co che tu chu cua don vi su 
nghiep cong lap [Decree No. 16/2015/ND-CP 
mechanism exercising the autonomy of Public 
Administrative Units].
17. Hue, T. P. (2016). Collaboration between 
academics and library staff: A comparative 
study of two universities in Australia and 
Vietnam. Ph.D. Dissertation, Monash 
University, Melbourne, Australia. Truy cập từ 
https://figshare.com/articles/Collaboration_
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2020 27
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
between_academics_and_library_staff_a_
comparative_study_of_two_universities_in_
Australia_and_Vietnam/4712188
18. Ivey, R. (2003). Information literacy: How do 
librarians and academics work in partnership to 
deliver effective learning programs? Australian 
Academic & Research Libraries, 34(2), 100-
113.
19. Kennan, M. A., Williamson, K., & Johanson, G. 
(2012). Wild data: collaborative e-research and 
university libraries. Australian Academic and 
Research Libraries, 43(1), 56-79.
20. Macauley, P., & McKnight, S. (1998). A new 
model of library support for off-campus 
postgraduate research students. Truy cập từ 
21. MacMillan, D. (2014). Data sharing and 
discovery: What librarians need to know. The 
Journal of Academic Librarianship, 40(5), 541-
549.
22. Meldrum, A. M., & Tootell, H. (2004). Integrating 
information literacy into curriculum assessment 
practice: An informatics case study. Journal 
of University Teaching and Learning Practice, 
1(2), p. 49-58.
23. Mohrmana, K., Mab, W., & Bakerc, D. (2008). 
The research university in transition: The 
emerging global model. Higher Education 
Policy, 21, 5-27.
24. Mulligan, L. M., & Kuban, A. J. (2015). 
A conceptual model for interdisciplinary 
collaboration. Truy cập từ 
org/2015/05/14/a-conceptual-model-for-
interdisciplinary-collaboration/comment-
page-1/, ngày 14/02/2018. 
25. Nimon, M. (2002). Developing lifelong learners: 
controversy and the educative role of the 
academic librarian. Australian Academic and 
Research Libraries, 33(1), 14-24.
26. Rodwell, J., & Fairnairn, L. (2008). Dangerous 
liaison? Defining the faculty liaison librarian 
service model, its effectiveness and 
sustainability. Library Management, Vol.20 
Issue: 1/2, pp.116-124.
27. Sanborn, L. (2005). Improving library instruction: 
faculty collaboration. The Journal of Academic 
Librarianship, 31(5), 477 - 481.
28. Schrage, M. (1990), Shared minds: The new 
technologies of collaboration, Random House, 
New York.
29. Scripps-Hoekstra, L., & Hamilton, E. R., (2016). 
Back to the future: Prospects for education 
faculty and librarian collaboration thirty years 
later. Education Libraries, 39:1. Retrieved from 
https://files.eric.ed.gov/fulltext/EJ1122042.pdf
30. Sharma, P., Kumar, K., & Babbar, P. (2014). 
Embedded librarianship: Librarian-faculty 
collaboration. Journal of Library & Information 
Technology, Vol. 34, No.6, pp.455-460.
31. Shepley, S. E. (2009). Building a virtual 
campus: Librarians as collaborators in online 
course development and learning. Journal of 
Library Administration, 49, 89–95.
32. Sugarman, T. S., & Demetracopoulos, C. 
(2001). Creating a Web research guide: 
collaboration between liaisons, faculty and 
students. Reference Services Review, 29 (2), 
150-156.
33. Thomas, D., & Saib, M. (2013). Collaboration 
between academics and librarians: the case 
of the Durban University of Technology. 
Proceedings of the 34th International 
Association of Scientific and Technogical 
University Libraries (IATUL) Conference. 
Retrieved from https://docs.lib.purdue.edu/cgi/
viewcontent.cgi?article=1965&context=iatul.
34. Walter, S. (2000). Engelond: A model for 
faculty-librarian collaboration in the information 
age. Information Technology and Libraries, 19, 
no.1, p. 34-41.
35. Wijayasundara, N. D. (2008). Faculty–
library collaboration: A model for University 
of Colombo, The International Information & 
Library Review, 40(3), 188-198.
36. World Bank, East Asia Pacific Region, Human 
Development Department. (2008). Vietnam: 
Higher education and skills for growth. 
Retrieved from 
org/INTEASTASIAPACIFIC/Resources/
Vietnam-HEandSkillsforGrowth.pdf
37. Yu, T. (2009). A new model of faculty-librarian 
collaboration: the faculty member as library 
specialist. New Library World, Vol. 110, No. 9/10, 
pp. 441-448.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 8-01-2020; 
Ngày phản biện đánh giá: 16-02-2020; Ngày 
chấp nhận đăng: 15-4-2020).

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_hop_tac_giua_giang_vien_va_can_bo_thu_vien_tai_cac_t.pdf