Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam

Quản trị tri thức số: “Là quản trị tri thức nổi được thể hiện ở dạng

số: sách số, báo số, văn bản số, âm thanh số, video số, các loại hình

dữ liệu - thông tin đa phương tiện Multimedia Việc quản trị này

được thực hiện với mục đích phục vụ cho quốc gia, chính phủ, doanh

nghiệp, giáo dục, thư viện, xã hội, cá nhân và ở mọi loại hình (dữ liệu

số, thông tin số, tri thức số)” (Nguyễn Hoàng Sơn, 2019).

Theo lý thuyết của quản trị tri thức, quản trị tri thức cũng như

quản trị tri thức số phát triển các hệ thống và các quá trình nhằm mục

đích bổ sung và chia sẻ các tài sản trí tuệ. Nó làm tăng giá trị của các

thông tin hữu ích, năng động và có ý nghĩa. Thêm vào đó, nó làm tối

đa hóa giá trị nền tảng trí tuệ của một tổ chức thông qua nhiều chức

năng khác nhau (Rigby, 2009). Mà các chức năng cơ bản đó của quản

trị tri thức bao gồm: “Sản sinh ra tri thức mới, truy nhập tới các thông

tin có giá trị từ các nguồn bên ngoài, sử dụng các tri thức có thể tiếp

cận được trong việc ra quyết định, gắn tri thức vào các quá trình, sản

phẩm và/ hoặc dịch vụ, thể hiện thông tin trong các tài liệu, cơ sở dữ

liệu và trong các phần mềm, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

của tri thức thông qua văn hóa và sự khích lệ, truyền tri thức vào trong

từng bộ phận của tổ chức, định giá trị tài sản tri thức và tác động của tri

thức” (Ruggles và Holtshouse, 1999).

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang baonam 10220
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam

Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
 Đào Mạnh Hiếu*1 - Trần Xuân Bản**
Tóm tắt: Bài viết Đề cập đến các khái niệm liên quan đến quản trị 
tri thức số và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới 
trong chu trình quản trị tri thức số. Phân tích các yếu tố có tác động 
tích cực và tiêu cực tới vấn đề đạo văn và kiểm soát đạo văn trong 
môi trường tri thức số. Đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả 
công tác kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số tại Việt Nam.
Từ khóa: Quản trị tri thức; Tri thức số; Đạo văn; Việt Nam.
1. KHÁI NIỆM QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ, CHU TRÌNH QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ 
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NGUỒN TRI THỨC ĐƯỢC TẠO MỚI
1.1. Khái niệm "quản trị tri thức số"
Quản trị tri thức số: “Là quản trị tri thức nổi được thể hiện ở dạng 
số: sách số, báo số, văn bản số, âm thanh số, video số, các loại hình 
dữ liệu - thông tin đa phương tiện Multimedia Việc quản trị này 
được thực hiện với mục đích phục vụ cho quốc gia, chính phủ, doanh 
nghiệp, giáo dục, thư viện, xã hội, cá nhân và ở mọi loại hình (dữ liệu 
số, thông tin số, tri thức số)” (Nguyễn Hoàng Sơn, 2019).
Theo lý thuyết của quản trị tri thức, quản trị tri thức cũng như 
quản trị tri thức số phát triển các hệ thống và các quá trình nhằm mục 
đích bổ sung và chia sẻ các tài sản trí tuệ. Nó làm tăng giá trị của các 
* Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 
** Thạc sĩ, Thư viện – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
239
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
thông tin hữu ích, năng động và có ý nghĩa. Thêm vào đó, nó làm tối 
đa hóa giá trị nền tảng trí tuệ của một tổ chức thông qua nhiều chức 
năng khác nhau (Rigby, 2009). Mà các chức năng cơ bản đó của quản 
trị tri thức bao gồm: “Sản sinh ra tri thức mới, truy nhập tới các thông 
tin có giá trị từ các nguồn bên ngoài, sử dụng các tri thức có thể tiếp 
cận được trong việc ra quyết định, gắn tri thức vào các quá trình, sản 
phẩm và/ hoặc dịch vụ, thể hiện thông tin trong các tài liệu, cơ sở dữ 
liệu và trong các phần mềm, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển 
của tri thức thông qua văn hóa và sự khích lệ, truyền tri thức vào trong 
từng bộ phận của tổ chức, định giá trị tài sản tri thức và tác động của tri 
thức” (Ruggles và Holtshouse, 1999).
1.2. Chu trình quản trị tri thức và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới
Trên cơ sở nghiên cứu, xác định các chức năng cơ bản của quản trị 
tri thức, nhiều nhà khoa học đã xây dựng chu trình của quản trị tri thức 
bao gồm các quá trình khác nhau như chu trình quản trị tri thức của 
Zack, Meyer, Williams, Bukowitz, McElroy, Wigg,... trong đó chu trình 
quản trị tri thức của Wigg được bàn đến nhiều nhất.
Chu trình quản trị tri thức của Wigg (Dalkir, 2013)
Theo chu trình của Wigg, quản trị tri thức bao gồm các quá trình: Xây 
dựng/ tạo ra tri thức, nắm bắt tri thức, tập hợp tri thức và sử dụng tri thức.
240
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Đối với quá trình đầu tiên của chu trình tri thức, ta có thể nhận 
thấy rằng việc tạo ra, sản sinh ra tri thức có sự tham gia của các cá nhân, 
nhiều tổ chức khác nhau như cơ quan về giáo dục, khoa học, xuất bản, 
doanh nghiệp, và đây là khâu quan trọng bởi nó là khâu tạo yếu tố 
đầu vào và chất lượng của nguồn tri thức quyết định đến hiệu quả hoạt 
động của cả chu trình.
Vì vậy, kiểm soát chất lượng của nguồn tri thức mới được sản sinh 
cũng là một nhiệm vụ quan trọng được đặt ra đối với các nhà quản trị 
tri thức, quản trị tri thức số.
Xem xét về tính khoa học, tính đúng đắn của nguồn tri thức được 
tạo ra, đây là nhiệm vụ đã được giải quyết, được nghiên cứu rất nhiều 
bởi các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Trong nội dung của bài viết 
này, chúng tôi xin được bàn đến một khía cạnh khác trong quản lý chất 
lượng của nguồn tri thức đó là kiểm soát đạo văn.
Đạo văn là một hiện tượng phổ biến và là một vấn nạn đặc biệt 
