Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011)

1. Làm khoa học, đích thực làm khoa

học thì không thể, hay chí ít là không nên

triển khai tư duy trên văn bản dịch;

nghĩa là phải dùng tác phẩm nguyên gốc

khi người dùng cần tham khảo. Đây là ý

kiến ngày càng được nhiều người tán

đồng. Một số người còn cho rằng, đã đến

lúc không nên dịch nữa, nhà khoa học

ngày nay phải sử dụng và phải sử dụng

được tiếng nước ngoài.

Dĩ nhiên, một yêu cầu như vậy là

chính đáng và nghiêm túc. Tuy vậy, nói

không nên dịch nữa thì lại đã bắt đầu

sa vào cực đoan. Bởi không mấy nhà

khoa học tinh thông thật nhiều ngôn

ngữ và ngành khoa học nào cũng có

những tác phẩm nằm ngoài vốn ngôn

ngữ mà một người làm khoa học cụ thể

có thể sử dụng được.

 

Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011) trang 1

Trang 1

Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011) trang 2

Trang 2

Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011) trang 3

Trang 3

Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011) trang 4

Trang 4

Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011) trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 8500
Bạn đang xem tài liệu "Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011)

Khoa học xã hội nước ngoài: những vấn đề đặt ra đối với việc thông tin và nghiên cứu (về niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài số 2, nxb. khoa học xã hội, h., 2011)
KHOA HọC Xã HộI NƯớC NGOàI: 
NHữNG VấN Đề ĐặT RA ĐốI VớI VIệC THÔNG TIN Và NGHIÊN CứU 
(Về NIÊN GIáM THÔNG TIN KHOA HọC Xã HộI NƯớC NGOàI Số 2, 
Nxb. Khoa học xã hội, h., 2011) 
 Hồ Sĩ Quý (*) 
1. Làm khoa học, đích thực làm khoa 
học thì không thể, hay chí ít là không nên 
triển khai t− duy trên văn bản dịch; 
nghĩa là phải dùng tác phẩm nguyên gốc 
khi ng−ời dùng cần tham khảo. Đây là ý 
kiến ngày càng đ−ợc nhiều ng−ời tán 
đồng. Một số ng−ời còn cho rằng, đã đến 
lúc không nên dịch nữa, nhà khoa học 
ngày nay phải sử dụng và phải sử dụng 
đ−ợc tiếng n−ớc ngoài. 
Dĩ nhiên, một yêu cầu nh− vậy là 
chính đáng và nghiêm túc. Tuy vậy, nói 
không nên dịch nữa thì lại đã bắt đầu 
sa vào cực đoan. Bởi không mấy nhà 
khoa học tinh thông thật nhiều ngôn 
ngữ và ngành khoa học nào cũng có 
những tác phẩm nằm ngoài vốn ngôn 
ngữ mà một ng−ời làm khoa học cụ thể 
có thể sử dụng đ−ợc. 
ở đây chúng tôi muốn một lần nữa 
nói đến sự cần thiết của việc dịch các 
tác phẩm khoa học, ngay cả khi trình độ 
ngoại ngữ của cộng đồng đã rất tiến bộ. 
Cách đây hai năm, khi bàn đến 
những yếu kém trong hoạt động khoa 
học n−ớc nhà, có tác giả đã nêu ý kiến, 
cần đổi mới cơ chế để chỉ đầu t− nghiên 
cứu cho những đề tài/công trình khoa 
học thực sự hứa hẹn có giá trị, dành 
phần kinh phí còn lại cho việc dịch các 
