Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học

Dựa vào lý thuyết về điển tín của Légal và Morchal, bài viết đặt vấn đề tìm hiểu những biểu hiện của điển tín về giới trong sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học hiện hành ở Việt Nam. Thông qua việc phân tích các biểu hiện liên quan đến vấn đề nhận diện giới và phân biệt giới qua hình thức ngôn ngữ và phi ngôn, bài viết làm rõ sự chi phối của điển tín giới từ phía người soạn sách và ảnh hưởng, tác động của điển tín giới đối với lứa tuổi tiểu học, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và quan niệm về giáo dục giới góp phần tăng cường nhận thức và hành động về bình đẳng giới.

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 1

Trang 1

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 2

Trang 2

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 3

Trang 3

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 4

Trang 4

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 5

Trang 5

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 6

Trang 6

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 7

Trang 7

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 8

Trang 8

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 9

Trang 9

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang Trúc Khang 09/01/2024 3140
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học

Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 
 14
Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học 
Nguyễn Thị Hương* 
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 09 tháng 1 năm 2014 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 3 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 5 năm 2014 
Tóm tắt: Dựa vào lý thuyết về điển tín của Légal và Morchal, bài viết đặt vấn đề tìm hiểu những 
biểu hiện của điển tín về giới trong sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học hiện hành ở Việt Nam. 
Thông qua việc phân tích các biểu hiện liên quan đến vấn đề nhận diện giới và phân biệt giới qua 
hình thức ngôn ngữ và phi ngôn, bài viết làm rõ sự chi phối của điển tín giới từ phía người soạn 
sách và ảnh hưởng, tác động của điển tín giới đối với lứa tuổi tiểu học, trên cơ sở đó đề xuất một 
số giải pháp và quan niệm về giáo dục giới góp phần tăng cường nhận thức và hành động về bình 
đẳng giới. 
Từ khóa: Điển tín, điển tín về giới, giới, bình đẳng giới, sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học. 
1. Đặt vấn đề* 
Giới là sản phẩm của các tương tác văn hóa 
xã hội. Chính cấu trúc văn hóa xã hội đã sản 
sinh ra giới và đến lượt nó, các cá nhân lại điều 
chỉnh cung cách ứng xử của mình sao cho phù 
hợp với khuôn thước giới mà xã hội quy định. 
Trong số các hình thức tương tác văn hóa xã 
hội góp phần hình thành những niềm tin về 
giới, những biểu tượng về giới ở mỗi cá nhân 
thì giáo dục giữ một vai trò quan trọng, nếu 
không muốn nói là quan trọng nhất. Trong hoạt 
động giáo dục ở nhà trường Việt Nam, sách 
giáo khoa là một công cụ dạy-học quan trọng 
của giáo viên và học sinh. 
Sách giáo khoa (SGK), như tên gọi của nó, 
là công cụ để giáo dục. Ngoài nội dung dạy 
_______ 
* ĐT: +84-942992609 
 Email: nguyenhuong9912@gmail.com 
học, SGK còn hướng đến việc giáo dục các kỹ 
năng xã hội cho học sinh (HS). Có thể nói, 
SGK đóng một vai trò đáng kể trong việc xây 
dựng các chuẩn xã hội và hình thành cách nhìn 
về xã hội ở HS. Nội dung của SGK có thể tác 
động mạnh đến trí tưởng tượng và sự nhạy cảm 
của các em. Những hình mẫu mà SGK đưa ra 
