Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội

Hiện nay, Thư viện KHXH tổ chức

lưu giữ các nhóm tài liệu của EFEO

trước đây thành nhiều kho theo ngôn

ngữ hoặc theo loại hình tài liệu nhưng

lớn nhất là hai kho QTO (tên cũ là 4o)

và OCTO (tên cũ là 8o). Hai kho nói trên

lưu giữ chủ yếu các dạng tài liệu theo

ngôn ngữ Slav (Slavơ) và ngôn ngữ

Latin, bao gồm tiếng Anh, tiếng Pháp,

tiếng Nga, tiếng Hà Lan, tiếng Đức,

tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha.

và tiếng Việt. Ngoài ra, còn có hai kho

tài liệu chữ tượng hình là kho Nhật Bản

cổ và kho Trung Quốc cổ.

Số liệu thống kê từ cơ sở dữ liệu

(CSDL) bài tạp chí tại Thư viện KHXH

cho thấy, về số lượng, cả hai kho QTO

và OCTO có tới 460 tên ấn phẩm định

kỳ chữ Latin, với hơn 30.000 số, trong

đó ấn phẩm định kỳ bằng tiếng Việt lên

tới 48 tên và được đóng thành khoảng

6.000 tập. Nhóm ấn phẩm định kỳ này

bao gồm các loại tạp chí, tập san, bản

tin, công báo, các chuyên đề đặc biệt,

phụ đề, phụ chương, chuyên san, nguyệt

san. Riêng bản tin và tạp chí bắt đầu

 

Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội trang 1

Trang 1

Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội trang 2

Trang 2

Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội trang 3

Trang 3

Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội trang 4

Trang 4

Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 6500
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội

Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc tư liệu EFEO tại thư viện khoa học xã hội
 Giá trị của ấn phẩm định kỳ thuộc t− liệu EFEO 
tại Th− viện Khoa học Xã Hội 
Trần Thị kiều nga(*)
h− viện Khoa học xã hội (tiền thân 
là Th− viện của Tr−ờng Viễn Đông 
Bác cổ Pháp (EFEO) đ−ợc thành lập 
ngày 26/2/1901) hiện l−u trữ và bảo 
quản khối l−ợng lớn các tài liệu quý, đa 
dạng và phong phú, từ tài liệu dạng 
sách, ấn phẩm định kỳ (serial), hay tài 
liệu vi phim, ảnh, b−u ảnh, đĩa hát, bản 
đồ, tranh vẽ, sắc phong, bản viết tay, 
bản dập văn bia, thần tích thần sắc, 
h−ơng −ớc... 
Qua thời gian, số l−ợng tài liệu tại 
Th− viện Khoa học xã hội (Th− viện 
KHXH) đ−ợc bổ sung ngày càng nhiều, 
đáp ứng đ−ợc nhu cầu của bạn đọc trong 
và ngoài n−ớc. Trong kho tài nguyên 
này, các fonds tài liệu do EFEO bàn giao 
từ năm 1957 vẫn có giá trị nghiên cứu 
khoa học và giá trị lịch sử rất lớn. Tuy 
nhiên, hiện nay, do nhiều nguyên nhân 
khác nhau, các tài liệu dạng sách và ấn 
phẩm định kỳ đã đ−ợc tổ chức đóng tập 
và l−u giữ lẫn vào nhau trong các kho 
d−ới dạng sách. Bài viết b−ớc đầu tìm 
hiểu nhóm ấn phẩm định kỳ l−u giữ 
trong kho EFEO, nhằm giới thiệu đến 
bạn đọc những giá trị tiềm ẩn ch−a đ−ợc 
khai thác hết của khối tài liệu quý này. 
1. Một số nét mô tả về nhóm ấn phẩm định kỳ 
Hiện nay, Th− viện KHXH tổ chức 
l−u giữ các nhóm tài liệu của EFEO 
tr−ớc đây thành nhiều kho theo ngôn 
ngữ hoặc theo loại hình tài liệu nh−ng 
lớn nhất là hai kho QTO (tên cũ là 4o) 
và OCTO (tên cũ là 8o). Hai kho nói trên 
l−u giữ chủ yếu các dạng tài liệu theo 
ngôn ngữ Slav (Slavơ) và ngôn ngữ 
Latin, bao gồm tiếng Anh, tiếng Pháp, 
tiếng Nga, tiếng Hà Lan, tiếng Đức, 
tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha... 
và tiếng Việt. Ngoài ra, còn có hai kho 
tài liệu chữ t−ợng hình là kho Nhật Bản 
cổ và kho Trung Quốc cổ.∗ 
Số liệu thống kê từ cơ sở dữ liệu 
(CSDL) bài tạp chí tại Th− viện KHXH 
cho thấy, về số l−ợng, cả hai kho QTO 
và OCTO có tới 460 tên ấn phẩm định 
kỳ chữ Latin, với hơn 30.000 số, trong 
đó ấn phẩm định kỳ bằng tiếng Việt lên 
tới 48 tên và đ−ợc đóng thành khoảng 
6.000 tập. Nhóm ấn phẩm định kỳ này 
bao gồm các loại tạp chí, tập san, bản 
tin, công báo, các chuyên đề đặc biệt, 
phụ đề, phụ ch−ơng, chuyên san, nguyệt 
san. Riêng bản tin và tạp chí bắt đầu 
(∗) ThS., Viện Thông tin KHXH. 
T 
Giá trị của ấn phẩm định kỳ... 
41
bằng Bulletin lên tới hơn 200 tên trong 
tổng số 2 kho nói trên. Ngoài ra, các ấn 
phẩm định kỳ bằng tiếng Nhật, tiếng 
Trung cũng đ−ợc l−u giữ lẫn vào với 
sách, nh−ng không thuộc kho EFEO 
chung, và đ−ợc phân chuyên biệt vào 
kho sách Nhật Bản cổ và Trung Quốc 
cổ. Nhóm ấn phẩm định kỳ bằng chữ 
t−ợng hình có khoảng 50 tên. 
Về độ tuổi của các ấn phẩm định 
kỳ, tài liệu đ−ợc l−u giữ và s−u tầm với 
tuổi đời lâu nhất là ấn phẩm tiếng Pháp 
có tên Mémoires de littérature tirez des 
resgistrés de l’Académie Royale des 
inscriptions et belles letters (Hồi ký văn 
ch−ơng của Viện Văn khắc và Văn 
ch−ơng Hoàng gia Pháp) do Viện này 
xuất bản d−ới dạng ấn phẩm định kỳ 
(chuyên san). Năm đầu tiên của chuyên 
san này là 1717 (2 tập) và năm cuối 
