Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam

Khi Johannes Gutenberg phát minh ra

công nghệ in, tốc độ in còn rất chậm và việc

tạo ra một bản sao của một cuốn sách hay

tài liệu còn khó khăn. Dần dần, tốc độ in

được cải thiện, việc sao chép và tái xuất bản

hàng loạt với khối lượng lớn dễ dàng hơn

và không thể kiểm soát nổi, điều này càng

phổ biến hơn khi định dạng số ra đời. Trong

bối cảnh thông tin sinh ra đều ở dạng số

(born-digital), thì việc chia sẻ các tác phẩm1

trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Vấn đề đặt ra

là làm sao để hoạt động này phải tuân thủ

về mặt pháp lý và các quy định ràng buộc

liên quan. Qua đó thúc đẩy chia sẻ thông tin

và tri thức dưới nhiều hình thức khác nhau.

Khi một cá nhân sáng tạo ra một tác

phẩm, tác giả sẽ đặt ra hai câu hỏi cơ bản:

“Tôi có muốn tác phẩm này được phép sử

dụng với mục đích thương mại hay không?”

và “Tôi có muốn cho phép có các tác phẩm

phái sinh dựa trên tác phẩm của mình hay

không?”, Việc trả lời hai câu hỏi quan trọng

này sẽ quyết định tác giả lựa chọn loại giấy

phép bản quyền nào cho tác phẩm của

mình. Để trả lời các câu hỏi trên, cần hiểu rõ

khái niệm chung về: copyright (bản quyền),

public domain (phạm vi công cộng), bản

quyền trái (copyleft), giấy phép mở (open

licenses).

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang baonam 10200
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam

Giấy phép mở - Nền tảng hỗ trợ chia sẻ tài nguyên thông tin số và truy cập mở tại Việt Nam
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2020 3
Giấy phép mở - nền tảnG hỗ trợ chia sẻ tài nGuyên thônG tin số 
và truy cập mở tại việt nam
TS Đỗ Văn Hùng
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội
● Tóm tắt: Bài viết đưa ra các kiến thức nền tảng về bản quyền và giấy phép mở, làm rõ sự khác 
biệt giữa các mức độ mở của các loại giấy phép hiện hành, trong đó nhấn mạnh đến giấy phép của 
Creative Commons. Nghiên cứu bối cảnh Việt Nam trên hai phương diện: sự quan tâm của người 
dùng về bản quyền và giấy phép mở, hệ thống pháp luật và sự tương thích với giấy phép mở. Trên 
cơ sở đó, đưa ra một số gợi ý áp dụng giấy phép mở cho việc tạo lập và chia sẻ các tài nguyên thông 
tin số, thúc đẩy truy cập mở tại Việt Nam.
● Từ khóa: Giấy phép mở; bản quyền; bản quyền tác giả; phạm vi công cộng; Creative Commons; 
chia sẻ thông tin; truy cập mở.
Open license - the fundamental Of infOrmatiOn resOurce sharinG and Open access
● Abstract: The paper provides background knowledge of copyright and open licenses, and clarifying 
the differences between the levels of openness of current licenses, with emphasis on Creative 
Commons license. Researching the Vietnamese context on two aspects: attitudes of stakeholders 
on copyright and open licenses, and incompatibilities between the current legal system with open 
licenses. Based on that there are some recomendations for applying open licenses for creating and 
sharing digital information resources, and promoting open access in Vietnam.
● Keywords: Open license; Copyright; Public domain; Creative Commons; Information sharing; 
Open access.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. CÁC KHÁI NIỆM Cơ Sở
Khi Johannes Gutenberg phát minh ra 
công nghệ in, tốc độ in còn rất chậm và việc 
tạo ra một bản sao của một cuốn sách hay 
tài liệu còn khó khăn. Dần dần, tốc độ in 
được cải thiện, việc sao chép và tái xuất bản 
hàng loạt với khối lượng lớn dễ dàng hơn 
và không thể kiểm soát nổi, điều này càng 
phổ biến hơn khi định dạng số ra đời. Trong 
bối cảnh thông tin sinh ra đều ở dạng số 
(born-digital), thì việc chia sẻ các tác phẩm1 
trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Vấn đề đặt ra 
là làm sao để hoạt động này phải tuân thủ 
về mặt pháp lý và các quy định ràng buộc 
liên quan. Qua đó thúc đẩy chia sẻ thông tin 
và tri thức dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi một cá nhân sáng tạo ra một tác 
phẩm, tác giả sẽ đặt ra hai câu hỏi cơ bản: 
“Tôi có muốn tác phẩm này được phép sử 
1 Trong bài viết này, “tác phẩm” được hiểu là tất cả các sản 
phẩm trí tuệ ở các lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật.
dụng với mục đích thương mại hay không?” 
và “Tôi có muốn cho phép có các tác phẩm 
phái sinh dựa trên tác phẩm của mình hay 
không?”, Việc trả lời hai câu hỏi quan trọng 
này sẽ quyết định tác giả lựa chọn loại giấy 
phép bản quyền nào cho tác phẩm của 
mình. Để trả lời các câu hỏi trên, cần hiểu rõ 
khái niệm chung về: copyright (bản quyền), 
public domain (phạm vi công cộng), bản 
quyền trái (copyleft), giấy phép mở (open 
licenses).
* Bản quyền
Bản quyền (copyright) ra đời nhằm mục 
đích bảo vệ các tác phẩm trí tuệ của người 
sáng tạo khỏi việc sao chép hoặc kinh 
doanh một cách bất hợp pháp - đây là 
quyền phi vật thể. Bản quyền chỉ rõ, chỉ có 
