Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với những thành tựu vượt trội

của khoa học công nghệ như: nền tảng công nghệ số, dữ liệu lớn, trí

tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật, đang thực sự tác động đến mọi

hoạt động thông tin thư viện. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ

các thư viện trên thế giới cũng như tại Việt Nam đang có sự chuyển

dịch từ mô hình Trung tâm thông tin sang mô hình Trung tâm Tri thức

số. Trong mô hình mới, các thư viện sẽ thực hiện sứ mệnh quản trị tri

thức số. Điều này sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với các thư viện, đòi

hỏi các thư viện phải có sự kết nối liên thông nhằm tạo ra hệ thống liên

kết chia sẻ thông tin, tri thức, dữ liệu lớn thông qua môi trường mạng.

Trong những thập niên gần đây các thư viện tại Việt Nam đã có những

bước phát triển mạnh mẽ theo hướng ứng dụng công nghệ, tuy nhiên

việc kết nối liên thông giữa các thư viện còn có nhiều hạn chế. Đây là

tồn tại lớn cần khắc phục, đặc biệt là khi các thư viện phải đảm nhận

vai trò quản trị tri thức số.

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 1

Trang 1

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 2

Trang 2

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 3

Trang 3

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 4

Trang 4

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 5

Trang 5

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 6

Trang 6

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 7

Trang 7

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 8

Trang 8

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 9

Trang 9

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang baonam 35020
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số