cùng là 1951 với tổng số 109 tập. Chuyên 
san này còn có một phụ san khác xen kẽ 
vào những năm ch−a đ−ợc xuất bản 
mang tên Histoire de l’académie royale 
des inscriptions et belle lettres (Lịch sử 
của Viện Văn khắc và Văn ch−ơng 
Hoàng gia). Nh− vậy, tuổi đời của 
chuyên san này đ−ợc l−u giữ ở kho 
EFEO là 235 năm. Bên cạnh đó, không 
ít các ấn phẩm định kỳ có độ tuổi trên 
100 năm và đ−ợc bổ sung kéo dài hơn 
100 năm nh− tạp chí tiếng Pháp có tên 
Journal Asiatique (nghiên cứu lịch sử, 
triết học, ngôn ngữ, văn học và các vấn 
đề ph−ơng Đông) của Hội nghiên cứu 
châu á. Số đầu tiên của tạp chí này có 
từ năm 1841 và số cuối cùng đ−ợc bổ 
sung vào năm 1955, tổng số năm đ−ợc 
nhập vào th− viện là 115 năm. Và tính 
đến nay, số đầu tiên của tạp chí Journal 
Asiatique có độ tuổi 172 năm. 
Tạp chí tiếng Anh đ−ợc l−u giữ sớm 
nhất trong kho, từ năm 1806, có tên 
Asiatic researches or transactions of the 
society instituted in Bengal for inquiring 
into the history and antiquities the arts, 
sciences, and literature of Asia (Nghiên 
cứu châu á hay kỷ yếu của hội ở Bengal 
tìm hiểu về lịch sử và cổ vật nghệ thuật, 
khoa học và văn học của châu á). Số 
đầu tiên của tạp chí này xuất bản năm 
1806 và số cuối cùng là năm 1839. Độ 
tuổi của tạp chí là 207 năm. 
Tạp chí tiếng Nga trong kho EFEO 
có tuổi đời già nhất có tên Sibirskij 
Vestnik’ (tạp chí Siberia) với 22 số từ 
năm 1818 đến năm 1824. Các tạp chí có 
tuổi đời trên 50 năm là 18 tên, bao gồm 
8 tên bằng tiếng Pháp, 1 tên tiếng Hà 
Lan, 9 tên tiếng Anh. Các tạp chí bằng 
chữ t−ợng hình có tuổi đời không dài 
bằng các tạp chí chữ Latin và chữ Slavơ. 
Chúng đ−ợc bổ sung bắt đầu từ sau khi 
thành lập Th− viện EFEO. 
2. Một số giá trị nổi bật của nhóm ấn phẩm định 
kỳ thuộc kho EFEO 
Nh− đã nói ở trên, có rất nhiều các 
ấn phẩm định kỳ có tuổi đời hơn 100 
năm. Số ấn phẩm định kỳ còn lại cũng 
có tuổi đời tối thiểu 60 năm. Khá nhiều 
tên ấn phẩm trong nhóm hiện nay vẫn 
còn đ−ợc tiếp tục xuất bản trên thế giới 
và cũng có không ít tên các ấn phẩm 
định kỳ đ−ợc đổi tên để tiếp tục xuất 
bản. Tuy nhiên, một số ấn phẩm thuộc 
nhóm ấn phẩm định kỳ này hiện nay 
không còn đ−ợc xuất bản lại. Nếu có thì 
ng−ời đọc chỉ còn tìm kiếm đ−ợc một vài 
số vô cùng ít ỏi từ Internet theo công 
nghệ số hóa. 
Với khoảng 460 tên ấn phẩm định 
kỳ, nội dung các chuyên ngành mà các 
ẩn phẩm định kỳ liên quan tới hết sức 
đa dạng và thuộc về các lĩnh vực học 
thuật chuyên sâu nh− giáo dục, khảo cổ, 
lịch sử, văn ch−ơng, nghệ thuật, địa lý, 
quân sự, nhân học, dân tộc học, ngôn 
ngữ học. Các bài đăng trong các ấn 
42 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2013 
phẩm nói trên là những bài viết mang 
tính khảo cứu, nghiên cứu khoa học, 
trao đổi kiến thức. Riêng về Đông 
D−ơng, đã có tới gần 100 tên ấn phẩm 
định kỳ có liên quan trong đó phần lớn 
là những nghiên cứu khoa học về xứ 
này. Có thể thấy các bài viết trong các 
ấn phẩm có nội dung liên quan tới các 
nghiên cứu tại 5 xứ thuộc Đông D−ơng 
(theo cách chia của Pháp) tr−ớc đây theo 
cách gọi khi đó là: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, 
Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên. 
Về mặt nội dung, nhóm ấn phẩm 
định kỳ phân rõ thành hai khu vực địa 
lý: nhóm liên quan tới Đông D−ơng và 
nhóm không thuộc khu vực Đông D−ơng. 
- Về nhóm ấn phẩm định kỳ liên 
quan tới Đông D−ơng: có 03 tên ấn phẩm 
định kỳ có giá trị t−ơng đ−ơng nh− Công 
báo là: Bulletin officiel de la Cochinchine 
Francaise; Bulletin Administratif de 
l’Annam; Bulletin administratif du 
Tonkin và ngoài ra còn một tập san khác 
cũng có giá trị t−ơng đ−ơng là Bulletin 
administratif du Nord Vietnam (Bắc 
phần hành chính nguyệt san). Các tập 
san này bao gồm những văn bản quy 
phạm pháp luật, những công bố, quyết 
định, sắc lệnh... về hành chính nhằm 
quản lý, phát triển và khai thác toàn xứ 
Đông D−ơng lúc bấy giờ, phần nào cho 
thấy cách thức quản lý xã hội Việt Nam 
của Chính phủ Pháp và chính quyền 
bảo hộ Đông D−ơng. Đây là nguồn t− 
liệu quý cho các nhà khoa học trong các 
nghiên cứu về lịch sử, t− liệu, quản lý 
xã hội,... 
 Bên cạnh đó, còn phải kể đến những 
ấn phẩm định kỳ liên quan tới các nghiên 
cứu về Đông D−ơng nh− kinh tế, lịch sử, 
văn hóa, khảo cổ, ngôn ngữ, nhân học, 
dân tộc học nh− tập san Bulletin 
économique de l’indochine (Tập san Kinh 
tế Đông D−ơng), Journal Asiatique, Nông 
cổ mín đàn, Chuyên san Giáo dục phổ 
thông cấp I, Văn hóa tùng biên, Việt Nam 
tân báo... Đáng chú ý trong số này là tập 
san Bulletin de l’ecole Francaise 
d’Extrême- Orient (Tập san EFEO). Giá 
trị học thuật của những tập san này đã 
đ−ợc khá nhiều học giả thế giới thừa 
nhận. Nhiều bài nghiên cứu, trao đổi kiến 
thức, khảo cứu của những học giả ng−ời 
Pháp nh− Henri Parmentier, Louis Finot, 
George Coedès... và của các học giả ng−ời 
Việt làm việc tại EFEO lúc bấy giờ nh− 
Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Tố, 
Trần Văn Giáp... đã trở thành những 
viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự 
phát triển của các ngành KHXH sau này 
ở Việt Nam. Thời điểm công bố và xuất 
bản của những bài viết đã mặc nhiên trở 
thành mốc lịch sử quan trọng mở đầu 
cho một ngành khoa học mà sau này 
những ng−ời kế tục vẫn còn phải nhắc 
tới. Ví dụ, bài Note sur l’iconographie de 
Ben Mala của Geogre Coedès về các 
t−ợng thần linh trong các đền thờ Chăm 
đã trở thành một trong những bài 
nghiên cứu tiên phong về văn hóa Chăm. 
Những phát hiện quan trọng trong 
các nghiên cứu về các xứ bản địa Đông 
D−ơng cũng đ−ợc công bố trên các tập 
san của EFEO thời bấy giờ, nh− các 
phát hiện về Thánh địa Mỹ Sơn, Bãi đá 
cổ Sapa, những vấn đề trong ngôn ngữ 
của các tộc ng−ời thiểu số ở Việt Nam. 
Các tập san nghiên cứu về Đông D−ơng 
cũng đăng những bài nghiên cứu, những 
khảo cứu về lịch sử tài chính, khảo cổ, 
khảo cứu về các tộc ng−ời thiểu số ở 
Đông D−ơng, những nghiên cứu về địa 
bạ, tổ chức làng xã ở các xứ nói trên, 
tâm lý ng−ời Đông D−ơng thuộc 5 xứ, 
những khảo cứu về văn hóa nói chung, 
văn hóa phi vật thể, hoạt động truyền 
giáo, tôn giáo mới, tín ng−ỡng dân gian 
đều đ−ợc nghiên cứu t−ơng đối tỉ mỉ và 
Giá trị của ấn phẩm định kỳ... 
43
đăng trên các tập san nói trên. Ví dụ: 
Bài Simple apercu sur l’industrie de la 