có thể ảnh hưởng đến tính cách, thái độ và cách 
nhìn thế giới bên ngoài của các em. Có thể nói, 
SGK có một quyền lực nhất định đối với HSTH 
mà đặc trưng lứa tuổi là tính chưa ổn định về 
tâm lý và tư duy phản biện cũng chỉ đang trong 
quá trình hình thành. Các em có xu hướng cho 
rằng những gì thể hiện trong SGK là sự thật. Sự 
tin tưởng của giáo viên và phụ huynh đối với 
SGK càng củng cố niềm tin ấy ở các em. Chính 
vì vậy, bất cứ nội dung nào khi đưa vào SGK 
đều phải được cân nhắc thận trọng. Qua khảo 
sát, chúng tôi nhận thấy là trong SGK tiểu học 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 15
hiện hành ở Việt Nam còn tồn tại khá rõ điển 
tín về giới, đặc biệt là sự bất bình đẳng giữa 
nam và nữ. SGK cũng đưa ra một số bài học về 
việc chống lại sự bất bình đẳng nam nữ nhưng 
chính ngay trong những bài học này đã thể hiện 
một quan niệm về giới, một lối tư duy về vấn đề 
giới hãy còn đơn giản, chưa đi vào được những 
cung bậc tinh vi và lắt léo của nó. Điều này có 
thể gây những hậu quả tiêu cực đối với các em 
với tư cách là những công dân tương lai. Trong 
bài viết này, sau khi làm rõ khái niệm điển tín 
và điển tín về giới, chúng tôi tiến hành phân 
tích những biểu hiện dễ nhận thấy và những 
biểu hiện tinh vi của điển tín giới trong SGK 
Tiếng Việt (TV) tiểu học, đặc biệt chú trọng 
vào SGK TV1 và TV 5, trên cơ sở đó đề xuất 
một số giải pháp và quan niệm về giáo dục giới 
cho HSTH. Khung cơ sở lý luận của bài viết 
nằm trong khuôn khổ của những công trình 
nghiên cứu về điển tín của Légal [1] và 
Morchal [2]. 
2. Một số tiền đề lý luận 
2.1. Điển tín 
Từ góc độ tâm lý học xã hội và xã hội học, 
điển tín1 (tiếng Anh: stereotype, tiếng Pháp: 
stéréotype) là những niềm tin, biểu tượng tinh 
thần có thể đúng hoặc sai hợp thành những hiểu 
_______ 
1 Một số người dùng định kiến, thiên kiến để dịch 
stereotype/stéréotype nhưng theo chúng tôi, định kiến, 
thiên kiến thiên về nghĩa tiêu cực trong khi đó 
stereotype/stéréotype mang tính trung lập, có thể đúng 
hoặc sai, có thể tích cực hoặc tiêu cực. Có người dịch là 
hình ảnh nhưng chúng tôi thấy từ này quá chung chung, 
lại chưa nêu bật được tính chất cố định, bám rễ sâu trong 
nhận thức con người của khái niệm stereotype/stéréotype. 
Cũng có người dịch là khuôn mẫu nhưng chúng tôi thấy từ 
này dù đã chuyển đạt được tính chất cố định, cứng nhắc 
của stereotype/stéréotype nhưng chưa chuyển đạt được ý 
niềm tin và quan niệm – một nội dung quan trọng trong 
nội hàm của khái niệm xét từ góc độ tâm lý học xã hội và 
xã hội học. 
biết của chúng ta mà chúng ta dựa vào đó để 
phân loại, đánh giá bản thân hoặc người 
khác/nhóm người khác. Đây là những niềm tin, 
biểu tượng mang tính tập thể, được các cá nhân 
trong cùng một cộng đồng người ...  chương trình dạy về bình đẳng giới 
nhưng chính ở đây, quan niệm đơn giản và đôi 
khi không chính xác về vấn đề phân biệt giới 
của các soạn giả lại càng bộc lộ. Trong TV5, tập 
2 có chủ điểm “Nam và nữ”, chủ điểm này 
được củng cố, tăng cường trong sách Đạo đức 5 
với bài học “Tôn trọng phụ nữ” và trong sách 
Khoa học 5 với chủ đề “Con người và sức 
khỏe”. Trong TV5, tập 2, bài tập đọc mở đầu 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 
24 
cho chủ điểm vừa nêu là trích đoạn “Một vụ 
đắm tàu”. Tình huống câu chuyện, tính cách 
nhân vật phù hợp với điển tín về giới. Nam thì 
mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết, dũng cảm, là 
người giải quyết và đưa ra quyết định cuối cùng 
và sẵn sàng nhận mọi hậu quả của quyết định 
của mình. Nữ thì dịu dàng, yếu đuối, thụ động 