Liên thông thư viện Việt Nam trong sứ mệnh quản trị tri thức số
LIÊN THÔNG THƯ VIỆN VIỆT NAM 
TRONG SỨ MỆNH QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ 
Nguyễn Văn Thiên1*
Tóm tắt: Bài viết luận giải về sự cần thiết phải kết nối liên thông 
các thư viện trong bối cảnh thực hiện sứ mệnh quản trị tri thức số. 
Thông qua kết quả khảo sát thực trạng kết nối liên thông các thư 
viện tại Việt Nam, bài viết nhận định về những tồn tại và đề xuất 
giải pháp khắc phục.
Từ khóa: Liên thông thư viện; Kết nối thư viện; Quản trị tri thức số.
MỞ ĐẦU
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với những thành tựu vượt trội 
của khoa học công nghệ như: nền tảng công nghệ số, dữ liệu lớn, trí 
tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật, đang thực sự tác động đến mọi 
hoạt động thông tin thư viện. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ 
các thư viện trên thế giới cũng như tại Việt Nam đang có sự chuyển 
dịch từ mô hình Trung tâm thông tin sang mô hình Trung tâm Tri thức 
số. Trong mô hình mới, các thư viện sẽ thực hiện sứ mệnh quản trị tri 
thức số. Điều này sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với các thư viện, đòi 
hỏi các thư viện phải có sự kết nối liên thông nhằm tạo ra hệ thống liên 
kết chia sẻ thông tin, tri thức, dữ liệu lớn thông qua môi trường mạng. 
Trong những thập niên gần đây các thư viện tại Việt Nam đã có những 
bước phát triển mạnh mẽ theo hướng ứng dụng công nghệ, tuy nhiên 
việc kết nối liên thông giữa các thư viện còn có nhiều hạn chế. Đây là 
tồn tại lớn cần khắc phục, đặc biệt là khi các thư viện phải đảm nhận 
vai trò quản trị tri thức số.
∗ Tiến sĩ, Khoa Thông tin Thư viện, Đại học Văn hóa Hà Nội.
816
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
1. LIÊN THÔNG THƯ VIỆN
Luật Thư viện Việt Nam [6] ban hành năm 2019 xác định liên 
thông thư viện là hoạt động liên kết, hợp tác giữa các thư viện nhằm 
sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thông tin, tiện ích thư viện, kết 
quả xử lý tài nguyên thông tin, sản phẩm thông tin thư viện và dịch vụ 
thư viện. Điều 29 của luật này cũng qui định chi tiết về liên thông thư 
viện từ các phương diện: nội dung liên thông, phương thức liên thông 
và cơ chế liên thông.
Trên thực tế liên thông thư viện đã được đề cập nhiều với các định 
nghĩa và thuật ngữ khác nhau như: kết nối thư viện, hợp tác thư viện, 
liên hợp thư viện, mượn liên thư viện Nội hàm của các định nghĩa, 
thuật ngữ này có điểm tương đồng đều đề cập về sự hợp tác trong thư 
viện, tuy nhiên cũng có điểm khác nhau thông qua việc trọng tâm vào 
các phương diện khác nhau của sự hợp tác thư viện.
Trong nghiên cứu này liên thông thư viện được xem xét chủ yếu 
từ phương diện kết nối các hệ thống quản lý (Phần mềm) thư viện 
nhằm mục đích tạo ra sự liên kết giữa các hệ thống quản lý thông qua 
môi trường mạng đáp ứng mục tiêu quản trị tri thức số trong các thư 
viện và trung tâm thông tin. 
Có nhiều yếu tố đảm bảo cho việc kết nối liên thông các thư viện 
trong đó trọng tâm vào hai điều kiện chính đó là các điều kiện về mặt 
kỹ thuật, tiêu chuẩn đảm bảo cho kết nối và các điều kiện về mặt cơ chế 
kết nối giữa các thư viện.
Ngày nay kết nối liên thông thư viện được xem là xu thế tất yếu, là 
một đặc điểm của thư viện hiện đại, theo D. Jotwani [3] thư viện hiện 
đại là một không gian liên kết nhiều thư viện, nơi tạo ra kiến thức mới 
và các dịch vụ mang tính tương tác cao giữa người sử dụng và thư viện. 
Sự tương tác này thông qua không gian thực và cả không gian ảo.
Kết nối liên thông thư viện có thể là chính thức thông qua sự hợp 
tác, thỏa thuận giữa các thư viện hoặc cũng có thể là không chính thức. 
Việc kết nối chính thức thường được thực hiện thông qua các biên bản 
ghi nhớ, hợp đồng, thỏa thuận giữa các thư viện. Việc kết nối không 
817
LIÊN THÔNG THƯ VIỆN VIỆT NAM TRONG SỨ MỆNH QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ 
chính thức có thể được thiết lập nhờ sự hỗ trợ của công nghệ. Ví dụ 
như việc sử dụng các bộ giao thức mở để kết nối các hệ thống với nhau 
