Công tác số hóa tài liệu ở thư viện trong việc dạy - Học trực tuyến hiện nay
Nếu thế kỷ XX chứng kiến những đột phá trong phát triển công
nghệ thông tin như một thành tựu khoa học ứng dụng, thì thế kỷ XXI lại
chứng kiến sự phát triển tột bậc của công nghệ ấy qua sự hóa thân vào vai
trò một công cụ đắc lực cho sự phát triển con người. Đào tạo trực tuyến ra
đời như một cuộc cách mạng về dạy và học của thế kỷ XXI. Nhờ có những
giải pháp tiên tiến của công nghệ để người dạy có thể thiết kế được những
phương tiện truyền tải kiến thức và kỹ năng một cách hữu hiệu nhất tới
người đọc, ngày nay người học có thể ngồi ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào
để “đến trường” mà vẫn đạt được hiệu quả học tập tốt nhất.
Thuật ngữ "số hóa" (tiếng Anh là Digitigation) là hình thức chuyển
đổi dữ liệu từ dạng văn bản hệ thống bên ngoài thành những dữ liệu
dạng tín hiệu số được máy tính hiểu và lưu trữ. Có nhiều định nghĩa
khác nhau nhưng có nội dung chung đều cho rằng: số hóa tài liệu là
quá trình chuyển các dạng dữ liệu/tài liệu truyền thống như các bản
viết tay, bản in trên giấy, hình ảnh, âm thanh, phim ảnh, dữ liệu toàn
văn với nhiều định dạng khác nhau sang dữ liệu trên máy tính và được
máy tính nhận biết được như tài liệu ban đầu gọi là số hoá dữ liệu. Hay
nói cách khác số hoá tài liệu là hình thức chuyển đổi các tài liệu truyền
thống bên ngoài thành dạng tài liệu số mà máy tính có thể hiểu được.
Sản phẩm sau khi số hóa tài liệu chính là nguồn tài nguyên số/dữ liệu
số - các dữ liệu dạng chữ, hình ảnh, âm thanh được máy tính nhận
biết đúng định dạng và được sử dụng trên máy tính.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công tác số hóa tài liệu ở thư viện trong việc dạy - Học trực tuyến hiện nay
CÔNG TÁC SỐ HÓA TÀI LIỆU Ở THƯ VIỆN TRONG VIỆC DẠY - HỌC TRỰC TUYẾN HIỆN NAY Huỳnh Mẫn Đạt*1 Tóm tắt: Trong thời gian đại dịch COVID-19 vừa qua dạy, học trực tuyến đã và đang diễn ra, với vai trò quan trọng của mình, tài liệu số đã đóng góp một phần rất quan trọng trong việc thành công của quá trình dạy và học theo cách thức mới này. Bài viết có cái nhìn hệ thống về quá trình, diễn biến của đào tạo trực tuyến cũng như đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện công tác số hóa tài liệu đáp ứng được yêu cầu của người học trong bối cảnh hiện nay. Từ khóa: Tài liệu số; Tài liệu điện tử; Số hóa tài liệu; Đào tạo trực tuyến. 1. ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Nếu thế kỷ XX chứng kiến những đột phá trong phát triển công nghệ thông tin như một thành tựu khoa học ứng dụng, thì thế kỷ XXI lại chứng kiến sự phát triển tột bậc của công nghệ ấy qua sự hóa thân vào vai trò một công cụ đắc lực cho sự phát triển con người. Đào tạo trực tuyến ra đời như một cuộc cách mạng về dạy và học của thế kỷ XXI. Nhờ có những giải pháp tiên tiến của công nghệ để người dạy có thể thiết kế được những phương tiện truyền tải kiến thức và kỹ năng một cách hữu hiệu nhất tới người đọc, ngày nay người học có thể ngồi ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào để “đến trường” mà vẫn đạt được hiệu quả học tập tốt nhất. Thuật ngữ "số hóa" (tiếng Anh là Digitigation) là hình thức chuyển đổi dữ liệu từ dạng văn bản hệ thống bên ngoài thành những dữ liệu dạng tín hiệu số được máy tính hiểu và lưu trữ. Có nhiều định nghĩa * Tiến sĩ, Khoa Thông tin, Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. 