nghiêm trọng đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục và 
đào tạo. Trên thế giới, đạo văn bị các nhà khoa học kịch liệt phê phán 
bởi nó thể hiện tính không trung thực, không liên minh trong nghiên 
cứu. Trong quản trị tri thức và đặc biệt là quản trị tri thức số, kiểm soát 
đạo văn cũng là một vấn đề được bàn nhiều trong những năm gần đây 
bởi một nguồn tri thức mang tính khoa học, tính đúng đắn mà vi phạm 
lỗi đạo văn thì cũng trở thành vô giá trị.
2. KHÁI NIỆM ĐẠO VĂN
2.1. Khái niệm "đạo văn"
Đạo văn là gì?
Khái niệm "đạo văn" được nhiều nhà khoa học bàn luận và đưa 
ra định nghĩa theo các quan điểm khác nhau. Theo Bách khoa thư 
Britannica: “Đạo văn là hành động lấy các tác phẩm của người khác 
và chuyển chúng thành một bản như là của riêng mình. Hành vi gian 
lận đó có liên quan chặt chẽ đến các hành vi giả mạo và vi phạm bản 
quyền, nói chung là vi phạm luật bản quyền”. Sox (2012) cho rằng: 
241
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
“Hành động đạo văn liên quan đến việc đánh cắp tác phẩm của người 
khác và sau đ ... ờng hợp xâm phạm bản quyền trong lĩnh vực khoa 
243
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
học, giáo dục những năm gần đây, các đoạn văn bản bị đạo văn có thể 
hoàn toàn tìm thấy trên mạng Internet”.
Mức độ vi phạm lỗi đạo văn thô bạo nhất phải kể đến là đạo 
văn kiểu “copy-paste” (sao chép-dán) và mức độ vi phạm này khá 
phổ biến đối với đối tượng là học sinh, sinh viên với việc thực hiện 
các bài tập lớn, bài luận, Một nghiên cứu của DeBell và Chapman 
(2001) đã chỉ ra rằng, có đến 72% sinh viên sử dụng mạng Internet 
cho việc làm bài tập. Thực tế là sinh viên thiếu các kiến thức cơ bản 
về các phương pháp tìm kiếm của thư viện. Việc sử dụng các công 
cụ truyền thống của thư viện đã bị chối bỏ do các máy tìm tin tựa 
Web, như Google. Việc sử dụng các máy tìm tin này giúp sinh viên 
có thể tiếp cận tới hàng triệu các nguồn thông tin cần thiết chỉ với 
một cái cái “click” chuột.
Một đặc trưng cơ bản của thông tin số, tri thức số đó là khả năng 
truy nhập, thông tin có thể bị biến đổi, hoặc sao chép dễ dàng, chính vì 
vậy nạn đạo văn dạng “copy-paste” cũng trở nên khá phổ biến. Theo 
một nghiên cứu của Sisti (2007), có 35% sinh viên khẳng định rằng có 
vi phạm lỗi đạo văn dạng này, có nghĩa là họ sao chép nguyên cả đoạn 
văn bản rồi dán vào trong bài tập của mình mà không đưa ra các thông 
tin và nguồn được trích dẫn.
Một dạng đạo văn khác ở mức ít thô bạo hơn nhưng cũng là 
việc làm đáng lên án trong nghiên cứu khoa học, đó là đạo văn ý 
tưởng. Theo Helgesson và Eriksson (2014), nếu một ai đó sử dụng 
ý tưởng của người khác và thể hiện rằng đó là ý tưởng của mình 
thì người đó đã vi phạm lỗi đạo văn. Loại đạo văn này thường khó 
phát hiện hơn do không phải lúc nào ý tưởng cũng được thể hiện ở 
dạng văn bản.
Trong môi trường tri thức số, loại đạo văn này cũng trở nên phổ 
biến hơn bởi mỗi cá nhân có thể tiếp cận tới các nguồn tin, tham khảo 
một cách nhanh chóng và lấy cắp ý tưởng của người khác một cách dễ 
dàng rồi sau đó trình bày bằng văn phong của mình, biến ý tưởng đã 
lấy cắp thành ý tưởng của mình.
244
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
3.2. Cơ hội của các nhà quản lý trong việc kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số
Đối với quản trị tri thức truyền thống, việc phát hiện đạo văn trở 
thành một vấn đề khó khăn bởi những giới hạn về không gian và thời 
gian trong việc chia sẻ, lưu trữ và truy nhập thông tin. Có những trường 
hợp kiện tụng liên quan đến đạo văn chỉ được đề cập đến sau một 
khoảng thời gian dài khi các tác phẩm được công bố. Tuy nhiên, với tri 
thức số, vấn đề này lại được giải quyết một cách dễ dàng. Với khả năng 
chia sẻ nhanh chóng, không bị giới hạn bởi không gian địa lý, thông qua 
mạng Internet, tri thức mới được sản sinh có thể được tiếp cận ngay lập 
tức sau khi công bố, bởi số lượng lớn các thành viên trong cộng đồng. Từ 
đó thông tin được tái sử dụng đồng thời cũng được phản biện và từ đó 
các trường hợp vi phạm lỗi đạo văn có thể được phát hiện.