tác giả là người duy nhất được quyết định 
đến hoạt động liên quan đến tác phẩm của 
mình: chẳng hạn như cho phép hoặc không 
cho phép xuất bản hay phân phối tác phẩm, 
có được sửa đổi hay sao chép để sử dụng 
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/20204
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hay không. Bản quyền được đảm bảo trong 
một khoảng thời gian có giới hạn, sau đó 
tác phẩm được chuyển sang phạm vi công 
cộng. Ưu điểm cũng là nhược điểm lớn nhất 
của bản quyền là không cho phép truy cập 
sử dụng và chia sẻ rộng rãi tác phẩm, thậm 
chí là vì mục đích phi thương mại. Điều này 
có nghĩa, tác phẩm có thể được phổ biến 
chậm hoặc thậm chí là hoàn toàn không 
được công bố.
* Phạm vi công cộng
Các tác phẩm thuộc phạm vi công cộng 
(public domain) không bị áp dụng bởi bất cứ 
quyền nào về sở hữu trí tuệ. Những quyền 
đó có thể đã hết hạn, thu hồi, bị từ bỏ hoặc 
không thể áp dụng được. Thường thì bản 
quyền tác giả sẽ có hiệu lực từ 50 đến 100 
năm sau khi tác giả qua đời. Khi hết hiệu 
lực, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng, sửa đổi 
và bán các tác phẩm đó mà không cần xin 
phép tác giả - lúc này tác phẩm được chuyển 
sang trạng thái thuộc phạm vi công cộng.
Các tác phẩm của Beethoven là một ví dụ 
điển hình cho việc chuyển đổi các sáng tạo 
ra phạm vi công cộng. Các tác phẩm âm 
nhạc có hiệu lực bản quyền tác giả trong 
70 năm sau khi tác giả qua đời. Beethoven 
mất năm 1827, do vậy hiện nay bất kỳ ai 
cũng có thể sử dụng và bán các tác phẩm 
của ông. 
Trường hợp hình ảnh chuột Mickey của 
Walt Disney là một ví dụ điển hình của việc 
duy trì bản quyền và có thể chuyển đổi 
sang dạng nhãn hiệu (trademark). Hình ảnh 
chuột Mickey hết hạn bảo hộ bản quyền 
vào 1998, tuy nhiên hãng Walt Disney đã 
vận động  ... g 
được phép sử dụng để kinh doanh, và được 
sửa đổi tùy ý như có thể chỉnh sửa, bổ sung 
để tạo ra tài liệu mới. 31% giảng viên mong 
muốn mở tuyệt đối không bị giới hạn bất cứ 
quyền nào, chỉ cần ghi công người tạo ra. 
Chỉ có 21,4% giảng viên lựa chọn mức độ 
mở là sử dụng miễn phí, không được phép 
sửa đổi hay sử dụng vào mục đích kinh 
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/202012
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Về vấn đề đạo đức sử dụng và bản quyền 
trong tiếp cận các tài nguyên truy cập mở, 
các nhóm người dùng liên quan đã có sự 
hiểu biết và trải nghiệm tương đối phù hợp. 
Mặc dù có hơn 70% giảng viên luôn lưu 
ý sinh viên về vấn đề đạo văn trong học 
tập và nghiên cứu khoa học (xem Bảng 7), 
nhưng có tới 22,7% sinh viên ủng hộ ý kiến 
cho rằng không cần trích dẫn khi sử dụng 
tài liệu miễn phí; có 55,3% sinh viên đồng 
Bảng 7. Sự quan tâm của giảng viên đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng 
[Đỗ và cộng sự, 2019]
Sự quan tâm của giảng viên đối 
với vấn đề bản quyền và giấy 
phép mở
Rất 
không tán 
thành
Không 
tán thành
Không ý 
kiến
Tán 
thành
Rất tán 
thành
Tôi luôn quan tâm đến giấy phép 
sử dụng đối với bất kỳ tài liệu nào 
tôi sử dụng.
5,7% 8,0% 32,8% 33,9% 19,5%
Tôi trích dẫn đầy đủ khi sử dụng 
OERs cũng như các tài liệu khác. 4,7% 2,9% 20,5% 42,7% 29,2%
Tôi luôn nhắc nhở sinh viên về vấn 
đề đạo văn trong các hoạt động 
học tập và nghiên cứu khoa học.
2,9% 3,5% 19,7% 40,5% 33,5%
Tôi đã từng chia sẻ học liệu của 
tôi kèm theo giấy phép Creative 
Commons.
18,3% 14,8% 42,0% 16,6% 8,3%
Tôi chỉ quan tâm đến vấn đề bản 
quyền khi chia sẻ tài liệu với người 