481 CÔNG TÁC SỐ HÓA TÀI LIỆU Ở THƯ VIỆN TRONG VIỆC DẠY - HỌC TRỰC TUYẾN HIỆN NAY khác nhau nhưng có nội dung chung đều cho rằng: số hóa tài liệu là quá trình chuyển các dạng dữ liệu/tài liệu truyền thống như các bản viết tay, bản in trên giấy, hình ảnh, âm thanh, phim ảnh, dữ liệu toàn văn với nhiều định dạng khác nhau sang dữ liệu trên máy tính và được máy tính nhận biết được như tài liệu ban đầu gọi là số hoá dữ liệu. Hay nói cách khác số hoá tài liệu là hình thức chuyển đổi các tài liệu truyền thống bên ngoài thành dạng tài liệu số mà máy tính có thể hiểu được. Sản phẩm sau khi số hóa tài liệu chính là nguồn tài nguyên số/dữ liệu số - các dữ liệu dạng chữ, hình ảnh, âm thanh được máy tính nhận biết đúng định dạng và được sử dụng trên máy tính. Đặc điểm của đào tạo trực tuyến có nhiều đổi mới hơn so với học truyền thống, cung cấp cho học viên sự kết hợp hài hòa giữa nhìn, nghe và sự chủ động tích cực trong hoạt động. Chính nhờ vào lợi ích đó, đào tạo qua mạng đã mang lại rất nhiều hiệu quả cho việc học tập như: thu hút được nhiều đối tượng học viên trên phạm vi toàn cầu, cắt giảm được nhiều chi phí xuất bản, in ấn tài liệu. Học viên khi tham gia vào các lớp học trực tuyến có thể chủ động lựa chọn cho mình những kiến thức phù hợp. Người học trực tuyến có thể chủ động chọn những kiến thức phù hợp với mình so với hình thức tiếp thu thụ động trên lớp. Cùng với việc đánh giá được nhu cầu thực tế, học trực tuyến có thể áp dụng cho tất cả các nhu cầu cụ thể nhất. Phương pháp tương tác bảng điện tử đang là một hình thức học trực tuyến được chú trọng nhiều nhất. Các bài giảng của giáo viên sẽ được trình bày thông qua phương thức học tại lớp truyền thống và được ghi hình lại nhằm làm tư liệu giảng dạy một cách sinh động cho học sinh ở khắp nơi. Chính nhờ phương pháp này, học viên sẽ tiếp thu bài nhanh chóng và giờ học trở nên hấp dẫn, sinh động hơn. Ngoài ra, đào tạo trực tuyến đồng bộ còn giúp cho người học có khả năng tự kiểm soát tốc độ học của mình sao cho phù hợp với bản thân, vẫn đảm bảo được chất lượng học tập mà không cần phải có những phần hướng dẫn. Chính vì những đặc điểm trên, học trực tuyến đang là một giải pháp tối ưu nhất với sự thu hút đông đảo học viên ở nhiều trình độ và cấp học khác nhau. 482 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 2. NHỮNG ƯU – NHƯỢC ĐIỂM TRONG VIỆC ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN Ưu điểm của lớp học trực tuyến là khả năng giảm thiểu chi phí đi lại, tiết kiệm được thời gian và không gian học tập. Hơn thế nữa, việc xây dựng thiết kế Web trường học không tốn nhiều chi phí bằng việc xây dựng một trường học và cũng không cần giấy phép xây dựng phức tạp. Ngoài ra, khóa học online còn có các ưu điểm khác: + Đào tạo mọi lúc mọi nơi: Truyền đạt kiến thức nhanh chóng, thông tin theo yêu cầu của học viên. Người học có thể truy cập vào các khóa học trực tuyến tại bất kỳ nơi đâu: ở nhà, nơi làm việc hay các địa điểm mạng Internet công cộng và vào bất kỳ thời gian nào thích hợp khi người học muốn. + Tiết kiệm chi phí học tập: Giúp học viên giảm tới khoảng 60% chi phí đi lại, địa điểm tổ chức học tập. Mỗi học viên đều có thể đăng ký nhiều khóa học và thanh toán trực tuyến chi phí học tập. + Tiết kiệm thời gian học tập: So