trong các tình huống khó khăn, là người thụ 
hưởng từ quyết định của nam giới. Như vậy, có 
thể nói, sự lựa chọn đoạn trích của các soạn giả 
SGK cũng đã chịu ảnh hưởng của điển tín giới. 
Cũng nằm trong chủ điểm này, bài tập đọc 
“Thuần phục sư tử” trích từ “Truyện dân gian 
A-rập” dùng ẩn dụ thuần phục sư tử để chỉ bí 
quyết thuần phục chồng. Theo đánh giá của 
chúng tôi, đoạn trích này là một minh họa phản 
sư phạm cho chủ đề bình đẳng nam nữ. Thứ 
nhất, trích đoạn được lấy từ truyện cổ Ả-rập mà 
các nước Ả-rập là nơi có thể nói mức độ bình 
đẳng nam nữ thấp nhất thế giới. Thứ hai, nội 
dung đoạn trích đề cập đến vấn đề phụ nữ phải 
quyến rũ đàn ông. Câu hỏi đặt ra là tại sao phụ 
nữ phải có nhiệm vụ quyến rũ đàn ông? Tại sao 
lại đẩy trách nhiệm giữ hạnh phúc gia đình cho 
một mình người phụ nữ ? Sự quyến rũ ở đây 
thực chất là một sự cống nạp, cống nạp càng 
nhiều thì khả năng chinh phục người được cống 
nạp càng cao. Sự cống nạp bao giờ cũng sinh ra 
từ một quan hệ bất bình đẳng trong đó có kẻ 
trên, người dưới. Vậy thì tại sao đàn ông lại 
được cho là đứng trên phụ nữ, phụ nữ phải phục 
vụ đàn ông? Chỉ một câu chuyện này có thể 
không gây hại nhiều đến việc xây dựng các biểu 
tượng tinh thần về giới ở HSTH nhưng nằm 
trong hệ thống chung từ lớp 1 đến lớp 5, lại 
được củng cố qua những cảnh sinh hoạt hàng 
ngày, chắc chắn sẽ hình thành và duy trì ở các 
em những điển tín sai lầm về giới và không có 
lợi cho sự phát triển tinh thần của các em. Cũng 
trong bài học này, mục kiểm tra mức độ hiểu 
bài có câu hỏi: “Theo vị giáo sĩ, điều gì làm nên 
sức mạnh của người phụ nữ?”. Đây chính là 
biểu hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới, ca 
tụng thiên tính nữ để dễ bề thống trị. 
Trong sách Khoa học 5, quan niệm bình 
đẳng giới của SGK tỏ ra có phần đơn giản qua 
việc dùng ảnh minh họa chụp đội tuyển bóng đá 
nữ Việt Nam đang đá bóng. Theo chúng tôi, 
bình đẳng không có nghĩa là anh hút thuốc, tôi 
cũng hút thuốc, anh mặc quần đùi, tôi cũng mặc 
quần đùi. Tóm lại, bình đẳng không có nghĩa là 
cào bằng, không đồng nghĩa với giống nhau. 
Cũng trong sách này, phần “Trò chơi bài tập” 
có bài tập yêu cầu xếp phiếu đúng ô trong thời 
gian nhanh nhất. Các tấm phiếu là các đặc điểm 
về giới tính và giới còn các ô là: nam, nữ, cả 
nam và nữ. Dạng bài tập này là một hình thức 
kích hoạt điển tín giới một cách nhanh và hiệu 
quả nhất. Qua những tấm phiếu có thể thấy 
được ý đồ của các soạn giả SGK trong việc 
phân biệt giới về đặc điểm sinh học, tính cách, 
vai trò trong gia đình, vị trí xã hội của nam và 
nữ. Việc phân định giới tuyến nam nữ một cách 
rõ ràng như vậy càng củng cố thêm điển tín về 
phân biệt giới. 
4. Một số khuyến nghị 
Việc thay đổi một điển tín, nhất là điển tín 
về giới không thể diễn ra một sớm một chiều 
mà đó là cả một hành trình lâu dài và hành trình 
đó có thể phải đối đầu với rất nhiều chướng 
ngại vật. Một trong những chướng ngại vật đầu 
tiên là sự thiếu nhạy cảm nếu không muốn nói 
là sự vô cảm, thờ ơ của giáo viên và phụ huynh 
về vấn đề này. Chúng tôi đã tiến hành một số 
cuộc phỏng vấn giáo viên và phụ huynh học 
sinh về vấn đề phân biệt giới trong SGK tiểu 
học. Kết quả là hơn 75% số người được hỏi 
hoặc không bao giờ đặt vấn đề về sự tồn tại của 
vấn đề bình đẳng giới trong SGK hoặc cho rằng 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 25
những biểu hiện phân biệt giới phản ánh chân 
thực thực tế xã hội nên không thể coi đó là bất 
bình đẳng giới. Chỉ có gần 25% số người được 
hỏi nhận thức được tầm quan trọng của việc xử 