tác phẩm khoa học n−ớc ngoài. Và, “nên 
coi dịch thuật là nhiệm vụ trung tâm 
của các viện nghiên cứu trong thời điểm 
hiện nay” (1). *Theo tác giả này, đó là 
con đ−ờng tối −u để nhanh chóng nắm 
bắt các đỉnh cao trí tuệ nhân loại, giúp 
trí thức Việt Nam hòa nhập với các đồng 
nghiệp trên toàn thế giới. Đó cũng là 
cách để cán bộ nghiên cứu đ−ợc làm việc 
thực sự, đóng góp thực sự. ý kiến này có 
thể ch−a toàn diện, nh−ng rõ ràng 
không phải là không có lý. 
2. Tại Viện Thông tin Khoa học xã 
hội (KHXH), từ hơn 20 năm tr−ớc, 
chúng tôi đã chú ý đến việc dịch các tác 
phẩm khoa học n−ớc ngoài. Bạn đọc 
chuyên ngành KHXH trong cả n−ớc đã 
(*) GS.TS., Viện tr−ởng Viện Thông tin Khoa học 
xã hội. 
4 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2011 
biết đến loại hình “Bản tin phục vụ 
nghiên cứu” của chúng tôi xuất bản 
hàng năm, mỗi năm 100-120 số. 
Đây là loại hình sản phẩm thông tin 
khoa học dịch nguyên văn các bài 
nghiên cứu thuộc các lĩnh vực KHXH và 
nhân văn đ−ợc chọn lọc chủ yếu từ các 
tạp chí khoa học danh tiếng của thế 
giới. Khác với sách là những công trình 
nghiên cứu công phu với khối l−ợng 
hàng trăm trang đ−ợc nghiền ngẫm 
hàng chục năm trời về những đề tài lớn, 
bản tin là nơi phản ánh kịp thời, nhạy 
bén... các vấn đề vừa cơ bản vừa bức 
thiết đang đặt ra trong hoạt động khoa 
học cũng là trong thực tiễn xã hội. Đó là 
những giả thuyết mới, những ý t−ởng 
khoa học mới, những cách lý giải mới, 
những giải pháp mới và những tác 
phẩm khoa học mới... đ−ợc giới KHXH 
thế giới quan tâm. Hơn 20 năm qua, loại 
hình sản phẩm này đã đ−ợc cung cấp 
đều đặn tới các cơ quan nghiên cứu, 
giảng dạy và quản lý khoa học, các cơ 
quan lãnh đạo và hoạch định chính sách 
của Đảng và nhà n−ớc, cá nhân các nhà 
khoa học và các nhà hoạt động xã hội 
quan tâm tới các lĩnh vực KHXH và 
nhân văn. Đến nay thời gian đã đủ dài 
để khẳng định ý nghĩa và tác dụng rất 
đáng kể của các ấn phẩm này. Chúng 
tôi đã nhận đ−ợc những đánh giá rất 
tích cực về tác dụng của tài liệu dịch 
chuyên ngành KHXH đối với các đơn vị 
và cá nhân trong hoạt động chuyên môn 
của mình. 
Theo yêu cầu của đông đảo ng−ời 
dùng tin, từ năm 2010, chọn lọc từ các 
bản tin đã xuất bản này, Viện Thông tin 
KHXH đã cho ra mắt một loại hình sản 
phẩm thông tin khoa học mới – “Niên 
giám Thông tin KHXH n−ớc ngoài”. Số 1 
xuất bản năm 2010 và số 2 xuất bản 
năm 2011. 
Nh− vậy, bên cạnh “Niên giám 
Thông tin KHXH” gồm các sản phẩm 
của các tác giả Việt Nam sơ kết thành 
tựu KHXH và các thông tin KHXH hàng 
năm, loại hình ấn phẩm này là một 
dạng thông tin mới, t−ơng đối có hệ 
thống về các thành tựu, các vấn đề... 
của KHXH n−ớc ngoài, đ−ợc các tạp chí 
KHXH n−ớc ngoài công bố. 
3. Hiện nay, “Niên giám Thông tin 
KHXH n−ớc ngoài” đã xuất bản đến số 