thì không nhất thiết cần có sự thỏa thuận. Kết nối liên thông thư viện 
hướng đến nhiều mục đích khác nhau tùy theo mục đích của các thư 
viện khi tham gia. Trong đó, mục đích trọng tâm thường là chia sẻ 
thông tin, tiết kiệm các nguồn lực, tăng năng lực cạnh tranh của thư 
viện so với các kênh cung cấp thông tin khác. Ngày nay, môi trường 
hoạt động của thư viện có nhiều biến động, kết nối liên thông thư viện 
giúp các thư viện tăng khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh 
chóng của môi trường hoạt động cũng như thực hiện tốt những sứ 
mệnh mới trong tiến trình phát triển.
2. THƯ VIỆN VỚI SỨ MỆNH QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ 
Cùng với sự phát triển của xã hội, sứ mệnh của các thư viện đã có 
sự chuyển dịch từ: Quản lý tài liệu => Quản trị thông tin => Quản trị 
tri thức. Từ những năm đầu của thế kỷ XXI, Henczel [2] đã nhận định 
các thư viện và trung tâm thông tin sẽ không chỉ tiếp tục thực hiện vai 
trò quản trị thông thông tin mà còn quản trị tri thức. Tương đồng với 
quan điểm này Martin [7] cũng chỉ ra rằng các chuyên gia thông tin 
thư viện cũng là chuyên gia về quản lý nội dung ...  biến và sử dụng tri thức có nhiều 
thay đổi. Kỹ thuật số tạo ra sự liên kết liền mạch giữa dữ liệu nghiên 
cứu và kết quả nghiên cứu thông qua các công cụ đa phương tiện, 
mạng và môi trường nghiên cứu ảo. Sự liên kết này lại nhanh chóng 
biến các kết quả có được thành đối tượng nghiên cứu mới ở mức độ 
sâu hơn góp phần hình thành một hệ sinh thái tri thức số. Môi trường 
quản trị tri thức số của các thư viện sẽ nằm trong hệ sinh thái tri thức 
số, liên tục phát triển trong bối cảnh dữ liệu mạng. Hoạt động trong 
môi trường hệ sinh thái tri thức số đòi hỏi các thư viện phải có sự kết 
nối liên thông. Chỉ có như vậy thư viện mới có khả năng thích ứng 
nhanh với môi trường hoạt động mới. 
Tiếp đến là những thay đổi về vai trò của thư viện. Trong quản trị 
tri thức số, thư viện vẫn đóng vai trò kết nối trong sự hình thành tri thức 
với việc tiếp nhận tri thức thông qua thu thập, cung cấp và bảo quản tất 
cả những gì đã xuất bản. Tuy nhiên, theo Klaus Ceynowa [5] nhiều trình 
tự của giai đoạn trước khi xuất bản và hậu xuất bản đã được hợp nhất 
trong bối cảnh môi trường kỹ thuật số, khi đó các nhiệm vụ cốt lõi của 
thư viện sẽ có sự thay đổi. Thay vì chỉ chịu trách nhiệm về một phần của 
chuỗi giá trị tri thức, thư viện phải hỗ trợ một chu trình hoàn chỉnh của 
dòng tri thức. Thư viện phải đóng vai trò là hạ tầng nghiên cứu, là cơ sở 
của không gian dữ liệu liên kết mở. Hoạt động quản trị của thư viện dựa 
trên dòng tri thức thay vì những đơn vị tri thức riêng lẻ. Với những yêu 
cầu này việc kết nối liên thông thư viện là giải pháp tất yếu.
Từ một phương diện khác, trong quản trị tri thức số dịch vụ thư 
viện được xác định chủ yếu là công nghệ. Nó cung cấp các công cụ 
hợp tác và công cụ truyền thông dưới dạng môi trường nghiên cứu 
ảo, lưu trữ số dài hạn và tính sẵn sàng đáp ứng của kho dữ liệu đa 
820
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
phương tiện. Dịch vụ thư viện phải hỗ trợ xử lý dữ liệu khối (dữ liệu 
lớn) cho các phân tích định lượng với cấu trúc ngữ nghĩa liên kết và 
trực quan hóa của các mạng tri thức với mục tiêu làm cho chúng có thể 
điều hướng được dễ dàng đáp ứng những thay đổi nhanh chóng của 
các quá trình nghiên cứu hiện đại. Thực hiện vai trò quản trị tri thức số 
sẽ làm phá vỡ các quan điểm cũ về cách tạo lập quản lý các bộ sưu tập 
trong thư viện hiện nay, bởi trong không gian tri thức kỹ thuật số ngoài 
các ràng buộc về bản quyền, cấp phép người sử dụng có thể dùng các 
thuật toán cấu trúc lại không gian dữ liệu.
Như vậy có thể nhận thấy có khá nhiều thay đổi trong hoạt động 
của thư viện khi đảm nhận sứ mệnh quản trị tri thức số. Để có thể thực 
hiện tốt sứ mệnh này các thư viện cần có sự đổi mới trong nhiều hoạt 
động. Trên thực tế, liên thông thư viện đã được thực hiện từ khá sớm 
dưới những hình thức khác nhau. Tuy nhiên, trong bối cảnh quản trị tri 
thức số thì việc kết nối liên thông thư viện giữ vai trò rất quan trọng và 