khác.
7,1% 14,3% 38,1% 30,4% 10,1%
Tôi không tin tưởng hệ thống giấy 
phép như Creative Commons. 15,0% 21,6% 43,7% 18,0% 1,8%
Tôi sẽ tìm hiểu giấy phép và gắn 
giấy phép vào tài liệu của tôi khi 
tôi chia sẻ.
4,7% 9,9% 33,3% 38,6% 13,5%
doanh - đây là mức độ mở thấp nhất trong 
quyền truy cập mở. Như vậy có thể thấy, 
gần 80% người dùng được khảo sát ủng hộ 
không nên hạn chế quyền sử dụng đối với 
các học liệu trong hệ thống, nhu cầu này 
cũng gần với định nghĩa về OER và OA của 
UNESCO.
4.2. Nhận thức về vấn đề bản quyền và 
giấy phép
Về vấn đề giấy phép sử dụng, cần giải 
quyết một số vấn đề quan trọng trong nhận 
thức. Cụ thể, mặc dù có 19,5% và 33,9% ý 
kiến của giảng viên là rất đồng ý và đồng ý 
với mệnh đề “Tôi luôn quan tâm đến giấy 
phép sử dụng đối với bất kỳ tài liệu nào tôi 
sử dụng”, nhưng số người không quan tâm 
(32,8%) và phản đối vấn đề này cũng không 
phải là nhỏ. Điều này cũng lý giải cho tỷ 
lệ gần 20% giảng viên “không tin tưởng hệ 
thống giấy phép như Creative Commons”, 
chỉ gần 25% giảng viên sử dụng giấy phép 
Creative Commons khi chia sẻ học liệu, và 
tới hơn 40% giảng viên chỉ quan tâm đến 
vấn đề bản quyền khi chia sẻ tài liệu với 
người khác (xem Bảng 7).
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2020 13
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Bảng 8. Sự quan tâm của sinh viên đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng
Sự quan tâm của giảng viên đối 
với vấn đề bản quyền và giấy 
phép mở
Rất 
không 
tán thành
Không 
tán 
thành
Không 
ý kiến
Tán 
thành
Rất tán 
thành
Tôi không để ý lắm đến vấn đề 
bản quyền, giấy phép khi sử dụng 
tài liệu trên mạng.
6,8% 11,1% 26,8% 37,9% 17,4%
Khi chia sẻ, in ấn, photo tài liệu 
tôi thực sự chưa quan tâm đến 
vấn đề bản quyền.
3,7% 11,6% 26,8% 39,5% 18,4%
Tôi chưa chú ý lắm đến các vấn 
đề đạo văn và trích dẫn trong 
quá trình học tập.
8,1% 19,4% 26,9% 36,6% 9,1%
Theo tôi sử dụng các nguồn 
thông tin/tài liệu miễn phí thì 
không cần trích dẫn.
22,2% 27,6% 27,6% 14,1% 8,6%
Theo tôi đã là tài liệu miễn phí 
và truy cập mở thì không cần 
quan tâm đến bản quyền/giấy 
phép nữa.
21,1% 23,2% 24,2% 20,0% 11,6%
ý cho rằng không để ý lắm đến vấn đề bản 
quyền, giấy phép khi sử dụng tài liệu trên 
mạng và 45,7% sinh viên cho rằng chưa 
chú ý đến các vấn đề đạo văn và trích dẫn 
trong quá trình học tập (xem Bảng 8).
Có thể thấy, nhận thức và hiểu biết về 
bản quyền, giấy phép liên quan đến sử 
dụng TNGDM đang là vấn đề cần đặc biệt 
quan tâm. Hai đối tượng sử dụng chính 
(giảng viên và sinh viên) chưa nhận thức 
và trải nghiệm một cách đầy đủ theo đúng 
bản chất và các yêu cầu về pháp luật của 
việc sử dụng TNGDM phục vụ cho các hoạt 
động giảng dạy, học tập và nghiên cứu.
Trong vấn đề này, cán bộ thư viện đóng 
vai trò vừa là người khởi tạo vừa là người 
tìm kiếm, tổ chức và chuyển giao các nguồn 
thông tin đến người sử dụng. Với vai trò 
quan trọng này thì việc hiểu biết và quan 
tâm đến vấn đề bản quyền là yêu cầu bắt 
buộc đối với mỗi cán bộ thư viện. Khảo sát 
về mức độ quan tâm của cán bộ thư viện về 
bản quyền và giấy phép được mô tả trong 
Bảng 9 dưới đây.
Bảng 9. Sự quan tâm của cán bộ thư viện đối với vấn đề bản quyền và giấy phép sử dụng
Sự quan tâm của cán bộ thư 
viện đối với vấn đề bản quyền 
và giấy phép sử dụng TNGDM
Rất 
không tán 
thành
Không 
tán thành
Không 
ý kiến
Tán 
thành
Rất tán 
thành
Tôi luôn quan tâm đến giấy 