2. Với 53 tác phẩm về các chủ đề quan 
trọng trong sự phát triển của thế giới 
ngày nay, chúng tôi xin tổng thuật và 
giới thiệu một số chủ đề lớn nh− sau: 
3.1. Chủ đề đ−ợc coi là gây chú ý 
nhiều nhất về ph−ơng diện chính trị xã 
hội là sự trỗi dậy của Trung Quốc và vị 
thế của Mỹ trên chính tr−ờng những 
năm gần đây. Với chủ đề này, tiếng nói 
khẳng định vị thế đang lên của Trung 
Quốc là tiếng nói phổ biến. Trung Quốc 
với tốc độ tăng tr−ởng kinh tế rất cao 
liên tục trong nhiều năm liền đã làm 
khởi sắc một diện mạo mới của Trung 
Hoa, đã có những đóng góp đáng kể vào 
việc hạn chế và giải quyết một số vấn đề 
của khủng hoảng tài chính thế giới, và 
đã thực sự làm thay đổi cục diện thế 
giới. Tuy nhiên, những vấn đề đặt ra từ 
sự “trỗi dậy” của Trung Quốc cũng ngày 
càng nổi cộm. Một Trung quốc đang loay 
hoay tìm kiếm từ di sản văn hóa Khổng 
giáo của mình một thứ “sức mạnh mềm” 
liệu có đủ để san lấp những thiếu hụt 
trong đời sống tinh thần của hơn một tỷ 
dân thế kỷ XXI. Một c−ờng quốc đang 
lên nh−ng vấp phải không ít các vấn đề 
xã hội nóng bỏng chỉ ở tầm các quốc gia 
đi sau, lại là một c−ờng quốc có những 
tham vọng khác th−ờng liệu có thực sự 
mạnh và có thực sự trách nhiệm với thế 
Khoa học xã hội n−ớc ngoài: 5 
giới hay không vẫn là câu hỏi để ngỏ với 
đầy hoài nghi. 
3.2. Trong t−ơng quan với một 
Trung Quốc nh− vậy, n−ớc Mỹ bị nhiều 
tiếng nói đánh giá là đang ở thời kỳ 
xuống dốc. Nh−ng cũng không ít học giả 
vẫn khẳng định vị thế còn rất mạnh của 
Mỹ trong suốt thế kỷ này. Bài nói 
chuyện của Tổng thống Barack Obama 
tại đại học Cairo ngày 4/6/2009 đ−ợc coi 
là biểu hiện của việc Mỹ vẫn rất mạnh 
và tỉnh táo. Theo Tổng thống Obama, 
nếu nh− tr−ớc đây, lịch sử con ng−ời 
th−ờng là lịch sử của sự chinh phục 
lẫn nhau để cầu tìm lợi ích riêng, thì 
ngày nay, một thái độ nh− vậy là tự 
hại mình. Trong mối t−ơng quan tùy 
thuộc lẫn nhau, các vấn đề của thế giới 
ngày nay phải đ−ợc ứng phó qua 
ph−ơng thức cùng hợp tác, chia sẻ để 
xử lý nguồn gốc của tình trạng căng 
thẳng. Theo ông, có 7 vấn đề thực sự là 
nguồn gốc gây tình trạng căng thẳng đối 
với toàn thế giới: 1/ Chủ nghĩa cực đoan 
bạo động; 2/ Tình trạng xung đột giữa 
ng−ời Do Thái, Palestine và thế giới 
Arabia; 3/ Vũ khí hạt nhân; 4/ Vấn đề 
dân chủ; 5/ Vấn đề tôn giáo; 6/ Vấn đề 
quyền lợi của phụ nữ; và 7/ Vấn đề phát 
triển kinh tế và cơ hội kinh tế. 
Dĩ nhiên 7 vấn đề đó liên quan trực 
tiếp tới lợi ích của n−ớc Mỹ, nh−ng rõ 
ràng cũng là những vấn đề rất lớn của sự 
phát triển của thế giới hôm nay. 
3.3. Trong bối cảnh nh− vậy của thế 
giới, hình mẫu châu á mới sẽ ra sao? 
Hầu hết các tác giả đều ch−a khẳng 
định đ−ợc một cách chắc chắn. Châu á 
đang phát triển nhanh với tốc độ ch−a 
từng thấy, nhiều quốc gia đang tràn đầy 