có ý nghĩa quyết định. Nó không chỉ giúp các thư viện tăng khả năng 
đáp ứng nhu cầu của người dùng mà còn tăng khả năng thích ứng của 
các hoạt động thư viện trong môi trường hệ sinh thái tri thức số. Đảm 
bảo cho các thư viện thực hiện vai trò là hạ tầng nghiên cứu, là cơ sở 
của không gian dữ liệu liên kết mở.
4. THỰC TRẠNG KẾT NỐI LIÊN THÔNG GIỮA CÁC THƯ VIỆN TẠI VIỆT NAM 
Để xác định thực trạng kết nối liên thông giữa các thư viện Việt 
Nam, tác giả bài nghiên cứu này sử dụng kết quả khảo sát trong một 
nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Thông tin Thư viện Trường Đại 
học Văn hoá Hà Nội [9]. Qui mô khảo sát được tiến hành tại gần 80 thư 
viện và trung tâm thông tin lớn tại Việt Nam. Bao gồm các thư viện đại 
học, chuyên ngành, đa ngành và công cộng tại cả ba miền Bắc, Trung, 
Nam của Việt Nam. Các phương diện khảo sát tập trung vào thực trạng 
hiện đại hoá các hoạt động trong thư viện, thực trạng kết nối liên thông 
các hệ thống quản lý thư viện (phần mềm) nhằm chia sẻ thông tin. 
Kết quả khảo sát cho thấy, các thư viện lớn tại Việt Nam đã và đang 
tập trung các nguồn lực nhằm mục tiêu phát triển thư viện theo mô hình 
821
LIÊN THÔNG THƯ VIỆN VIỆT NAM TRONG SỨ MỆNH QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ 
hiện đại. Để thực hiện mục tiêu hiện đại hoá, các thư viện Việt Nam đã 
đầu tư phát triển hạ tầng CNTT hiện đại bao gồm phần cứng (máy tính, 
trang thiết bị), phần mềm và hệ thống mạng. Có 100% thư viện đã kết 
nối mạng Internet, 83% thư viện đã có hệ thống máy chủ riêng để cài đặt 
phần mềm phục vụ các hoạt động chuyên môn. Nhiều thư viện, trung 
tâm học liệu đầu tư hàng chục máy chủ. 100% số thư viện được khảo 
sát đã có hệ thống máy trạm dành cho cán bộ thư viện và bạn đọc khai 
thác thông tin. Những thư viện có hàng trăm máy trạm tập trung tại các 
trung tâm học liệu, các thư viện của các trường đại học lớn. 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ các thư viện sử dụng phần mềm
Bên cạnh sự đầu tư trang bị về hệ thống máy tính, kết quả khảo 
sát thực tế cho thấy các thư viện Việt Nam đã áp dụng nhiều phần 
mềm khác nhau vào quản lý các hoạt động. Số liệu khảo sát cho thấy 
có 78% số thư viện đã áp dụng các hệ thống thư viện tích hợp – ILS 
(Intergrated Library System). Đây là các hệ phần mềm có khả năng 
thực hiện toàn diện các chức năng quản lý của thư viện theo hướng tự 
động hóa. Có 36% số thư viện được khảo sát đã áp dụng phần mềm 
thư viện số vào quản lý và xây dựng cơ sở dữ liệu toàn văn, các bộ sưu 
tập tài liệu số. Kết quả này cho thấy xu hướng xây dựng phát triển thư 
viện số đang được quan tâm đầu tư tại các thư viện lớn ở Việt Nam 
hiện nay. Tìm kiếm tập trung là phần mềm mới trong lĩnh vực thông 
tin thư viện, tuy nhiên đến thời điểm khảo sát tại Việt Nam đã có 7% số 
thư viện được khảo sát lựa chọn và áp dụng.
 Qua phân tích thực trạng đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông 
tin tại các thư viện Việt Nam có thể nhận thấy, các thư viện lớn tại Việt 
822
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Nam đã và đang có sự thay đổi mạnh mẽ. Mô hình xây dựng thư viện 
hiện đại ứng dụng công nghệ đã được triển khai tại nhiều nơi và đã 
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Nhiều thư viện đã được 
trang bị các hệ thống quản lý thư viện hiện đại căn bản như hệ thống 
thư viện tích hợp ILS, phần mềm thư viện số, phần mềm tìm kiếm tập 
trung. Trong đó hệ thống thư viện tích hợp ILS đã được trang bị khá 
phổ biến, các thư viện đều đã được kết nối mạng Internet.
 Với hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông như hiện tại đã 
cơ bản đảm bảo tốt cho việc kết nối liên thông các thư viện Việt Nam. 
Tuy nhiên, kết quản khảo sát thực tế việc kết nối liên thông giữa các thư 
viện Việt Nam hiện nay lại cho thấy đang ở mức rất thấp, không có sự 
tương xứng với hạ tầng được đầu tư.
Số liệu khảo sát trong biểu đồ 1 cho thấy 78% số thư viện được 
khảo sát đã áp dụng các hệ thống thư viện tích hợp – ILS vào quản lý 
các hoạt động chuyên môn. Với hệ thống này các thư viện có thể sử 