với phương pháp đào tạo truyền thống thì các khóa học qua mạng giúp học viên tiết kiệm khoảng từ 20% đến 40% thời gian do giảm được thời gian đi lại và sự phân tán. + Linh động và uyển chuyển: Học viên có thể chủ động và linh hoạt trong việc lựa chọn Website học qua mạng với sự chỉ dẫn của giáo viên hay những khóa học trực tuyến qua mạng với hình thức tương tác. Ngoài ra, học viên còn có thể tự động điều chỉnh tốc độ học tập theo khả năng, và còn có thể nâng cao thêm kiến thức thông qua những tài liệu của thư viện trực tuyến. + Tối ưu nội dung: Các cá nhân hay tổ chức đều có thể thiết kế làm Web dạy học qua mạng nhưng cấp độ đào tạo lại khác nhau giúp học viên dễ dàng lựa chọn. Đồng thời nội dung truyền đạt phải tối ưu và nhất quán. + Hệ thống hóa: Học trực tuyến cho phép học viên dễ dàng tham gia khóa học, và có thể theo dõi kết quả cũng như tiến độ học tập. Với khả năng thiết kế Website quản lý học sinh sinh viên, giáo viên có thể biết được những học viên nào tham gia khóa học, khi nào họ hoàn 483 CÔNG TÁC SỐ HÓA TÀI LIỆU Ở THƯ VIỆN TRONG VIỆC DẠY - HỌC TRỰC TUYẾN HIỆN NAY tất quá trình học tập và đưa ra giải pháp thực hiện giúp họ phát triển trong quá trình học. Nói chung, ưu điểm của đào tạo qua mạng mang lại sự tiện ích cho cả người học và giảng viên. Đối với giảng viên: có thể sử dụng hình ảnh, âm thanh và video để truyền đạt nội dung học tập đến người học thêm hấp dẫn và sinh động hơn. Ngoài ra, còn có thể quản lý học viên thông qua tính năng thiết kế Website quản lý trường học. Đối với học viên: tiết kiệm được nhiều chi phí học tập cũng như chi phí đi lại và địa điểm. Ngoài những ưu điểm tiện ích thì đào tạo qua mạng còn có những nhược điểm như sau: Học viên không có nhiều cơ hội học hỏi trao đổi thông tin với bạn bè. Muốn học viên học tập tốt thì học online phải có đội ngũ giáo viên hướng dẫn rõ ràng. Học trực tuyến online không phù hợp với các thành phần học viên lớn tuổi không thành thạo máy vi tính. Các tổ chức đào tạo lập trình Website dạy học không đủ tiêu chuẩn, sức chứa cho số lượng học viên có thể học với tình trạng hình ảnh, âm thanh ổn định. Môi trường học không kích thích được sự chủ động và sáng tạo của học viên. Học trực tuyến qua mạng làm giảm khả năng truyền đạt với lòng say mê nhiệt huyết của giáo sư đến học viên. Một số giảng viên không quen với việc sử dụng mạng Internet nên làm tăng khối lượng công việc cũng như áp lực cho giảng viên. Làm nảy sinh ra các vấn đề liên quan đến an ninh mạng cũng như các vấn đề về sở hữu trí tuệ. Nhược điểm quan trọng nữa của hình thức học online đó chính là sự tương tác của học viên với giảng viên một cách trực tiếp. Tuy một số trang Web khóa học online có cung cấp tính năng trao đổi trực tiếp giữa giảng viên và học viên thông qua các phần mềm trò chuyện trực tuyến nhưng cũng không đầy đủ và sinh động bằng việc trao đổi như hình thức đào tạo truyền thống. 