khát vọng phát triển với những tiềm 
năng rất to lớn. Các quốc gia châu á 
đang cố gắng chia sẻ những mối quan 
tâm chung: khu vực ổn định, mở cửa, 
gắn kết với nhau thông qua hoạt động 
th−ơng mại và đầu t−, tăng c−ờng hợp 
tác giữa các quốc gia trong khu vực và 
với phần còn lại của thế giới, giải quyết 
những vấn đề khu vực cũng là những 
vấn đề có ý nghĩa lớn với sự phát triển 
của cả cộng đồng thế giới. Tuy nhiên, 
các nguy cơ cản trở sự phát triển vẫn 
đang rình rập. Các cơ chế quốc tế vẫn 
ch−a phát huy hết lợi thế đồng thuận 
tích cực của mình. Mối quan hệ lâu dài, 
hợp tác vẫn bị trói buộc bởi những quan 
điểm không mấy sáng suốt của truyền 
thống về địa lý, hay tệ hơn là các quan 
điểm dân tộc, sắc tộc cực đoan, đặc biệt 
là về quyền chủ quyền biển đảo. 
3.4. Một chủ đề th−ờng trực khác 
mà càng ngày giới KHXH càng có vẻ 
muốn xem là một địa hạt không thuần 
túy chính trị, là cuộc chiến chống 
khủng bố. Nếu tính từ năm 2001, cuộc 
chiến chống khủng bố đã đi đ−ợc hơn 
một thập niên với nhiều chiến thắng 
không thể gọi là nhỏ nh−ng cũng có 
những sa lầy mà nhiều năm nữa ch−a 
chắc loài ng−ời đã giải quyết đ−ợc. 
Tranh cãi vẫn nóng bỏng, liệu thế giới 
đã an toàn hơn hay ch−a. Câu trả lời 
ch−a thực sự ngã ngũ. Dẫu sao, ngày 
càng nhiều ng−ời tin rằng, t− t−ởng 
Hồi giáo cực đoan không phải là một 
loại vũ khí đ−ợc ủng hộ. Chủ nghĩa 
khủng bố không phải là một chiến l−ợc 
mà các tín đồ Hồi giáo muốn theo đuổi, 
và sớm muộn nó (chủ nghĩa khủng bố) 
cũng sẽ tạo ra một sự phản ứng dữ dội 
ngay trong cộng đồng Hồi giáo. 
Bằng thời gian và kinh nghiệm 
khôn ngoan, Mỹ và các đồng minh 
đang thực hiện những quyết định làm 
cho chính các tín đồ Hồi giáo đứng lên 
chống lại những kẻ cực đoan quá khích 
6 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2011 
trong lòng tổ chức của họ. Đâu đó trong 
thế giới Hồi giáo, đã bắt đầu có manh 
nha của một thế hệ mới sẽ giành lại 
t−ơng lai của họ từ chính tay của những 
kẻ đã t−ớc đoạt. Ngày nay, thế giới Hồi 
giáo đã chú ý thể hiện rõ hơn là một cộng 
đồng của nhiều nền văn hoá khác nhau, 
có hàm l−ợng tri thức và khoa học, có 
thái độ nhân văn và h−ớng thiện..., mặc 
dù cũng còn nhiều điểm phi thế tục khá 
xa lạ với các cộng đồng văn hóa khác. 
Các tác nhân của sự chuyển biến đó 
không tự phát. Và cộng đồng thế giới, 
trong tr−ờng hợp này, không chỉ là 
ph−ơng Tây, đang và sẽ thúc đẩy nhân 
loại đi theo đúng quy luật của sự tiến bộ. 
3.5. Trong khủng hoảng tài chính 
thế giới 2008-2010, các nền kinh tế ở 
Âu, Mỹ và nhiều các quốc gia phát triển 
khác đang đẩy mạnh sự can thiệp của 
nhà n−ớc nhằm giảm bớt và giải quyết 
các vấn đề của suy thoái toàn cầu và 
đồng thời, tiếp sức cho các nền kinh tế 
ốm yếu sớm đ−ợc hồi phục. Về chiến 
l−ợc, các chính phủ không có ý định 