dụng giao thức mở kết nối liên thông cơ sở dữ liệu với các thư viện 
khác để tìm kiếm, trao đổi thông tin thư mục hoặc thực hiện phương 
thức biên mục sao chép (Copy Catalogiung). Tuy nhiên, số liệu thống 
kê trong biểu đồ 2 lại cho thấy có 70% số thư viện chưa thực hiện kết 
nối liên thông, có 29% đã kết nối tới các thư viện nước ngoài, chỉ có 8% 
các thư viện trong nước đã kết nối với nhau. Mục đích của những thư 
viện đã kết nối liên thông chủ yếu là để biên mục sao chép các biểu ghi 
thư mục. Do ràng buộc về vấn đề bản quyền và quyền sở hữu trí tuệ, 
việc kết nối liên thông các hệ thống thư viện số chia sẻ tài liệu toàn văn 
gần như chưa được thực hiện.
Biểu đồ 2. Tỷ lệ thư viện đã thực hiện kết nối 
823
LIÊN THÔNG THƯ VIỆN VIỆT NAM TRONG SỨ MỆNH QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ 
 Kết quả này cho thấy sự kết nối liên thông giữa các thư viện tại 
Việt Nam đang ở mức rất thấp. Đây là một hạn chế lớn bởi từ những 
thập niên cuối của thế kỷ trước, xu hướng chung của các thư viện trên 
thế giới là luôn sẵn sàng cho việc kết nối trao đổi thông tin đặc biệt là 
các thông tin thư mục. Minh chứng là các thư viện luôn sẵn sàng chia 
sẻ, thậm chí thông tin rộng rãi trên mạng internet các thông số đáp 
ứng cho việc cài đặt các giao thức mở kết nối liên thông thư viện, ví 
dụ: các thông số để cài đặt bộ giao thức Z39.50. Tại Việt Nam hiện nay, 
không nhiều thư viện sẵn sàng cho việc chia sẻ các thông số này nên 
dẫn đến một thực tiễn là các thư viện Việt Nam vẫn phát triển như 
những ốc đảo độc lập. Các thư viện luôn thể hiện sự sẵn sàng kết nối 
trong các cuộc hội thảo, hội nghị nhưng trên thực tế thì việc kết nối liên 
thông thư viện chưa được triển khai hiệu quả. Thậm chí việc kết nối 
liên thông giữa các thư viện Việt Nam với nhau còn khó khăn hơn là 
kết nối tới các thư viện nước ngoài. 
Với thực trạng kết nối liên thông giữa các thư viện Việt Nam như 
hiện nay sẽ tạo ra nhiều khó khăn trong nhiều hoạt động đặc biệt là khi 
các thư viện thực hiện sứ mệnh quản trị tri thức số. Bởi như đã luận giải 
trong mục 3 của bài viết để thực hiện sứ mệnh này, hoạt động của các 
thư viện sẽ ở trong môi trường hệ sinh thái tri thức số với các không 
gian dữ liệu liên kết mở.
5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG KẾT NỐI LIÊN THÔNG GIỮA 
CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng tỷ lệ kết nối liên thông 
giữa các thư viện Việt Nam hiện nay đang ở mức rất thấp, trong đó tập 
trung vào hai lý do chính đó là cơ chế kết nối và vấn đề kỹ thuật (hệ 
thống phần mềm). Để cải thiện việc kết nối liên thông giữa các thư viện 
Việt Nam cần có những giải pháp khắc phục được hai tồn tại trên.
Trước hết là về mặt cơ chế kết nối. Có thể nói, Luật Thư viện được 
Quốc hội thông qua và ban hành năm 2019 đã tạo ra một hành lang 
pháp lý quan trọng cho việc kết nối liên thông các thư viện. Một trong 
nhiều điểm mới quan trọng của luật so với các văn bản trước đó là liên 
824
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
thông thư viện. Liên thông thư viện được định nghĩa trong luật, là một 
trong những nguyên tắc của hoạt động thư viện và được qui định chi 
tiết trong điều 29 thuộc chương 3 của Luật Thư viện. Tuy nhiên, để luật 
thực sự đi vào thực tiễn cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan 
trọng nhất là nhận thức từ chính các thư viện về sự cấp thiết phải kết 
nối liên thông các thư viện nhằm tạo ra sức mạnh tổng thể trong bối 
cảnh môi trường hoạt động thư viện có nhiều thay đổi. Kết quả khảo 
sát trong biểu đồ 2 cho thấy chỉ có 8% các thư viện được khảo sát đã 
kết nối ở phạm vi trong nước, thực tế này cho thấy nhiều thư viện đã 
đủ điều kiện về mặt kỹ thuật nhưng vẫn chưa sẵn sàng cho việc kết 
nối liên thông. Trong bối cảnh môi trường hoạt động có nhiều thay 
đổi, đặc biệt là sự chuyển dịch sang vai trò quản trị tri thức số, các thư 
viện cần xác định rằng kết nối liên thông là một trong những giải pháp 
cấp thiết quyết định tương lai, sự phát triển và khẳng định vai trò của 
chính mình.
Về mặt kỹ thuật, bên cạnh vấn đề cơ chế, một trong những nguyên 