1. Một số giải pháp số hóa tài liệu đáp ứng yêu cầu đào tạo trực tuyến trong giai đoạn hiện nay: Để công tác số hóa tài liệu được tốt chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp sau: Lựa chọn công nghệ: Lựa chọn công nghệ để tiến hành số hóa tài liệu đóng vai trò rất quan trọng bởi đây là công cụ đắc lực giúp các thư viện thực hiện các 484 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM công việc trong quy trình tạo lập và vận hành bộ sưu tập số, công nghệ để tiến hành số hóa cần đáp ứng các yêu cầu sau: - Là công cụ, môi trường để đảm bảo các tài liệu số hóa sau khi được tạo lập sẽ dễ dàng, thuận tiện cho người dùng tiếp cận; - Có đủ độ tin cậy cho người quản trị và kỹ thuật viên trong quá trình tạo lập, bảo quản và cung cấp dữ liệu trong quá trình hoạt động của bộ sưu tập; - Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chuẩn nghiệp vụ thông tin – thư viện; - Dễ dàng trao đổi dữ liệu với các chuẩn khác, có công cụ sao lưu an toàn dữ liệu với các chuẩn khác, có công cụ lưu sao an toàn dữ liệu. Để bộ sưu tập số phát huy được hết tác dụng, thư viện khi thực hiện tạo lập bộ sưu tập số cần phải có cơ sở hạ tầng sau: - Hệ thống mạng Intranet được kết nối Internet với đường truyền đủ đáp ứng cho số người dùng tối thiểu của thư viện; - Hệ thống máy chủ đủ mạnh để đáp ứng việc lưu trữ, bảo quản, cung cấp dữ liệu và quản lý người dùng và các phần mềm hệ thống có bản quyền; - Trang Web đăng tải và là cổng truy cập của người dùng vào bộ sưu tập. Số hoá nguồn tài liệu: Đây là công đoạn đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, kinh phí nhưng lại là khâu dễ dàng thực hiện nhất. Việc lựa chọn nguồn tài liệu để số hóa đáp ứng nhu cầu người học là một vấn đề quan trọng, chúng ta có thể chọn theo 2 cách: trực tuyến hoặc tài liệu giấy. Trong trường hợp thư viện đã áp dụng công nghệ chuẩn bị sẵn một giao diện trên Website, tác giả có thể tự nộp trực tuyến. Trường hợp chúng ta thu thập được hoặc tác giả cung cấp tài liệu giấy, hiện nay ở Việt Nam đã có các thiết bị số hóa tài liệu của công nghệ KIRTAS APT 1200, công nghệ này cùng với thiết bị BookScan APT 1200 có thể giúp các thư viện số hóa nguồn tài liệu với số lượng lớn, giá 485 CÔNG TÁC SỐ HÓA TÀI LIỆU Ở THƯ VIỆN TRONG VIỆC DẠY - HỌC TRỰC TUYẾN HIỆN NAY cả hợp lý và đảm bảo chất lượng, thiết bị nhận dạng quang học OCR. Đặc biệt là công nghệ KIRTAS APT 1200 có một phần mềm biên tập BookScan Editor cho phép tự động biên tập, tạo siêu dữ liệu theo yêu cầu; BookScan APT 1200 không làm hư hỏng tài liệu gốc do không phải tháo gáy tài liệu đối với tài liệu có độ dày trang khi thực hiện Scan. Biên mục tài liệu số hóa (Tạo siêu dữ liệu liên kết): Mô tả dữ liệu (theo một trong các chuẩn siêu dữ liệu MARC, Dublin Core, MODS, METS, ISO 2709 trong đó chuẩn Dublin Core tương đối phổ biến vì có khả năng tùy biến cho các tiêu chuẩn khác với 15 trường biên mục). Có nhiều chuẩn biên mục mang tính chất siêu dữ liệu khá thông dụng như: MARC 21/ UNIMARC, Dublin Core Metadata, XML Các dữ liệu này thường được gắn vào phần đầu cho mỗi tài liệu điện tử đặt trên Website và rất thích hợp cho các máy tìm kiếm, lọc ra thông tin để tổ chức thành kho dữ liệu mà không cần dùng đến hệ quản trị cơ sở dữ liệu truyền thống. Siêu dữ liệu (metadata) dùng để mô tả một tài nguyên thông tin được chia sẻ trên Internet. Một bản ghi siêu dữ liệu bao gồm một tập hợp các thuộc tính hoặc tập các phần tử cần thiết để mô tả các tài nguyên theo yêu cầu. Tạo siêu dữ liệu theo 3 dạng (siêu dữ liệu mô tả: mô tả các thông tin về tài liệu, siêu dữ liệu cấu trúc: mô tả các liên kết giữa các đối tượng thông tin liên quan của tài liệu như mục lục, chương, phần, trang sách, hình ảnh minh họa, phụ lục... giúp người dùng dễ dàng di chuyển đến các thành