lý vấn đề giới trong SGK đối với việc phát triển 
nhân cách và định hướng nghề nghiệp tương lai 
của học sinh. Chính vì điển tín giới đã thấm sâu 
vào não trạng của chúng ta, trở thành một thứ 
tâm thức tập thể, quy định những hành vi xã hội 
của chúng ta nên sự tồn tại của điển tín giới 
trong SGK là điều dễ hiểu và không tránh khỏi. 
Tâm lý coi nam giới là trung tâm ăn sâu vào trí 
não chúng ta đến nỗi chúng ta thấy điều đó là tự 
nhiên, phải như thế và nếu khác đi chúng ta 
thấy có cái gì không thuận, không phải đạo. Các 
thể chế xã hội như gia đình, nhà trường...đã 
không ngừng vun đắp cho sự phân biệt giới để 
biến một ý đồ mang mục đích xã hội thành một 
điều tự nhiên đến nỗi ai cũng phải hành xử theo 
hướng đấy mà nếu đi chệch khỏi quỹ đạo này 
thì sẽ trở thành kẻ lạc loài [8]. Sự thống trị của 
nam giới trở nên hợp pháp vì có sự đồng tình 
của xã hội và sự đồng lõa của chính bản thân 
người phụ nữ. 
Một trở ngại thứ hai là tính bảo thủ của 
chúng ta trước những thay đổi. Đại đa số chúng 
ta cho rằng mô hình gia đình truyền thống trong 
đó người phụ nữ đảm nhiệm việc chăm sóc con 
cái, nhà cửa còn người đàn ông là trụ cột kinh 
tế khiến trẻ em cảm thấy an toàn hơn, yên tâm 
hơn nên không cần và không nên thay đổi. 
Chướng ngại vật cuối cùng là quan niệm 
cho rằng vấn đề bình đẳng giới chỉ liên quan 
đến người phụ nữ và chỉ riêng phụ nữ được 
hưởng lợi khi các hành động về bình đẳng giới 
được thực hiện. 
Như vậy, điều quan trọng là xác định quan 
niệm về bình đẳng giới. Theo chúng tôi, bình 
đẳng có nghĩa là sự ngang bằng về giá trị, là sự 
ngang bằng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền 
lợi, là sự ngang bằng về cơ hội. Bình đẳng còn 
có nghĩa là tôn trọng, tôn trọng chính mình và 
người khác ở tư cách con người, nói cách khác 
đó là tôn trọng sự khác biệt bởi trên thực tế 
chúng ta không có bề ngoài giống nhau và cũng 
không thể suy nghĩ giống nhau nên không thể 
bắt ép người khác phải giống mình và cũng 
không cố ép mình cho vừa vặn với người khác. 
Điều này dẫn đến một sự thật giản dị là một 
người đàn bà tốt có giá trị như một người đàn 
ông tốt, một người đàn bà thông minh có giá trị 
như một người đàn ông thông minh. Đàn bà và 
đàn ông có cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh 
vực của đời sống gia đình và xã hội, quyền thụ 
hưởng của đàn bà và đàn ông không bị quy định 
bởi họ là đàn ông hay đàn bà mà dựa vào năng 
lực cũng như những gì họ đóng góp cho công 
việc [9]. Do vậy, mục đích của việc thực hiện 
bình đẳng giới không phải là để phụ nữ cũng 
được hành xử giống như đàn ông, cũng được 
giữ những cương vị quan trọng như đàn ông. 
Đấu tranh đòi bình đẳng giới là đấu tranh để 
phụ nữ có thể tham gia một cách tích cực vào 
những việc có ích cho xã hội, tham gia vào sự 
tiến bộ xã hội và áp đặt sự tham gia đó bằng 
khả năng của mình. 
Như vậy, có thể nói, giáo dục bình đẳng 
giới trong nhà trường là cánh cửa đầu tiên của 
việc thực hiện bình đẳng giới mang ý nghĩa xã 
hội. Là công cụ giáo dục quan trọng, SGK cũng 
đồng thời phải là công cụ của sự biến đổi xã 
hội. Để SGK có thể thực hiện tốt chức năng 
này, chúng tôi đề xuất cần phải tiến hành đồng 
bộ các biện pháp sau đây: 
- Vấn đề nội dung chương trình SGK 
Trong chương trình SGK, cần phải dành 
cho người phụ nữ một vị trí xứng đáng trong tất 
cả các lĩnh vực, bối cảnh chứ không chỉ để họ 
xuất hiện một cách tập trung trong một chương 
riêng về nam và nữ như trong chương trình hiện 
hành. Cần phải để cho người phụ nữ xuất hiện 
