Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam
Khi Johannes Gutenberg phát minh ra
công nghệ in, tốc độ in còn rất chậm và việc
tạo ra một bản sao của một cuốn sách hay
tài liệu còn khó khăn. Dần dần, tốc độ in
được cải thiện, việc sao chép và tái xuất bản
hàng loạt với khối lượng lớn dễ dàng hơn
và không thể kiểm soát nổi, điều này càng
phổ biến hơn khi định dạng số ra đời. Trong
bối cảnh thông tin sinh ra đều ở dạng số
(born-digital), thì việc chia sẻ các tác phẩm1
trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Vấn đề đặt ra
là làm sao để hoạt động này phải tuân thủ
về mặt pháp lý và các quy định ràng buộc
liên quan. Qua đó thúc đẩy chia sẻ thông tin
và tri thức dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi một cá nhân sáng tạo ra một tác
phẩm, tác giả sẽ đặt ra hai câu hỏi cơ bản:
“Tôi có muốn tác phẩm này được phép sử
dụng với mục đích thương mại hay không?”
và “Tôi có muốn cho phép có các tác phẩm
phái sinh dựa trên tác phẩm của mình hay
không?”, Việc trả lời hai câu hỏi quan trọng
này sẽ quyết định tác giả lựa chọn loại giấy
phép bản quyền nào cho tác phẩm của
mình. Để trả lời các câu hỏi trên, cần hiểu rõ
khái niệm chung về: copyright (bản quyền),
public domain (phạm vi công cộng), bản
quyền trái (copyleft), giấy phép mở (open
licenses).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2020 3 Giấy phép mở - nền tảnG hỗ trợ chia sẻ tài nGuyên thônG tin số và truy cập mở tại việt nam TS Đỗ Văn Hùng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội ● Tóm tắt: Bài viết đưa ra các kiến thức nền tảng về bản quyền và giấy phép mở, làm rõ sự khác biệt giữa các mức độ mở của các loại giấy phép hiện hành, trong đó nhấn mạnh đến giấy phép của Creative Commons. Nghiên cứu bối cảnh Việt Nam trên hai phương diện: sự quan tâm của người dùng về bản quyền và giấy phép mở, hệ thống pháp luật và sự tương thích với giấy phép mở. Trên cơ sở đó, đưa ra một số gợi ý áp dụng giấy phép mở cho việc tạo lập và chia sẻ các tài nguyên thông tin số, thúc đẩy truy cập mở tại Việt Nam. ● Từ khóa: Giấy phép mở; bản quyền; bản quyền tác giả; phạm vi công cộng; Creative Commons; chia sẻ thông tin; truy cập mở. Open license - the fundamental Of infOrmatiOn resOurce sharinG and Open access ● Abstract: The paper provides background knowledge of copyright and open licenses, and clarifying the differences between the levels of openness of current licenses, with emphasis on Creative Commons license. Researching the Vietnamese context on two aspects: attitudes of stakeholders on copyright and open licenses, and incompatibilities between the current legal system with open licenses. Based on that there are some recomendations for applying open licenses for creating and sharing digital information resources, and promoting open access in Vietnam. ● Keywords: Open license; Copyright; Public domain; Creative Commons; Information sharing; Open access. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. CÁC KHÁI NIỆM Cơ Sở Khi Johannes Gutenberg phát minh ra công nghệ in, tốc độ in còn rất chậm và việc tạo ra một bản sao của một cuốn sách hay tài liệu còn khó khăn. Dần dần, tốc độ in được cải thiện, việc sao chép và tái xuất bản hàng loạt với khối lượng lớn dễ dàng hơn và không thể kiểm soát nổi, điều này càng phổ biến hơn khi định dạng số ra đời. Trong bối cảnh thông tin sinh ra đều ở dạng số (born-digital), thì việc chia sẻ các tác phẩm1 trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Vấn đề đặt ra là làm sao để hoạt động này phải tuân thủ về mặt pháp lý và các quy