Đối với vấn đề này, các nguồn thông tin truy cập mở đóng một 
vai trò hết sức quan trọng. Các nguồn này được phổ biến trên mạng 
Internet, được truy cập thông qua các máy tìm tin (Search Engines), từ 
đó ai cũng có thể đọc được và phát hiện ra các việc đạo văn.
Ở mức độ cao hơn, chuyên nghiệp hơn, môi trường tri thức số 
giúp các nhà quản lý có thể phát triển các hệ thống chống đạo văn với 
phương thức kiểm tra trùng lặp một cách tự động đem lại hiệu quả cao, 
chính xác và nhanh chóng. Các phần mềm chống đạo văn này được 
Purdy (2005) giải thích rằng: “Đó là các dịch vụ phát hiện đạo văn dựa 
trên mạng Internet cho phép người hướng dẫn (giáo viên) tìm ra các 
bằng chứng trực quan để kiểm tra bài viết của sinh viên, xác định xem 
nó có bao gồm các đoạn văn được sao chép trực tiếp từ các nguồn khác 
hay không”. Hệ thống phát hiện đạo văn hoạt động trên cơ sở đối 
chiếu tài liệu đang cần được xem xét với các nguồn dữ liệu đối chiếu 
nội bộ (bao gồm các dữ liệu được các đơn vị sử dụng tải lên hệ thống, 
các nguồn mua từ các xuất bản) và các nguồn truy cập mở khác mà có 
thể tìm và khai thác được thông qua các máy tìm tin. Như vậy có thể 
thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chống đạo văn ngoài việc phụ 
thuộc vào tính năng, khả năng tùy biến của phần mềm thì nguồn dữ 
liệu đối chiếu là yếu tố hết sức quan trọng. Bên cạnh quy mô của nguồn 
dữ liệu đối chiếu nội bộ là sự gia tăng của các các nguồn truy cập mở.
245
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phần mềm chống đạo văn khác 
nhau được các nhà xuất bản, các công ty phần mềm, các đơn vị đào tạo, 
đơn vị nghiên cứu khoa học phát triển. Ngoài tính năng kiểm tra trùng 
lặp, phát hiện đạo văn, các phần mềm này có thể được phát triển kèm 
theo các tính năng phụ khác như kiểm tra ngữ pháp, đánh giá, cho điểm 
bài luận, tạo lớp ảo, Các phần mềm này có thể mang tính thương mại 
hoặc sử dụng miễn phí. Các phần mềm được sử dụng nhiều phải kể 
đến như các hệ thống kiểm tra tiếng Anh: Turnitin, WordCheck, EVE2, 
WcopyFind hoặc các hệ thống kiểm tra ngôn ngữ Slavơ: AdvegoPlagitus, 
Double Conten Finder, Praide Unique Content Analyser 2.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, một số trường đại học 
đã có nhiều nỗ lực phát triển các phần mềm chống đạo văn cho riêng 
mình hoặc với tham vọng phát triển một hệ thống đạo văn mang 
thương hiệu Việt, dùng chung cho việc kiểm soát đạo văn đối với các 
sản phẩm học thuật tại Việt Nam như: hệ thống phát hiện đạo văn của 
Đại học Cần Thơ (2014), phần mềm chống đạo văn của Đại học Quốc 
gia Hà Nội, DoIT (2016), hệ thống phát hiện đạo văn CopyChecker 
(2018) của Đại học Bách khoa Hà Nội. Một số trường mua các phần 
mềm của nước ngoài trong đó sử dụng nhiều là Turnitin và Ithenticate.
Dù là phần mềm nước ngoài hay phần mềm nội địa, các phần 
mềm chống đạo văn đã thực sự mang lại những hiệu quả rõ rệt trong 
việc kiểm soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật, các tri thức mới 
được sản sinh trong môi trường tri thức số ở Việt Nam.
4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ 
TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
4.1. Phát triển các hệ thống chống đạo văn trong môi trường tri thức số ở Việt Nam
Như đã bàn ở trên, phương pháp kiểm soát đạo văn được các 
trường hướng tới đó là: tự phát triển các hệ thống kiểm tra đạo văn và 
sử dụng các phần mềm chống đạo văn mang tính thương mại.
Với hướng thứ nhất, các trường đã phát triển được những phần 
mềm với những tính năng cơ bản nhất giúp giải quyết nhiệm vụ kiểm 
246
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật sản sinh ra từ hoạt động 
đào tạo và nghiên cứu khoa học của đơn vị mình. Tuy nhiên, vì “đi một 
mình” nên các phần mềm đó vẫn còn những hạn chế, đặc biệt là nguồn 
dữ liệu đối chiếu nội bộ ít ỏi, chưa đối chiếu được với các nguồn nội 
sinh của các đơn vị khác cũng như chưa bổ sung được các dữ liệu từ các 
nhà xuất bản, đặc biệt là các dữ liệu đối chiếu bằng tiếng Việt, chính vì 
vậy hiệu quả chưa thực sự cao.