soie en Cochinchine của M. Assou trên 
tập san Bulletin de la société des études 
Indo-chinoises de Sai gon năm 1896, 
giới thiệu tổng quát, ngắn gọn về ngành 
dệt lụa tơ tằm ở Đông D−ơng, qua đó 
cho thấy bức tranh toàn cảnh của dệt 
lụa tiểu thủ công nghiệp ở Đông D−ơng 
thời bấy giờ. Các tập san về Đông 
D−ơng thực sự đa dạng và có giá trị 
khoa học và lịch sử đến ngày nay. Các 
ấn phẩm này đ−ợc xuất bản phần lớn ở 
dạng tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Anh 
và cả tiếng Đức. 
- Về nhóm ấn phẩm định kỳ không 
thuộc khu vực Đông D−ơng: đây là những 
dạng ấn phẩm định kỳ thuộc các lĩnh 
vực nghiên cứu trên khắp thế giới phục 
vụ cho các nghiên cứu khoa học và khảo 
cứu ở EFEO. Tuy nhiên giá trị khoa học 
của chúng trong các khoa học chuyên 
ngành và liên ngành vẫn rất quan trọng. 
Ví dụ nh− The Journal of the Royal Asia 
Society of Great Britain and Ireland, 
Journal of the Straits Branch of the Royal 
Asiatic Society (1923- journal of the 
Malayan branch of the Royal Asiatic 
Society; 1946-Journal of the Royal Asiatic 
Society of Bengal), T’oung Pao – Archives 
concernant l’histoire, les langues, la 
géographie, l’ethnographie de l’Asie 
Orientale: China, Japon, Corée, 
Indochine, Asie Centrale et Malaise. 
Những bài viết khoa học trong 
những tạp chí này là của các học giả 
thời đó, thậm chí có cả những bài viết 
nghiên cứu về Đông D−ơng của các học 
giả không thuộc giới khoa học chuyên 
nghiên cứu về Đông D−ơng nh− bài “La 
cour d’Annam” (Tòa án xứ An nam) 
trong tạp chí Annales d’Extrême Orient 
số VII (năm 1887) và VI (năm 1888), 
trang 275-277 của tác giả Bernier A. 
hoặc bài “Un ministre annamite. Le 
régent T−ờng” trên tờ La Nouvelle Revue 
năm 1887, từ trang 508 - 527, của tác 
giả Rheinart P. 
 Những bài nghiên cứu khoa học 
trong các ấn phẩm định kỳ đã cho thấy 
sự liên hệ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp 
đóng góp nào đó tới những nghiên cứu 
khoa học của các nhà nghiên cứu ở 
EFEO. Các bài nghiên cứu nói trên có 
giá trị nghiên cứu liên ngành không chỉ 
với những những nhà khoa học ở EFEO 
mà còn cả những nhà khoa học khác 
trên thế giới cũng nh− ở Việt Nam lúc 
đó. Ngoài ra, một số bài nghiên cứu về 
Đông D−ơng trong khuôn khổ hợp tác 
nghiên cứu khoa học của nhóm các nhà 
khoa học ở EFEO cũng thấy xuất hiện 
trong một vài ấn phẩm nghiên cứu khoa 
học thế giới lúc bấy giờ. 
Vì tuổi đời của tạp chí đã lâu và 
không còn đ−ợc tái bản, do đó hiện nay, 
các tạp chí này đã trở nên rất hiếm và 
độc bản. Không nhiều các th− viện trên 
thế giới còn l−u giữ những tạp chí nói 
trên. Thậm chí việc tìm kiếm các bài viết 
đó cũng vô khả dụng ngay khi ng−ời đọc 
tìm kiếm trên Internet. Giá trị khoa học 
và giá trị độc bản của các ấn phẩm định 
kỳ nói trên đã tạo nên sự quý hiếm cho 
toàn bộ fonds ấn phẩm định kỳ của kho 
EFEO ở Th− viện KHXH. 
3. Một số đề xuất nhằm quảng bá và khai thác 
hiệu quả nhóm ấn phẩm định kỳ của kho EFEO 
Mặc dù fonds ấn phẩm định kỳ của 
kho EFEO có giá trị khoa học và lịch sử 
rất lớn nh−ng vẫn ch−a đ−ợc nhiều độc 
giả, đặc biệt là các nhà khoa học biết 
đến. Vì thế, việc quảng bá rộng rãi 