định ràng buộc liên quan. Qua đó thúc đẩy chia sẻ thông tin và tri thức dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi một cá nhân sáng tạo ra một tác phẩm, tác giả sẽ đặt ra hai câu hỏi cơ bản: “Tôi có muốn tác phẩm này được phép sử 1 Trong bài viết này, “tác phẩm” được hiểu là tất cả các sản phẩm trí tuệ ở các lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật. dụng với mục đích thương mại hay không?” và “Tôi có muốn cho phép có các tác phẩm phái sinh dựa trên tác phẩm của mình hay không?”, Việc trả lời hai câu hỏi quan trọng này sẽ quyết định tác giả lựa chọn loại giấy phép bản quyền nào cho tác phẩm của mình. Để trả lời các câu hỏi trên, cần hiểu rõ khái niệm chung về: copyright (bản quyền), public domain (phạm vi công cộng), bản quyền trái (copyleft), giấy phép mở (open licenses). * Bản quyền Bản quyền (copyright) ra đời nhằm mục đích bảo vệ các tác phẩm trí tuệ của người sáng tạo khỏi việc sao chép hoặc kinh doanh một cách bất hợp pháp - đây là quyền phi vật thể. Bản quyền chỉ rõ, chỉ có tác giả là người duy nhất được quyết định đến hoạt động liên quan đến tác phẩm của mình: chẳng hạn như cho phép hoặc không cho phép xuất bản hay phân phối tác phẩm, có được sửa đổi hay sao chép để sử dụng THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/20204 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI hay không. Bản quyền được đảm bảo trong một khoảng thời gian có giới hạn, sau đó tác phẩm được chuyển sang phạm vi công cộng. Ưu điểm cũng là nhược điểm lớn nhất của bản quyền là không cho phép truy cập sử dụng và chia sẻ rộng rãi tác phẩm, thậm chí là vì mục đích phi thương mại. Điều này có nghĩa, tác phẩm có thể được phổ biến chậm hoặc thậm chí là hoàn toàn không được công bố. * Phạm vi công cộng Các tác phẩm thuộc phạm vi công cộng (public domain) không bị áp dụng bởi bất cứ quyền nào về sở hữu trí tuệ. Những quyền đó có thể đã hết hạn, thu hồi, bị từ bỏ hoặc không thể áp dụng được. Thường thì bản quyền tác giả sẽ có hiệu lực từ 50 đến 100 năm sau khi tác giả qua đời. Khi hết hiệu lực, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng, sửa đổi và bán các tác phẩm đó mà không cần xin phép tác giả - lúc này tác phẩm được chuyển sang trạng thái thuộc phạm vi công cộng. Các tác phẩm của Beethoven là một ví dụ điển hình cho việc chuyển đổi các sáng tạo ra phạm vi công cộng. Các tác phẩm âm nhạc có hiệu lực bản quyền tác giả trong 70 năm sau khi tác giả qua đời. Beethoven mất năm 1827, do vậy hiện nay bất kỳ ai cũng có thể sử dụng và bán các tác phẩm của ông. Trường hợp hình ảnh chuột Mickey của Walt Disney là một ví dụ điển hình của việc duy trì bản quyền và có thể chuyển đổi sang dạng nhãn hiệu (trademark). Hình ảnh chuột Mickey hết hạn bảo hộ bản quyền vào 1998, tuy nhiên hãng Walt Disney đã vận động ... g được phép sử dụng để kinh doanh, và được sửa đổi tùy ý như có thể chỉnh sửa, bổ sung để tạo ra tài liệu mới. 31% giảng viên mong muốn mở tuyệt đối không bị giới hạn bất cứ quyền nào, chỉ cần ghi công người tạo ra. Chỉ có 21,4% giảng viên lựa chọn mức độ mở là sử dụng miễn phí, không được phép sửa đổi hay sử dụng vào mục đích kinh THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/202012 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Về vấn đề đạo đức sử dụng và bản quyền trong tiếp cận các tài nguyên truy cập mở, các nhóm người dùng liên quan đã có sự hiểu biết và trải nghiệm tương đối phù hợp. Mặc dù có hơn 70% giảng viên luôn lưu ý sinh viên về vấn đề đạo văn trong học tập và nghiên cứu khoa học (xem Bảng 7), nhưng có tới 