phép khi thu thập và chia sẻ 
các nguồn học liệu.
4,1% 5,0% 24,8% 45,5% 20,7%
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/202014
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Số liệu khảo sát cho thấy, cán bộ thư viện 
đã có sự quan tâm đáng kể tới vấn đề bản 
quyền khi triển khai thu thập, chia sẻ và 
phân phối thông tin. Tuy nhiên, cũng giống 
như các nhóm người dùng là giảng viên và 
sinh viên, cán bộ thư viện chưa có sự tin 
tưởng đối với hệ thống giấy phép mở của 
Creative Commons.
4.3. Hệ thống pháp luật Việt Nam với vấn 
đề truy cập mở
Nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Nhàn 
(2019) chỉ ra rằng, sự bảo vệ độc quyền 
quyền tác giả đang có xu hướng ngày càng 
tăng cường hơn, và các cơ quan có thẩm 
quyền đã thực thi và xử lý vi phạm hiệu quả 
hơn. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến mặt 
trái là hạn chế việc chia sẻ tri thức rộng rãi 
trong cộng đồng. Vấn đề bản quyền có quy 
định về các trường hợp cho phép sử dụng 
tác phẩm không phải xin phép tại Điều 25, 
26 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT). Nhưng các 
quy định đó không đủ để đáp ứng nhu cầu 
truy cập và tìm kiếm tri thức phục vụ cho 
nghiên cứu và đào tạo. Cách tiếp cận về 
các trường hợp ngoại lệ trong Luật SHTT 
đang tiếp cận đóng (fair dealing), tức là liệt 
kê chi tiết (trong khi thực tế đanh sách này 
thay đổi này) chứ không mang tính khái 
quát và mềm dẻo. 
Điều 25 khoản 1a, b, d, đ và g quy định 
các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công 
bố không phải xin phép, không phải trả tiền 
nhuận bút, thù lao bao gồm: tự sao chép 
một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa 
học, giảng dạy của cá nhân, sao chép để 
lưu trữ trong thư viện để phục vụ mục đích 
nghiên cứu. Như vậy, nếu như giảng viên 
sao chụp bài báo cho sinh viên của lớp mình 
(nhiều hơn 1 bản) hoặc chuyển định dạng 
số để gửi cho sinh viên, đăng tải lên các hệ 
thống học tập (có thể là hệ thống đóng) đều 
vi phạm pháp luật.
Trong bối cảnh thông tin số hiện nay, việc 
công bố tác phẩm cần gắn với quy định về 
sao chép tác phẩm [Trần, & Hoàng, 2019]. 
Vì một khi tác phẩm đã được công bố dưới 
dạng số xuất hiện trên internet thì rất khó 
thu hồi và đặc biệt là tác giả không thể 
kiểm soát được việc sao chép. Chính vì vậy, 
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn 
Luật SHTT ra đời nhằm hướng tới việc thắt 
chặt hơn về sao chép tác phẩm. Điều 22 
quy định: Thư viện không được sao chép 
và phân phối bản sao tác phẩm tới công 
chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số. Quy định 
này hạn chế các thư viện tham gia vào việc 
thu thập và truyền bá tri thức trong bối cảnh 
số. “Những quy định sơ sài của Luật SHTT 
khiến cho những hoạt động tưởng chừng có 
thể của thư viện hiện nay trở nên mơ hồ và 
đầy rủi ro về pháp lý” [Đinh, 2019, tr. 297].
4.4. Triển khai giấy phép mở tại Việt Nam
Để triển khai được CC vào Việt Nam, cần 
có một giải pháp đồng bộ và có sự tham gia 
tích cực của các bên liên quan, bởi đây một 
vấn đề rất khó. Một số công việc cần triển 
khai như sau:
Thứ nhất, về mặt chính sách vĩ mô, 
Việt Nam xem xét tham gia 2 hiệp ước có 
Tôi đã từng chia sẻ học liệu của 
tôi kèm theo giấy phép Creative 
Commons.
19,0% 25,5% 37,5% 13,9% 4,2%
Tôi không tin tưởng hệ thống giấy 
phép như Creative Commons. 13,7% 27,4% 38,7% 17,9% 2,4%
Tôi luôn quan tâm đến bản 
quyền khi chia sẻ các học liệu. 4,5% 4,5% 21,4% 45,9% 23,6%