nhân khác dẫn tới 70% số thư viện được khảo sát chưa thể kết nối liên 
thông tới các thư viện khác đó là vấn đề kỹ thuật. Một thực tế cần thừa 
nhận rằng nhiều hệ thống phần mềm quản lý đang được các thư viện sử 
dụng chưa hỗ trợ tốt về mặt chức năng để các thư viện có thể kết nối liên 
thông. Qua phỏng vấn nhiều cán bộ quản lý hệ thống tại các thư viện 
cho biết hệ thống của họ không thể kết nối trực tiếp sang hệ thống khác 
do không tương thích về các chuẩn. Từ thực tế trên, để cải thiện việc kết 
nối liên thông giữa các thư viện Việt Nam, giải pháp đánh giá, nâng cấp 
hoặc thay thế các hệ thống phần mềm quản lý trong các thư viện là cần 
thiết. Trong bối cảnh hiện nay và để thực hiện vai trò quản trị tri thức số, 
các thư viện cần có những hệ thống quản lý đủ mạnh, không chỉ kết nối 
liên thông được các thư viện với nhau mà còn có khả năng kết nối liên 
thông đến các hệ thống khác cũng như các mạng xã hội. Các hệ thống 
phần mềm quản lý không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin, tri thức 
một chiều từ thư viện đến người sử dụng mà cần tạo ra một môi trường 
đa chiều để người sử dụng có thể chia sẻ thông tin, tri thức vào kho dữ 
liệu số dùng chung trong hệ sinh thái tri thức số.
825
LIÊN THÔNG THƯ VIỆN VIỆT NAM TRONG SỨ MỆNH QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ 
KẾT LUẬN
 Dưới tác động của chuyển đổi số, hoạt động thông tin thư viện đang 
có những sự thay đổi nhanh chóng, các thư viện đang chuyển dịch sang vai 
trò quản trị tri thức số. Sự thay đổi này là xu hướng chung của các thư viện 
trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Trong vai trò quản trị tri thức số, việc 
kết nối liên thông giữa các thư viện nhằm tạo ra hệ sinh thái quản trị tri thức 
số là tất yếu. Tuy nhiên tại Việt Nam việc kết nối liên thông giữa các thư viện 
còn bộc lộ nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hạn chế 
này, việc khắc phục những điểm hạn chế sẽ giúp cho các thư viện Việt Nam 
phát triển bền vững và thực hiện tốt vai trò mới của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agnes Mainka, Sviatlana Khveshchanka (2012), “Digital Libraries as 
Knowledge Hubs in Informational Cities” Truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang 
Web: https://www.researchgate.net
2. Henczel, S., Supporting the KM environment: The roles, responsibilities, and 
rights of information professionals. Truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: 
https://www.researchgate.net/publication/247677530_Supporting_the_
KM_environment_The_Roles_Responsibilities_and_Rights_of_Informa-
tion_Professionals
3. Jotwani, D. (2008), Best Practices in a Modern Library and Information Cen-
ter, Truy cập ngày 15.8-2015, tại trang Web 
dle/1944/1223.
4. Kimiz Dalkir. (2011), Knowledge Management in Theory and Practice. The 
MIT Press Cambridge, Massachusetts London, England
5. Klaus Ceynowa (2016), Information in the Digital Knowledge Ecosystem – 
Challenges for the Library of the future, IFLA Publication, Berlin Germany.
6. Luật số: 46/2019/QH14 - Luật Thư viện (2019), Quốc hội nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21 
tháng 11 năm 2019.
7. Martin, B., A. Hazen, and M. Sarrafzadeh (2006), Knowledge management 
and the LIS professions: Investigating the implications for practice and for educa-
tional provision. Truy cập ngày 5.09 - 2020, tại trang Web: https://www.re-
searchgate.net/publication/271995437_Knowledge_management_and_
the_LIS_professions_Investigating_the_implications_for_practice_and_
for_educational_provision.
826
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
8. Nguyễn Hoàng Sơn (2020), Chuyển đổi thư viện số thành Trung tâm Tri thức 
số: nền tảng phát triển đại học số - đại học thông minh. Truy cập ngày 5.10 - 2020, 
tại trang Web: https://lic.vnu.edu.vn/vi/content/chuyen-doi-tu-thu-vien-
so-thanh-trung-tam-tri-thuc-so
9. Nguyễn Văn Thiên (2017), Quản lý thư viện hiện đại tại Việt Nam, Trường 
Đại học Văn hoá Hà Nội, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdflien_thong_thu_vien_viet_nam_trong_su_menh_quan_tri_tri_thuc.pdf