22,7% sinh viên ủng hộ ý kiến cho rằng không cần trích dẫn khi sử dụng tài liệu miễn phí; có 55,3% sinh viên đồng Bảng 7. Sự quan tâm của giảng viên đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng [Đỗ và cộng sự, 2019] Sự quan tâm của giảng viên đối với vấn đề bản quyền và giấy phép mở Rất không tán thành Không tán thành Không ý kiến Tán thành Rất tán thành Tôi luôn quan tâm đến giấy phép sử dụng đối với bất kỳ tài liệu nào tôi sử dụng. 5,7% 8,0% 32,8% 33,9% 19,5% Tôi trích dẫn đầy đủ khi sử dụng OERs cũng như các tài liệu khác. 4,7% 2,9% 20,5% 42,7% 29,2% Tôi luôn nhắc nhở sinh viên về vấn đề đạo văn trong các hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học. 2,9% 3,5% 19,7% 40,5% 33,5% Tôi đã từng chia sẻ học liệu của tôi kèm theo giấy phép Creative Commons. 18,3% 14,8% 42,0% 16,6% 8,3% Tôi chỉ quan tâm đến vấn đề bản quyền khi chia sẻ tài liệu với người khác. 7,1% 14,3% 38,1% 30,4% 10,1% Tôi không tin tưởng hệ thống giấy phép như Creative Commons. 15,0% 21,6% 43,7% 18,0% 1,8% Tôi sẽ tìm hiểu giấy phép và gắn giấy phép vào tài liệu của tôi khi tôi chia sẻ. 4,7% 9,9% 33,3% 38,6% 13,5% doanh - đây là mức độ mở thấp nhất trong quyền truy cập mở. Như vậy có thể thấy, gần 80% người dùng được khảo sát ủng hộ không nên hạn chế quyền sử dụng đối với các học liệu trong hệ thống, nhu cầu này cũng gần với định nghĩa về OER và OA của UNESCO. 4.2. Nhận thức về vấn đề bản quyền và giấy phép Về vấn đề giấy phép sử dụng, cần giải quyết một số vấn đề quan trọng trong nhận thức. Cụ thể, mặc dù có 19,5% và 33,9% ý kiến của giảng viên là rất đồng ý và đồng ý với mệnh đề “Tôi luôn quan tâm đến giấy phép sử dụng đối với bất kỳ tài liệu nào tôi sử dụng”, nhưng số người không quan tâm (32,8%) và phản đối vấn đề này cũng không phải là nhỏ. Điều này cũng lý giải cho tỷ lệ gần 20% giảng viên “không tin tưởng hệ thống giấy phép như Creative Commons”, chỉ gần 25% giảng viên sử dụng giấy phép Creative Commons khi chia sẻ học liệu, và tới hơn 40% giảng viên chỉ quan tâm đến vấn đề bản quyền khi chia sẻ tài liệu với người khác (xem Bảng 7). THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2020 13 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Bảng 8. Sự quan tâm của sinh viên đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng Sự quan tâm của giảng viên đối với vấn đề bản quyền và giấy phép mở Rất không tán thành Không tán thành Không ý kiến Tán thành Rất tán thành Tôi không để ý lắm đến vấn đề bản quyền, giấy phép khi sử dụng tài liệu trên mạng. 6,8% 11,1% 26,8% 37,9% 17,4% Khi chia sẻ, in ấn, photo tài liệu tôi thực sự chưa quan tâm đến vấn đề bản quyền. 3,7% 11,6% 26,8% 39,5% 18,4% Tôi chưa chú ý lắm đến các vấn đề đạo văn và trích dẫn trong quá trình học tập. 8,1% 19,4% 26,9% 36,6% 9,1% Theo tôi sử dụng các nguồn thông tin/tài liệu miễn phí thì không cần trích dẫn. 22,2% 27,6% 27,6% 14,1% 8,6% Theo tôi đã là tài liệu miễn phí và truy cập mở thì không cần quan tâm đến bản quyền/giấy phép nữa. 21,1% 23,2% 24,2% 20,0% 11,6% ý cho rằng không để ý lắm đến vấn đề bản quyền, giấy phép khi sử dụng tài liệu trên mạng và 45,7% sinh viên cho rằng chưa chú ý đến các vấn đề đạo văn và trích dẫn trong quá trình học tập (xem Bảng 8). Có thể thấy, nhận thức và hiểu biết về bản quyền, giấy phép liên quan đến sử dụng TNGDM đang là vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Hai đối tượng sử dụng chính (giảng viên và sinh viên) chưa nhận thức và trải nghiệm một cách đầy đủ theo đúng bản chất và các yêu cầu về pháp luật của việc sử dụng TNGDM phục vụ cho các hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Trong vấn đề này, cán bộ thư viện đóng vai trò vừa là người khởi tạo vừa là người tìm kiếm, tổ chức và chuyển giao các nguồn thông tin đến người sử dụng. Với vai trò quan trọng này thì việc hiểu biết và quan tâm đến vấn đề bản quyền là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi cán bộ thư viện. Khảo sát về mức độ quan tâm của cán bộ thư viện về bản quyền và giấy phép được mô tả trong Bảng 9 dưới đây. Bảng 9. Sự quan tâm của cán bộ thư viện đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng Sự quan tâm của cán bộ thư viện đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng TNGDM Rất không tán thành Không tán thành Không ý kiến Tán thành Rất tán thành Tôi luôn quan tâm đến giấy phép khi thu thập và chia sẻ các nguồn học liệu. 4,1% 5,0% 24,8% 45,5% 20,7% THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/202014 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Số liệu khảo sát cho thấy, cán bộ thư viện đã có sự quan tâm đáng kể tới vấn đề bản quyền khi triển khai thu thập, chia sẻ và phân phối thông tin. Tuy nhiên, cũng giống như các nhóm người dùng là giảng viên và sinh viên, cán bộ thư viện chưa có sự tin tưởng đối với hệ thống giấy phép mở của Creative Commons. 4.3. Hệ thống pháp luật Việt Nam với vấn đề truy cập mở Nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Nhàn (2019) chỉ ra rằng, sự bảo vệ độc quyền quyền tác giả đang có xu hướng ngày càng tăng cường hơn, và các cơ quan có thẩm quyền đã thực thi và xử lý vi phạm hiệu quả hơn. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến mặt trái là hạn chế việc chia sẻ tri thức rộng rãi trong cộng đồng. Vấn đề bản quyền có quy định về các trường hợp cho phép sử dụng tác phẩm không phải xin phép tại Điều 25, 26 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT). Nhưng các quy định đó không đủ để đáp ứng nhu cầu truy cập và tìm kiếm tri thức phục vụ cho nghiên cứu và đào tạo. Cách tiếp cận về các trường hợp ngoại lệ trong Luật SHTT đang tiếp cận đóng (fair dealing), tức là liệt kê chi tiết (trong khi thực tế đanh sách này thay đổi này) chứ không mang tính khái quát và mềm dẻo. Điều 25 khoản 1a, b, d, đ và g quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân, sao chép để lưu trữ trong thư viện để phục vụ mục đích nghiên cứu. Như vậy, nếu như giảng viên sao chụp bài báo cho sinh viên của lớp mình (nhiều hơn 1 bản) hoặc chuyển định dạng số để gửi cho sinh viên, đăng tải lên các hệ thống học tập (có thể là hệ thống đóng) đều vi phạm pháp luật. Trong bối cảnh thông tin số hiện nay, việc công bố tác phẩm cần gắn với quy định về sao chép tác phẩm [Trần, & Hoàng, 2019]. Vì một khi tác phẩm đã được công bố dưới dạng số xuất hiện trên internet thì rất khó thu hồi và đặc biệt là tác giả không thể kiểm soát được việc sao chép. Chính vì vậy, Nghị định số 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật SHTT ra đời nhằm hướng tới việc thắt chặt hơn về sao chép tác phẩm. Điều 22 quy định: Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số. Quy định này hạn chế các thư viện tham gia vào việc thu thập và truyền bá tri thức trong bối cảnh số. “Những quy định sơ sài của Luật SHTT khiến cho những hoạt động tưởng chừng có thể của thư viện hiện nay trở nên mơ hồ và đầy rủi ro về pháp lý” [Đinh, 2019, tr. 297]. 4.4. Triển khai giấy phép mở tại Việt Nam Để triển khai được CC vào Việt Nam, cần có một giải pháp đồng bộ và có sự tham gia tích cực của các bên liên quan, bởi đây một vấn đề rất khó. Một số công việc cần triển khai như sau: Thứ nhất, về mặt chính sách vĩ mô, Việt Nam xem xét tham gia 2 hiệp ước có Tôi đã từng chia sẻ học liệu của tôi kèm theo giấy phép Creative Commons. 