quản lý nền kinh tế vô thời hạn. Tuy 
nhiên, đằng sau những hành động can 
thiệp của các chính phủ, một số nhà 
khoa học và hoạt động xã hội đang lo 
ngại về sự bác bỏ mang tính chiến l−ợc 
đối với học thuyết tân (thị tr−ờng) tự do 
(Neoliberalism). 
Xu thế thị tr−ờng tự do nổi lên từ 
đầu thập niên 1990 hiện đang dần mờ 
nhạt sau khủng hoảng kinh tế thế giới. 
Thay vào đó là một thứ chủ nghĩa t− 
bản nhà n−ớc - nhà n−ớc can thiệp nh− 
một tác nhân kinh tế hàng đầu và sử 
dụng thị tr−ờng không chỉ vì mục đích 
kinh tế. Xu thế này đã làm nảy sinh sự 
cạnh tranh mới trên toàn cầu, giữa các 
mô hình kinh tế ít nhiều khác biệt. Biểu 
hiện của điều đó, New York giờ đây d−ờng 
nh− không còn là thủ đô tài chính của 
Mỹ. Mà là Washington, nơi các nghị viên 
và các cơ quan hành pháp Hoa Kỳ đ−a ra 
những quyết định có ảnh h−ởng đến thị 
tr−ờng trên một quy mô ch−a từng thấy 
kể từ thập niên 1930. Một sự chuyển dịch 
trách nhiệm t−ơng tự cũng đang diễn ra 
khắp thế giới: từ Th−ợng Hải về Bắc 
Kinh, từ Dubai về Abu Dhabi, từ Sydney 
về Canberra, từ São Paulo về Brasília, và 
thậm chí từ Mumbai về New Delhi... Còn 
các thủ đô khác nh− London, Moscow và 
Paris, nơi thủ phủ tài chính và thủ phủ 
chính trị ở chung một chỗ, thì sự chuyển 
dịch trách nhiệm kinh tế đang đi về phía 
chính phủ. 
Nhiều quyết sách trong những năm 
qua đã cứu vớt các nền kinh tế trong 
khủng hoảng. Và may mắn, khủng 
hoảng đã có vẻ đã đến hồi kết, các nền 
kinh tế đang hồi phục. Nh−ng, nhà n−ớc 
càng can thiệp sâu rộng hơn vào kinh tế 
thì vấn nạn quan liêu, lãng phí, kém 
hiệu quả và tham nhũng... lại tăng lên. 
Điều này đặc biệt nghiêm trọng ở những 
nơi mà chính quyền dễ dàng đ−a ra các 
quyết định th−ơng mại mà không sợ bị 
chất vấn hay điều tra bởi công luận hay 
bởi các cơ quan điều tiết có tính độc lập 
về chính trị, pháp lý. Các chính phủ này 
biện hộ phải làm nh− thế để tránh nạn 
thất nghiệp đang gia tăng và tình trạng 
năng suất kinh tế suy giảm. 
Có tác giả lý giải rằng, cuộc khủng 
hoảng tài chính toàn cầu đã ít nhiều tạo 
ra một ảo t−ởng về tính đoàn kết quốc 
tế, dựa trên cảm thức sợ hãi sai lầm là, 
mọi ng−ời sẽ chìm chung trên một con 
thuyền. Điều đó làm cho chủ nghĩa t− 
bản nhà n−ớc sẽ kéo dài hơn tuổi thọ 
của nó. Nh−ng sau khủng hoảng, vì 
triển vọng lâu dài của nền kinh tế thế 
giới, nhiều học giả đã lên tiếng về sự 
Khoa học xã hội n−ớc ngoài: 7 
cần thiết của một chính sách bảo vệ chủ 
nghĩa tân tự do, duy trì và phát triển 
thị tr−ờng tự do. Sách l−ợc đẩy mạnh tự 
do mậu dịch, cổ vũ đầu t− n−ớc ngoài, cổ 
vũ tính minh bạch, và mở rộng thị 
tr−ờng, tăng c−ờng hiệu lực cho thị 
tr−ờng tự do... vẫn là một lựa chọn lành 
mạnh và có ý nghĩa bền vững cho sự 
phát triển tiếp theo của nền kinh tế thế 
giới và của các nền kinh tế quốc gia. 