trong những lĩnh vực, bối cảnh xã hội đa dạng 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 
26 
chứ không chỉ khuôn vào trong môi trường gia 
đình. Ngay cả trong những lĩnh vực nam giới 
chiếm đa số vẫn cần có đại diện của phụ nữ vì 
sự xuất hiện của phụ nữ dù ít ỏi nhưng cũng có 
khả năng định hướng nhận thức và hành động 
cho HS nam và HS nữ ở chỗ HS nam chấp nhận 
vị trí của người phụ nữ trong lĩnh vực này còn 
HS nữ có niềm tin vào khả năng thâm nhập của 
mình vào lĩnh vực được cho là dành riêng cho 
phái nam. Nói như thế không có nghĩa là SGK 
phải soán vị hoàn toàn giới nam và giới nữ: 
nam thì phải ở trong bếp còn nữ thì trên công 
trường mà điều quan trọng là để cho nam và nữ 
xuất hiện một cách không phân biệt trong tất cả 
các tình huống và hoàn cảnh. Điều này có tác 
dụng làm cho vấn đề nhận diện giới về mặt xã 
hội trở nên rõ ràng, hiển lộ, và đó chính là cơ 
hội để trao cho HS cả nam và nữ những khả 
năng giống nhau trong việc nhận diện giới và tự 
nhận diện bản thân. Trước khi thay SGK mới sau 
năm 2015, nên có một dự án nghiên cứu một cách 
đồng bộ vấn đề giới trong SGK của tất cả các môn 
học từ lớp 1 đến lớp 12. 
- Vấn đề đào tạo giáo viên 
Trong các trường đại học, cao đẳng, trung 
cấp sư phạm, nên có một môn học về giới hoặc 
lồng ghép vấn đề giáo dục giới vào những môn 
học liên quan gần. Các Sở Giáo dục nên tổ chức 
những buổi học chuyên đề về vấn đề giới trong 
SGK để giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn 
về vấn đề bình đẳng giới và có ý thức phát hiện 
những biểu hiện phân biệt giới trong SGK. 
- Vấn đề luật hóa sự phân biệt giới trong 
SGK 
Việt Nam đã có một số quy định trong luật 
pháp về chính sách bình đẳng giới (Hiến pháp, 
Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Lao động, Luật Khoa 
học Công nghệ, Luật Giáo dục và Luật Bình 
đẳng giới). Trong các luật này, Nhà nước nhấn 
mạnh nam nữ có quyền bình đẳng trong mọi cơ 
hội phát triển và thụ hưởng. Các luật này nêu 
các nguyên lý chung về vấn đề nam nữ bình 
quyền và các quy định gắn với từng phạm vi cụ 
thể như lao động, khoa học công nghệ. Trong 
Luật giáo dục 2005 [10]), vấn đề bình đẳng giới 
được nêu trong điều 10 chỉ là một yếu tố nằm 
trong một loạt những vấn đề bình đẳng khác 
như: dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng... Do tầm 
quan trọng của giáo dục trong việc hình thành 
nhân cách, rèn luyện đạo đức, xây dựng ý thức 
công dân ở HS [11] và vai trò của việc tăng 
cường bình đẳng giới đối với sự phát triển mọi 
mặt của xã hội, chúng tôi đề xuất trong Luật 
Giáo dục cần thêm một điều khoản hoặc ghép 
vào điều khoản 20 về việc loại trừ mọi điển tín 
tiêu cực về vai trò của nam và nữ ở mọi cấp học 
và mọi hình thức, phương tiện giáo dục. 
5. Kết luận 
Kết quả phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng 
hình ảnh nam giới và nữ giới được thể hiện và 
giới thiệu trong SGK chịu ảnh hưởng rất rõ của 
điển tín về giới tồn tại trong xã hội, theo đó 
nam giới vẫn nắm gần như mọi lợi thế liên quan 
đến cơ hội phát triển và quyền thụ hưởng trong 
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nam 
giới được khắc họa như là động lực của sự phát 
triển xã hội, là chủ thể của lịch sử còn nữ giới 
bị khuôn vào vai trò làm vợ, làm mẹ và làm hài 
lòng người khác bằng sắc đẹp và thiên tính nữ 
của mình. Cách trình bày của SGK có thể gây 
những hậu quả xấu đối với HSTH. Do đặc điểm 
tâm sinh lý lứa tuổi, các em có thể dễ dàng 
đồng hóa những biểu tượng về giới, xem đó 
như những khuôn thước về giới, lâu dần thâm 
nhiễm vào các em và sẽ định hướng cách hành 