nhóm tài liệu này tới đông đảo bạn đọc 
là việc làm cần thiết. Th− viện KHXH 
cần tăng c−ờng giới thiệu sâu hơn hoặc 
theo chuyên đề, chủ đề trên các tạp chí 
khoa học, trên website của th− viện,... 
những giá trị nổi bật về khoa học, lịch 
44 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2013 
sử, văn hóa của nhóm ấn phẩm định kỳ. 
Việc quảng bá này sẽ giúp bạn đọc biết 
tới một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. 
Bên cạnh đó, Th− viện KHXH cũng cần 
tổ chức hệ thống dịch vụ giúp ng−ời đọc 
có thể tiếp cận nhanh nhất, dễ dàng 
nhất đến nhóm tài liệu này nh−: hoàn 
thiện CSDL các bài trích tạp chí kho 
EFEO để bạn đọc có thể tra tìm theo 
từng bài, xây dựng dịch vụ hỏi đáp 
thông tin, đặt tìm thông tin qua th− 
điện tử, qua điện thoại. Th− viện KHXH 
cũng cần khẩn tr−ơng đ−a hệ thống 
CSDL lên Internet để có thể giúp độc 
giả tiếp cận với các tài liệu hiện có từ xa 
một cách nhanh chóng, trong đó có các 
bài trích tạp chí thuộc kho EFEO. 
Những việc làm nói trên không chỉ 
giúp cho độc giả có thể tiếp cận tốt nhất 
tới những tạp chí quý hiếm ở Th− viện 
KHXH mà còn tạo nên cách thức quản 
lý cũng nh− khai thác hiệu quả nhóm 
tài liệu này  
Tài liệu tham khảo 
1. Trần Thái Bình, Ngô Thế Long, 
(2009), Th− viện Viễn Đông bác cổ: 
Giai đoạn 1898 - 1957, Nxb. Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
2. Hồ Sĩ Quý, V−ơng Toàn (chủ biên) 
(2011), Th− viện Khoa học xã hội, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
3. Bàn về khái niệm “Tài liệu quí hiếm”. 
ban-ve-khai-niem-tai-lieu-quy-
hiem.html 
4. Năng động là động lực phát triển của 
th− viện,  
thu-vien/nang-dong-la-dong-luc-
phat-trien-cua-thu-vien.html 
(tiếp theo trang 44) 
7. Hội đồng Gia tộc (2009), “Tộc −ớc họ 
Nguyễn Triệu Cơ”. 
8. Hội đồng Nhân dân - ủy ban Nhân 
dân xã Quỳnh Đôi (2002), “Quy −ớc 
của Làng văn hóa Quỳnh Đôi”. 
9. Hošllinger, Franz and Max Haller 
(1990), “Kinship and social 
networks in modern societies: a 
cross-cultural comparison among 
seven nations”, European 
Sociological Review, 6:103-124. 
10. Jellema, Kate (2007), “Everywhere 
Incense Burning: Remembering 
Ancestors in Đổi Mới Vietnam”, 
Journal of Southeast Asian Studies 
38:467-492. 
11. Vũ Ngọc Khánh (1997), “Dòng họ 
Việt Nam từ nguồn gốc đến vận 
mệnh” trong sách Văn hoá các dòng 
họ ở Nghệ An, Nxb. Nghệ An, Nghệ 
An (79-85). 
12. Kleinen, John (1999), Facing the 
Future, Reviving the Past: A Study of 
Social Change in a Northern 
Vietnamese Village, Singapore: 
Institute of Southeast Asian Studies. 
13. Litwak, E. and I. Szelenyi (1969), 
“Primary Group Structures and 
Their Functions - Kin, Neighbors, 
and Friends”, American Sociological 
Review, 34:465-481. 
14. Luong, Hy V (2010), Tradition, 
Revolution, and Market Economy in 
a North Vietnamese Village, 1925-
2006, Honolulu: University of 
Hawai’i Press. 
15. Shorter, Edward (1975), The 
Making of the Modern Family, New 
York: Basic Books. 
16. Phan Hữu Thịnh (2003), Làng 
Quỳnh x−a học hành và khoa cử, 
Nghệ An (Tài liệu ch−a xuất bản). 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_cua_an_pham_dinh_ky_thuoc_tu_lieu_efeo_tai_thu_vien.pdf