3.6. Giữa năm 2005 và mùa hè 
2008, nạn khan hiếm l−ơng thực và 
thực phẩm xảy ra với những cách thức 
rất khác nhau trong gần hai m−ơi quốc 
gia và đẩy hơn 75 triệu ng−ời rơi vào 
cảnh nghèo túng. Những ng−ời giàu có 
không biết đến hiện t−ợng khủng hoảng 
này ngoài bảng niêm yết giá l−ơng thực, 
thực phẩm tại các siêu thị. Giá lúa mì 
và ngô tăng ba lần, giá gạo tăng năm 
lần. Nh−ng không giống nh− tr−ớc đây, 
lần này giá cả l−ơng thực, thực phẩm 
tăng khi mà nông dân trên thế giới đ−ợc 
mùa ở mức kỷ lục. Đây là một triệu 
chứng của một vấn đề rộng lớn hơn, 
nghiêm trọng hơn: trong những thập 
niên qua, thế giới đã tiêu thụ l−ơng 
thực, thực phẩm nhiều hơn mức sản 
xuất đ−ợc. Trong năm 2007, thế giới đã 
thấy mức dự trữ l−ơng thực chỉ còn đủ 
cho toàn thế giới ăn trong 61 ngày. 
Giá cao là dấu hiệu cuối cùng khi 
cầu v−ợt cung. Điều này tr−ớc hết đánh 
vào cả tỷ ng−ời nghèo trên thế giới, bởi 
vì trên thực tế từ 50 đến 70% thu nhập 
của ng−ời nghèo đ−ợc dùng để chi tiêu 
cho l−ơng thực, thực phẩm. Hiện thời, 
nhiều nhà khoa học đã cảnh báo về nỗi 
sợ hãi gọi là sự khủng hoảng l−ơng thực, 
thực phẩm liên tục. 
Mặc dù từ giữa những năm 1950 
đến những năm 1990, mức sản xuất 
trung bình của thế giới về l−ơng thực đã 
tăng gấp đôi – một thành quả gây sửng 
sốt và đ−ợc đặt biệt danh là cách mạng 
xanh. Tuy nhiên vì dân số thế giới đến 
giữa thế kỷ XXI sẽ là 9 tỷ ng−ời nên 
ngày nay, các nhà khoa học nói rằng thế 
giới cần phải lặp lại một thành quả 
giống nh− thế, nghĩa là tăng gấp đôi 
mức sản xuất hiện tại về l−ơng thực và 
thực phẩm vào năm 2030. 
Nghĩa là cần có một cuộc cách mạng 
xanh khác. Và, đây cũng là một đại vấn 
đề gây bức xúc trong nhiều nghị trình 
của các chính phủ và trong các đề án 
phát triển của các nhà khoa học và các 
nhà hoạt động xã hội. 
4. Trở lại với việc xuất bản “Niên 
giám thông tin KHXH n−ớc ngoài”. Sau 
khi hoàn thành bản thảo số 2, Hội đồng 
biên tập chúng tôi đã nhận đ−ợc nhiều 
góp ý có giá trị. Có những góp ý đã đ−ợc 
tiếp thu và sửa chữa ngay ở lần xuất 
bản này. Cũng có những góp ý rất xác 
đáng và tâm huyết, nh−ng lại cần phải 
có thời gian và năng lực mới có thể sửa 
chữa đ−ợc. Chúng tôi sẽ cố gắng chỉnh 
sửa khi xuất bản số sau cả về cách lựa 
chọn chủ đề, nội dung, lối trình bày, sắp 
xếp các bài viết. Chúng tôi cũng sẽ chú 
trọng hơn nữa uy tín của các tác giả và 
uy tín của các tạp chí nguồn mà ở đó bài 
viết đã đ−ợc công bố. 
Hội đồng biên tập và Viện Thông 
tin KHXH xin giới thiệu và trân trọng 
cảm ơn ý kiến phê bình quý báu của các 
học giả, của các vị lãnh đạo và bạn đọc 
gần xa. 
Chú thích 
1. Xem: Ngô Tự Lập. Xã hội hóa nghiên 
cứu khoa học nh− thế nào. 
NgoTuLap_XaHoiHoaNghienCuu.htm 

File đính kèm:

  • pdfkhoa_hoc_xa_hoi_nuoc_ngoai_nhung_van_de_dat_ra_doi_voi_viec.pdf