Với hướng thứ hai, phần mềm được phát triển lâu năm nên các 
tính năng được hoàn thiện hơn, nguồn dữ liệu đối chiếu lớn hơn do có 
nhiều đơn vị dùng và tải dữ liệu nội bộ lên hệ thống. Tuy nhiên, nhiều 
đơn vị sử dụng vẫn còn e dè trong việc tải dữ liệu nội bộ lên do còn 
băn khoăn về vấn đề bản quyền, lo sợ dữ liệu sẽ bị lấy cắp, một vấn đề 
khác là nguồn dữ liệu đối chiếu bằng tiếng Anh rất lớn nhưng nguồn 
dữ liệu tiếng Việt lại rất hạn chế.
Như vậy, để có thể phát triển hệ thống chống đạo văn cho môi 
trường tri thức số ở Việt Nam thì cần phải có sự chung tay của nhiều tổ 
chức khác nhau, nhiều cơ quan xuất bản, phát hành, cơ quan nghiên 
cứu khoa học và các trường đại học, cao đẳng,... Các đơn vị cùng nhau 
phát triển một hệ thống kiểm soát đạo văn thuần Việt, ngoài các tính 
năng cơ bản về kiểm tra trùng lặp, các vấn đề về bản quyền, quyền tác 
giả phải được đảm bảo, tạo niềm tin cho các đơn vị để họ cùng tham 
gia vào việc xây dựng nguồn dữ liệu đối chiếu tiếng Việt phong phú.
4.2. Tăng cường phát triển các nguồn tiếng Việt truy cập mở
Nguồn truy cập mở có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chu trình 
quản trị thông tin số, nó giúp các nhà khoa học có thể tham khảo, 
nghiên cứu để tạo ra nguồn tri thức mới mà không phải trả phí; đồng 
thời, nguồn truy cập mở đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm 
soát đạo văn, đặc biệt là đối với các hệ thống kiểm tra đạo văn tự động. 
Chính vì vậy, để công tác kiểm soát đạo văn đạt hiệu quả cao hơn, các 
nguồn truy cập mở này cần phải được phát triển mạnh hơn.
Ở Việt Nam, nguồn truy cập mở vẫn chưa được quan tâm đúng 
mức, các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học trong khi xây dựng các 
247
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
cơ sở dữ liệu nội sinh mới chỉ dừng ở mức cung cấp các nguồn đó cho 
các thành viên trong đơn vị mình, không công bố ra bên ngoài.
Trong những năm gần đây, khái niệm nguồn tài nguyên giáo 
dục mở được bàn đến nhiều hơn, rất nhiều hội thảo, nhiều nghiên 
cứu, nhiều chương trình về chủ đề này đã được triển khai. Năm 2008, 
Chương trình Tài nguyên Giáo dục Mở Việt Nam đã thiết lập trang Web 
VOER – www.voer.edu.vn, với mục tiêu: “xây dựng kho tài nguyên 
giáo dục mở cho người Việt Nam sử dụng và truy cập miễn phí nguồn 
tài liệu hữu ích, phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu, cũng 
như phục vụ cho toàn xã hội”. (Chu Ngọc Quế Chi, 2019). Chương 
trình đã nhận được sự ủng hộ và tham gia của các trường đại học, các 
học giả trong và ngoài nước và đã xây dựng được nguồn học liệu có giá 
trị. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm triển khai, nguồn học liệu này vẫn còn 
ở con số hạn chế với hơn 22.000 tên tài liệu. 
Vấn đề nhận thức về trách nhiệm đối với cộng đồng trong việc 
xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở theo mục tiêu mà Chương 
trình Giáo dục Mở Việt Nam đặt ra cùng với việc nhận thức về vai trò 
của nguồn truy cập mở đối với công tác kiểm soát đạo văn cần được 
các trường, đơn vị đào tạo, các cơ quan nghiên cứu khoa học, xuất bản, 
phát hành đặc biệt quan tâm. Từ đó tham gia một cách có trách nhiệm 
và xây dựng nguồn tài nguyên tiếng Việt truy cập mở phong phú hơn.
4.3. Tăng cường vai trò của Chính phủ, các bộ ngành trong công tác kiểm soát đạo văn
Để công tác kiểm soát đạo văn thực sự đạt hiệu quả cần phải có 
sự chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp của các bộ ngành liên quan 
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và 
Truyền thông) xây dựng các đề án, các chương trình mang tính quốc 
gia để giải quyết vấn đề này.
Trước hết, cần xây dựng được một hệ thống chống đạo văn cho môi 
trường tri thức số Việt hóa mang tính Quốc gia. Đầu tư kinh phí, giao 
cho một hoặc một số đơn vị việc phát triển phần mềm dùng chung với 
đầy đủ các tính năng theo yêu cầu và đảm bảo vấn đề về bản quyền. 
Khuyến khích và qui định rõ trách nhiệm của các đơn vị tham gia, đặc 
biệt là trách nhiệm trong việc xây dựng nguồn dữ liệu đối chiếu chung. 
Đồng thời, bổ sung các nguồn dữ liệu khác từ bên ngoài.