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2020 15
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền 
tác giả trên môi trường số, đó là Hiệp ước 
WIPO về quyền tác giả (WIPO Copyright 
Treaty - WCT), và Hiệp ước WIPO về biểu 
diễn và bản ghi âm (WIPO Performances 
and Phonograms Treaty - WPPT). Việc 
tham gia các hiệp ước này sẽ đảm bảo cho 
hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tác 
giả và quyền liên quan tương thích với pháp 
luật quốc tế trong việc bảo hộ quyền tác giả 
trong môi trường số.
Thứ hai, thừa nhận giá trị pháp lý của 
hệ thống giấy phép mở [Đinh, 2019]. Luật 
SHTT chưa ghi nhận sự tồn tại của giấy 
phép mở, do đó, nếu có tranh chấp liên 
quan đến vấn đề này sẽ rất khó xử lý và 
rủi ro pháp lý có thể xảy ra cho cả chủ thể 
quyền và người sử dụng. Vì vậy, công nhận 
giấy phép mở sẽ tạo hành lang pháp lý an 
toàn, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho chủ 
sở hữu các tác phẩm truy cập mở.
Thứ ba, vai trò của các cơ sở đào tạo và 
các hiệp hội nghề nghiệp. Các trường đại 
học và các hiệp hội như Hiệp hội các trường 
đại học, cao đẳng Việt Nam, Hội Thư viện 
và Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ 
Việt Nam nên là các đơn tổ chức, xem xét 
triển khai các hoạt động áp dụng giấy phép 
CC trong việc tạo lập, sử dụng, chia sẻ và 
phân phối các ấn phẩm khoa học. Việc cấp 
giấy phép CC nên được bắt đầu từ chính 
sách đầu tư công: các dự án nghiên cứu 
công (tài trợ bởi chính phủ - từ tiền thuế) cần 
phải được chia sẻ dưới hình thức truy cập 
mở. Để đảm bảo truy cập mở thì các kết quả 
nghiên cứu này cần cấp giấy phép mở đính 
kèm. Các tác giả khi công bố tác phẩm trên 
các ấn phẩm khoa học có thêm quy định về 
quyền tái công bố của các đơn vị chủ quản 
(khoa/viện/trường) của tác giả đó, điều này 
đảm bảo việc sử dụng rộng rãi với mục đích 
học thuật mà không vi phạm quyền tác giả.
Thứ tư, hợp tác đa phương về truy cập mở 
và áp dụng giấy phép mở [Đỗ, 2015], trong 
đó chia thành 4 nhóm: các cơ quan nhà 
nước liên quan đến chính sách; các trường 
đại học và thư viện liên quan đến thực thi 
giấy phép; các công ty công nghệ trong việc 
hỗ trợ nền tảng truy cập và chia sẻ thông tin 
theo chuẩn mở và nhóm các cá nhân (giảng 
viên, nhà nghiên cứu, cán bộ thư viện) trực 
tiếp tạo lập và chia sẻ thông tin. 
Thứ năm, tăng cường ưu tiên về truy cập 
mở cho thư viện. Thư viện nên được coi là 
một ngoại lệ đặc thù trong việc chia sẻ và 
phân phối thông tin. Với mục đích hoạt động 
phi lợi nhuận và thúc đẩy phát triển tri thức 
cộng đồng, thư viện cần được trao quyền 
mở hơn trong việc sao chép, số hóa các 
nguồn thông tin phục vụ cộng đồng. Thư 
viện cần được tự do trong việc tìm kiếm, thu 
thập và truyền bá thông tin miễn phí với yêu 
cầu đảm bảo về giấy phép mở.
KếT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy, người dùng Việt Nam 
đang có nhu cầu cao về truy cập mở đến 
các nguồn thông tin khoa học. Tuy nhiên, ý 
thức về tuân thủ bản quyền và sử dụng giấy 
phép mở trong quá trình khai khác, chia sẻ 
và sử dụng thông tin đang ở mức thấp. Hơn 
nữa, người dùng chưa thực sự tin tưởng hệ 
thống giấy phép CC. Bên cạnh đó, các văn 
bản quy phạm pháp luật lại chưa tạo điều 
kiện để thúc đẩy truy cập mở và chia sẻ 
thông tin số. Hay nói cách khác, hành lang 
pháp lý cho vấn đề này là chưa có. Do vậy, 
việc triển khai giấy phép mở tại Việt Nam 
là một công việc không đơn giản. Với sự 