19,0% 25,5% 37,5% 13,9% 4,2% Tôi không tin tưởng hệ thống giấy phép như Creative Commons. 13,7% 27,4% 38,7% 17,9% 2,4% Tôi luôn quan tâm đến bản quyền khi chia sẻ các học liệu. 4,5% 4,5% 21,4% 45,9% 23,6% THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2020 15 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền tác giả trên môi trường số, đó là Hiệp ước WIPO về quyền tác giả (WIPO Copyright Treaty - WCT), và Hiệp ước WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WIPO Performances and Phonograms Treaty - WPPT). Việc tham gia các hiệp ước này sẽ đảm bảo cho hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan tương thích với pháp luật quốc tế trong việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số. Thứ hai, thừa nhận giá trị pháp lý của hệ thống giấy phép mở [Đinh, 2019]. Luật SHTT chưa ghi nhận sự tồn tại của giấy phép mở, do đó, nếu có tranh chấp liên quan đến vấn đề này sẽ rất khó xử lý và rủi ro pháp lý có thể xảy ra cho cả chủ thể quyền và người sử dụng. Vì vậy, công nhận giấy phép mở sẽ tạo hành lang pháp lý an toàn, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho chủ sở hữu các tác phẩm truy cập mở. Thứ ba, vai trò của các cơ sở đào tạo và các hiệp hội nghề nghiệp. Các trường đại học và các hiệp hội như Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Hội Thư viện và Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam nên là các đơn tổ chức, xem xét triển khai các hoạt động áp dụng giấy phép CC trong việc tạo lập, sử dụng, chia sẻ và phân phối các ấn phẩm khoa học. Việc cấp giấy phép CC nên được bắt đầu từ chính sách đầu tư công: các dự án nghiên cứu công (tài trợ bởi chính phủ - từ tiền thuế) cần phải được chia sẻ dưới hình thức truy cập mở. Để đảm bảo truy cập mở thì các kết quả nghiên cứu này cần cấp giấy phép mở đính kèm. Các tác giả khi công bố tác phẩm trên các ấn phẩm khoa học có thêm quy định về quyền tái công bố của các đơn vị chủ quản (khoa/viện/trường) của tác giả đó, điều này đảm bảo việc sử dụng rộng rãi với mục đích học thuật mà không vi phạm quyền tác giả. Thứ tư, hợp tác đa phương về truy cập mở và áp dụng giấy phép mở [Đỗ, 2015], trong đó chia thành 4 nhóm: các cơ quan nhà nước liên quan đến chính sách; các trường đại học và thư viện liên quan đến thực thi giấy phép; các công ty công nghệ trong việc hỗ trợ nền tảng truy cập và chia sẻ thông tin theo chuẩn mở và nhóm các cá nhân (giảng viên, nhà nghiên cứu, cán bộ thư viện) trực tiếp tạo lập và chia sẻ thông tin. Thứ năm, tăng cường ưu tiên về truy cập mở cho thư viện. Thư viện nên được coi là một ngoại lệ đặc thù trong việc chia sẻ và phân phối thông tin. Với mục đích hoạt động phi lợi nhuận và thúc đẩy phát triển tri thức cộng đồng, thư viện cần được trao quyền mở hơn trong việc sao chép, số hóa các nguồn thông tin phục vụ cộng đồng. Thư viện cần được tự do trong việc tìm kiếm, thu thập và truyền bá thông tin miễn phí với yêu cầu đảm bảo về giấy phép mở. KếT LUẬN Nghiên cứu cho thấy, người dùng Việt Nam đang có nhu cầu cao về truy cập mở đến các nguồn thông tin khoa học. Tuy nhiên, ý thức về tuân thủ bản quyền và sử dụng giấy phép mở trong quá trình khai khác, chia sẻ và sử dụng thông tin đang ở mức thấp. Hơn nữa, người dùng chưa thực sự tin tưởng hệ thống giấy phép CC. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật lại chưa tạo điều kiện để thúc đẩy truy cập mở và chia sẻ thông tin số. Hay nói cách khác, hành lang pháp lý cho vấn đề này là chưa có. Do vậy, việc triển khai giấy phép mở tại Việt Nam là một công việc không đơn giản. Với sự phát triển của phong trào nguồn mở và tài nguyên giáo dục mở trong hai thập niên vừa qua tại Việt Nam, giấy phép CC đã được tạo một nền tảng cơ bản để từng bước được chấp nhận và áp dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bazen, S., Bouvard, L., & Zimmermann, J.-B. (2015). Musicians and the Creative Commons: A survey of artists THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/202016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI on Jamendo. Information Economics and Policy, 32, 65-76. doi:10.1016/j. infoecopol.2015.07.007. 2. Carlisle, S. (2014). Mickey’s headed to the public domain! but will he go quietly?. Truy cập tại nova.edu/mickey-public-domain. 3. Creative Commons (2020a). Can I combine material under different Creative Commons licenses in my work?. Truy cập tại https:// creativecommons.org/faq/#if-i-derive- or-adapt-material-offered-under-a- creative-commons-license-which-cc- licenses-can-i-use. 4. Creative Commons (2020b). Three “layers” of licenses. Truy cập tại https:// creativecommons.org/licenses. 5. Dobusch, L., & Kapeller, J. (2017). Open strategy-making with crowds and communities: Comparing Wikimedia and Creative Commons. Long Range Planning. doi:10.1016/j. lrp.2017.08.005. 6. Đinh, Thị Thanh Nhàn (2019). Những rào cản của Luật Sở hữu trí tuệ tới sự phát triển của OER. Hệ thống giấy phép Creative Commons - Sự hỗ trợ ưu việt cho phát triển OER tại Việt Nam. Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở. ĐHQGHN. Tr. 286-2305. 7. Đỗ, Văn Hùng (2019). Đề xuất chính sách và tổ chức thực hiện việc phát triển tài nguyên giáo dục mở cho giáo dục đại học Việt Nam. Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở. H. ĐHQGHN. Tr. 256-274. 8. Đỗ, Văn Hùng; Nghiêm, Xuân Huy; Trần, Đức Hòa; Phạm, Tiến Toàn; Nguyễn, Kim Dung; Nguyễn, Kim Lân & Bùi, Thanh Thủy (2019). Báo cáo khảo sát tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học Việt Nam. Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở. H. ĐHQGHN Tr. 469-499. 9. Đỗ, Văn Hùng (2015). Tổng quan về học liệu mở và nhận dạng các yếu tố tác động đến việc xây dựng và chia sẻ học liệu mở trong các trường đại học việt Nam. Xây dựng nền tảng học liệu mở cho giáo dục đại học Việt Nam: đề xuất chính sách, tạo lập cộng đồng và phát triển giải pháp công nghệ. H. ĐHQGHN, tr. 80-106. 10. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, và Luật sửa đổi bổ sung số 42/2019/QH14, ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2019. 11. Pearce, Joshua M. (2014). Chapter 3 - Open licensing -Advanced sharing. How to build your own hardware and reduce research costs, p. 37-57. 12. Suber, Peter (2012). “Open access” - The MIT Press Essential Knowledge Series ed., Cambridge, Mass.: MIT Press. ISBN 978-0-262-51763-8. 13. Trần, Văn Hải & Hoàng, Lan Phương (2019). Cấp phép sử dụng tài nguyên giáo dục mở - tiếp cập từ pháp luật về quyền tác giả. Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở. ĐHQGHN. Tr. 238-255. 14. UNESCO (2020). What is Open Access? Truy cập tại https://en.unesco. org/open-access/what-open-access. 15. Wiley, D. (2010). Openness as catalyst for an educational reformation. Educause Review. 45 (4), pp. 15-20. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 18-5- 2020; Ngày phản biện đánh giá: 4-6-2020; Ngày chấp nhận đăng: 15-7-2020).
File đính kèm:
- giay_phep_mo_nen_tang_ho_tro_chia_se_tai_nguyen_thong_tin_so.pdf