248
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Các Bộ cần ra các văn bản quy định về trách nhiệm của các đơn vị 
đào tạo, nghiên cứu khoa học, cơ quan xuất bản, phát hành trong việc 
kiểm soát đạo văn đối với các nguồn tri thức mới được tạo ra. 
Tổ chức thường xuyên các hội thảo, hội nghị khoa học bàn về vấn 
đề đạo văn trong môi trường tri thức số nhằm nâng cao nhận thức của 
các cấp, ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng đối với vấn đề này.
KẾT LUẬN
Kiểm soát đạo văn là một trong những nhiệm vụ quan trọng 
trong quản trị tri thức, và đặc biệt là trong quản trị tri thức số bởi nó 
ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn tri thức được tạo ra và cũng là 
dòng chảy trong chu trình quản trị tri thức. Ở Việt Nam, trong những 
năm gần đây, vấn đề kiểm soát đạo văn đối với các sản phẩm học 
thuật sản sinh từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học đã được 
nhiều đơn vị, tổ chức chú ý đến, có sự đầu tư và đã đạt được những 
kết quả nhất định. Tuy nhiên, để công tác kiểm soát đạo văn đạt hiệu 
quả cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp của 
các bộ ngành có liên quan về phát triển các đề án, các chương trình 
mang tính quốc gia nhằm xây dựng hệ thống chống đạo văn cho 
môi trường tri thức Việt, quan tâm và đầu tư đến yếu tố dữ liệu địa 
phương (tiếng Việt) trong các nguồn dữ liệu đối chiếu của hệ thống. 
Bên cạnh đó cần có các biện pháp nhằm nâng cao nhất thức của nhận 
thức của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng đối với vấn đề này, nâng 
cao trách nhiệm của cộng đồng với việc xây dựng một môi trường 
khoa học trung thực, hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10. Brandt, J., Gutbrod, M., Wellnitz, O., Wolf, L. (2010), Plagiarism 
detection in open access publications, paper presented at the Proc. 
Of the 4th Int. Plagiarism Conference. Retrieved 05 Sep 2020 from 
https://www.ibr.cs.tu-bs.de/papers/brandt-ipc10.pdf.
11. Chung Ngọc Quế Chi (2019), Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo 
dục mở trong hoạt động giáo dục đại học // Xây dựng và khai thác tài 
nguyên giáo dục mở, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2019.
249
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
12. Dalkir, K (2013), Knowledge Management in theory and practice, 
Elsevier.
13. DeBell, M, Chapman, C. (2003), Computer and Internet use by 
children and adolescents in 2001: Statistical Analysis Report. National 
Center for Educational Statistics, US Department of Education, 
Publication number NCES 2004014.
14. Gert Helgesson & Stefan Eriksson (2015), plagiarism in research, 
Medicine, Health Care and Philosophy.
15. Husain, F.M., Al-Shainbani, G.K.S., Mahfoodh, O.H.A. (2017), 
Perceptions of and attitudes toward plagiarism and factors contributing 
to plagiarism: a review of studies, J Acad Ethics, published online: 30 
March 2017.
16. Nguyễn Hoàng Sơn, et al (2019), Quản trị tri thức số Quốc gia: 
Chính phủ - doanh nghiệp – thư viện số - xã hội số // Tối ưu hóa quản 
trị tri thức: Chính phủ - doanh nghiệp – Thư viện, Đại học Quốc 
gia Hà Nội.
17. Ocholla, D., Ocholla, L. (2016), Does open access prevent plagiarism 
in higher education?, African Journal ò Library, Archives and 
Information Science, October, 2016.
18. Purdy, J.P. (2005), Calling off the hounds: Technology and the visibility 
of plagiarism, Pedagogy, 5(2).
19. Rigby, D. (2009), Management Tolls 2009: An Executive’s Guide, 
20. Ruggles, R., and D. Holtshouse (1999), The knowledge advantage. 
Dover, New Hampshire: Capstone Pubblishers.
21. Sisti, D.A. (2007),How do high school students justify Internet 
plagiarism?, Ethics &Behavior, Dec. 2008.
22. Sox, H.C. (2012), Plagiarism in digital age, Office of research Integrity 
Newsletter 20 (3).
23. Wiig, K.M (2000), Knowledge management: An emerging discipline 
rooted in a long history. In Knowledge management, ed. D. Chauvel 
and C. Despres, Paris: Theseus.

File đính kèm:

  • pdfdao_van_trong_quan_tri_tri_thuc_so_tai_viet_nam.pdf