xử liên quan đến giới của các em sau này. Vì 
vậy, cần phải có những động thái tích cực để cải 
thiện tình trạng phân biệt giới và ngăn không 
cho nó tồn tại dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ 
khác. Trong bài viết này, chúng tôi mạnh dạn 
nêu ra một số khuyến nghị về nội dung chương 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 27
trình sách SGK, về vấn đề đào tạo giáo viên và 
luật hóa vấn đề phân biệt giới trong SGK. 
Chúng tôi hy vọng góp một tiếng nói nhỏ trong 
việc nâng cao chất lượng SGK bởi sau năm 
2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương 
thay mới SGK. Chúng tôi cũng ý thức được 
rằng những phân tích thực trạng và khuyến nghị 
của chúng tôi sẽ đầy đủ và thuyết phục hơn nếu 
bên cạnh việc phân tích cấu trúc, nội dung và 
hình thức SGK, chúng tôi tiến hành thêm các 
cuộc điều tra, phỏng vấn trên các đối tượng 
giáo viên, học sinh và những nhà quản lý giáo 
dục. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết, chúng 
tôi có thể chắc chắn rằng điều đó không ảnh 
hưởng đến kết quả nghiên cứu của chúng tôi. 
Tài liệu tham khảo 
[1] J-B. Legal, Effets non conscients des stéréotypes 
sur les comportements et les performances, 2005, 
www.psychologie-sociale.org. (7/10/2013). 
[2] F. Morchain, Stéréotypes, Stéréotypisation et 
Valeurs, 2005, www.psychologie-sociale.org. 
(7/10/2013). 
[3] A. Chemin, Mauvais genre, Le Mensuel, n° 22, 
pp.82-86, 2011. 
[4] Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, NXB 
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012. 
[5] C. Brugelles & S. Cromer, Analyser les 
représentations du masculin et du féminin dans les 
manuels scolaires, Les collections du CEPED, 
INED, Paris, 2005. 
[6] G. Le Bon, Tâm lý học đám đông (Nguyễn Xuân 
Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nhà 
XB Tri thức, Hà Nội, 2006. 
[7] S. Rignault & P. Richert, La représentation des 
hommes et des femmes dans les livres scolaires, 
Rapport au Premier Ministre, La documentation 
française, Paris, 1997. 
[8] P. Bourdieu, Sự thống trị của nam giới (Lê Hồng 
Sâm dịch), NXB Tri thức, Hà Nội, 2010. 
[9] Báo cáo phát triển thế giới: «Bình đẳng giới và 
phát triển», Ngân hàng thế giới, 2012. 
[10] Luật Giáo dục, 2005. 
[11] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi 
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, 2013.
Gender Stereotypes as Reflected in Vietnamese Language 
Textbooks for Primary School Students 
Nguyễn Thị Hương 
VNU University of Languages and International Studies, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Based on the stereotyping theories by Légal and Morchal, the paper deals with the 
findings of gender stereotypes that are reflected in the current in-use Vietnamese language textbooks 
for the primary schools across Vietnam. Through the analysis of the manifestations relating to the 
gender identification and gender differentiation in the verbal and non-verbal form, the paper makes 
clear the governing of gender stereotypes on the part of the textbook compilers and the influence and 
impact of the gender stereotypes on the primary school age and on that basis, it is to propose a number 
of solutions and concepts on gender education, making a contribution to enhancing the awareness and 
actions in terms of gender equality. 
Keywords: Stereotypes, gender stereotypes, gender, gender equality, Vietnamese language 
textbook for primary school students. 

File đính kèm:

  • pdfdien_tin_ve_gioi_trong_sach_giao_khoa_tieng_viet_tieu_hoc.pdf