phát triển của phong trào nguồn mở và tài 
nguyên giáo dục mở trong hai thập niên vừa 
qua tại Việt Nam, giấy phép CC đã được 
tạo một nền tảng cơ bản để từng bước được 
chấp nhận và áp dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bazen, S., Bouvard, L., & Zimmermann, 
J.-B. (2015). Musicians and the 
Creative Commons: A survey of artists 
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/202016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
on Jamendo. Information Economics 
and Policy, 32, 65-76. doi:10.1016/j.
infoecopol.2015.07.007.
2. Carlisle, S. (2014). Mickey’s headed 
to the public domain! but will he go 
quietly?. Truy cập tại 
nova.edu/mickey-public-domain.
3. Creative Commons (2020a). Can 
I combine material under different 
Creative Commons licenses in 
my work?. Truy cập tại https://
creativecommons.org/faq/#if-i-derive-
or-adapt-material-offered-under-a-
creative-commons-license-which-cc-
licenses-can-i-use.
4. Creative Commons (2020b). Three 
“layers” of licenses. Truy cập tại https://
creativecommons.org/licenses.
5. Dobusch, L., & Kapeller, J. (2017). 
Open strategy-making with crowds 
and communities: Comparing 
Wikimedia and Creative Commons. 
Long Range Planning. doi:10.1016/j.
lrp.2017.08.005.
6. Đinh, Thị Thanh Nhàn (2019). Những 
rào cản của Luật Sở hữu trí tuệ tới sự 
phát triển của OER. Hệ thống giấy 
phép Creative Commons - Sự hỗ trợ ưu 
việt cho phát triển OER tại Việt Nam. 
Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo 
dục mở. ĐHQGHN. Tr. 286-2305.
7. Đỗ, Văn Hùng (2019). Đề xuất chính 
sách và tổ chức thực hiện việc phát 
triển tài nguyên giáo dục mở cho giáo 
dục đại học Việt Nam. Xây dựng và 
khai thác tài nguyên giáo dục mở. H. 
ĐHQGHN. Tr. 256-274.
8. Đỗ, Văn Hùng; Nghiêm, Xuân Huy; 
Trần, Đức Hòa; Phạm, Tiến Toàn; 
Nguyễn, Kim Dung; Nguyễn, Kim Lân 
& Bùi, Thanh Thủy (2019). Báo cáo 
khảo sát tài nguyên giáo dục mở trong 
giáo dục đại học Việt Nam. Xây dựng 
và khai thác tài nguyên giáo dục mở. H. 
ĐHQGHN Tr. 469-499.
9. Đỗ, Văn Hùng (2015). Tổng quan về 
học liệu mở và nhận dạng các yếu tố 
tác động đến việc xây dựng và chia sẻ 
học liệu mở trong các trường đại học 
việt Nam. Xây dựng nền tảng học liệu 
mở cho giáo dục đại học Việt Nam: đề 
xuất chính sách, tạo lập cộng đồng 
và phát triển giải pháp công nghệ. H. 
ĐHQGHN, tr. 80-106.
10. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, và Luật sửa 
đổi bổ sung số 42/2019/QH14, ban 
hành ngày 14 tháng 06 năm 2019.
11. Pearce, Joshua M. (2014). Chapter 3 
- Open licensing -Advanced sharing. 
How to build your own hardware and 
reduce research costs, p. 37-57.
12. Suber, Peter (2012). “Open access” - 
The MIT Press Essential Knowledge 
Series ed., Cambridge, Mass.: MIT 
Press. ISBN 978-0-262-51763-8. 
13. Trần, Văn Hải & Hoàng, Lan Phương 
(2019). Cấp phép sử dụng tài nguyên 
giáo dục mở - tiếp cập từ pháp luật về 
quyền tác giả. Xây dựng và khai thác 
tài nguyên giáo dục mở. ĐHQGHN. Tr. 
238-255.
14. UNESCO (2020). What is Open 
Access? Truy cập tại https://en.unesco.
org/open-access/what-open-access.
15. Wiley, D. (2010). Openness as catalyst 
for an educational reformation. 
Educause Review. 45 (4), pp. 15-20.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 18-5-
2020; Ngày phản biện đánh giá: 4-6-2020; 
Ngày chấp nhận đăng: 15-7-2020).

File đính kèm:

  • pdfgiay_phep_mo_nen_tang_ho_tro_chia_se_tai_nguyen_thong_tin_so.pdf