phần của tài liệu, siêu dữ liệu quản trị: gồm tạo kích cỡ tập tin, định dạng tài liệu (PDF), đặc tính sử dụng và tình trạng của tài liệu). - Siêu dữ liệu kỹ thuật: Thông tin về máy và sự vận hành trong quá trình chụp hình ảnh và thông tin này được tạo ra tự động bởi hệ thống của thư viện. - Siêu dữ liệu cấu trúc: Thông tin về cấu trúc sách/trình tự sắp xếp đòi hỏi nhập liệu bằng tay. - Siêu dữ liệu mô tả: Thông tin về cuốn sách là thông tin dưới biểu ghi MARC tương thích hoàn toàn tiêu chuẩn biên mục dữ liệu điện tử 486 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Dublin Core 2. Dữ liệu biểu ghi MARC được nhập với khả năng đọc số ISBN bằng mã số mã vạch (Barcode) hoặc một giao diện người dùng dành cho nhập liệu mô tả nội dung (Ví dụ: tên nhan đề, tác giả, ngày bản quyền, bảng nội dung,) trong phần mềm biên mục nhằm nhập liệu nhanh và dễ dàng sử dụng. Vận hành, bảo quản và cung cấp dữ liệu: Trước khi vận hành thật các công đoạn: quét (scan) – đối với các tài liệu là sách, biên mục tài liệu, tải tài liệu lên mạng,... thư viện sẽ thực hiện giai đoạn thử nghiệm bằng cách cho scan khoảng 10 đơn vị tài liệu với đủ các loại hình: sách, tạp chí, bản thảo, tài liệu hành chính, tranh ảnh, và cho lưu trữ cũng như vận hành thử trên Website để kiểm tra về chất lượng, bao gồm kích cỡ của hình ảnh, vấn đề xử lý chung, dạng tập tin, chiều sâu của bit, vùng sáng, vùng tối, giá trị âm thanh, độ sáng, độ tương phản, độ phân giải, sự nhiễu, sự định hướng, tiếng động, sự điều chỉnh kênh màu, sự mất văn bản, sự điều chỉnh hình ảnh, sự mất đường truyền hay mất hình ảnh, sự sống động, chất lượng truy cập, hình thức ngắn gọn, rõ ràng của văn bản Trong quá trình quét tài liệu, tạo sản phẩm số cho đến biên mục tài liệu số nên được sao lưu, cất giữ bảo quản ở các dạng: bộ nhớ lớn của máy chủ, trên ổ cứng di động... Cung cấp, tải dữ liệu lên mạng là khâu cuối cùng của tiến trình số hóa, bao gồm việc đưa bộ sưu tập lên mạng của thư viện để phục vụ trực tuyến và thiết kế giao diện với người dùng: tạo ra các công cụ sử dụng, chính sách khai thác đối với người dùng, ý kiến đóng góp, đánh giá của người sử dụng, xây dựng các ứng dụng tùy biến, chính sách phát triển nguồn tài liệu Tất cả các kết quả này cần được thông qua trước hội đồng số hóa để hoàn chỉnh lần cuối trước khi công bố kết quả bộ sưu tập đối với người dùng tin. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy, việc quản lý và cung cấp thông tin tài liệu lưu trữ điện tử chứa đựng những rủi ro như: Cơ sở dữ liệu bị xóa, thông tin bị chỉnh sửa Chính vì vậy cần thiết kế một hệ thống lưu giữ tránh tình trạng xâm nhập trái phép, thực hiện chế độ 487 CÔNG TÁC SỐ HÓA TÀI LIỆU Ở THƯ VIỆN TRONG VIỆC DẠY - HỌC TRỰC TUYẾN HIỆN NAY quản lý tài liệu điện tử như là một bộ phận tổng thể các hồ sơ tài liệu, thông tin của cơ quan và cần có khuôn khổ chiến lược đối với tài liệu lưu trữ điện tử. Theo khái niệm của các chuyên gia, hệ thống lưu giữ tài liệu điện tử là một quy trình khép kín giúp các tài liệu được an toàn và được quản lý để tài liệu đó cùng với các thông tin, hoàn cảnh và cấu trúc của nó sẽ được giữ lại (tính xác thực, độ tin cậy, tính an toàn, mối quan hệ với các đối tượng dữ liệu có liên quan, tính hữu dụng và khả năng tiếp cận). Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đã chính thức ban hành tiêu chuẩn quốc tế về công tác văn thư ISO 15489, trong tiêu chuẩn này cũng đã đưa ra một chuẩn mực để các cơ quan, tổ chức có thể sử dụng nhằm đánh giá thực tiễn và hệ thống lưu trữ tài liệu điện tử. Để công tác bảo quản, khai thác sử dụng tài liệu điện tử ít tốn kém, công việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là hồ sơ, tài liệu hình thành trong xử lý công việc của từng cá nhân phải được phân loại và quản lý thống nhất trong hệ thống cơ sở dữ liệu. Tuyệt đối không tự ý xóa hoặc thay đổi thông tin của tài liệu, hàng năm tiến hành đánh giá, xử lý chất lượng và chống xâm nhập của tác nhân gây hại. Các hồ sơ, tài liệu điện tử đến hạn nộp lưu sẽ được chuyển giao đầy đủ cho cơ quan phụ trách lưu trữ phân loại, lập mã số điện tử bảo quản trong hệ thống lưu trữ điện tử. Như vậy chúng ta sẽ giảm đi công đoạn tốn kém số hóa từ tài liệu giấy sang tài liệu điện tử. Thư viện cần đầu tư hơn nữa về tài liệu điện tử vì người học sẽ không trực tiếp đến trường và đến thư viện để đọc tài liệu (đối với những tài liệu chỉ được đọc tại chỗ) hoặc mượn tài liệu về nhà để nghiên cứu, người học chủ yếu là ở xa địa điểm trường, thậm chí là ở các nước trên thế giới. Tài liệu điện tử không chỉ đơn giản là tài liệu được số hóa từ những giáo trình, những sách được xuất bản mà tài liệu điện tử cần phải được trang bị kỹ hơn, sâu hơn về nội dung và có những ví dụ cụ thể gần nhất so với giáo trình, sách giáo khoa, những ví dụ này phải thật sinh động và được liên kết đa phương tiện để tạo hướng thú cho người học. Do đặc thù của hai phương thức đào tạo này là người học ít được tương tác với giảng viên nên thư viện sẽ làm nhiệm vụ là người trung 488 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM gian, là chiếc cầu nối giữa người dạy với người học; tư vấn cho người học chọn những giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu học tập phù hợp nhất, hướng dẫn người học hiểu rõ hơn về chương trình đào tạo cũng như có một kế hoạch hợp lý nhất và đạt hiệu quả cao nhất thông qua hình thức trực tuyến (ví dụ: dịch vụ trả lời câu hỏi 24/7). Tóm lại: để làm tốt việc đào tạo trực tuyến thư viện cần xây dựng một trung tâm học liệu với môi trường trực tuyến: với việc cung cấp cho người học một tài khoản học tập để họ có thể truy cập vào hệ thống học trực tuyến và tham gia học tập các môn học theo kế hoạch học tập đã đăng ký. Sinh viên được cung cấp đầy đủ các học liệu của môn học và môi trường học tập trực tuyến. Thư viện giúp người học: Kế hoạch học tập môn học, đề cương hướng dẫn học tập môn học, giáo trình, bài giảng phiên bản điện tử, bài giảng đa phương tiện được đăng tải trên hệ thống, giáo trình, bài giảng in ấn, đĩa CD bài giảng đa phương tiện Multimedia, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm trực tuyến, file ghi toàn bộ bài giảng trên lớp học trực tuyến. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Loan Thùy (2013), Khả năng chia sẻ nguồn tài nguyên điện tử và vấn đề bản quyền trong thư viện trường đại học, Kỷ yếu hội thảo “Chia sẻ nguồn lực thông tin điện tử trong hệ thống thư viện cao đẳng, đại học Việt Nam”. 2. Huỳnh Mẫn Đạt (2014), “Thư viện số với việc triển khai E-learning và M-learning trong trường đại học”, Văn hóa và nguồn lực, số 1(2014): 102-105 3. Phạm Thúc Trương Lương (2006), Vấn đề bản quyền tác giả trong kỷ nguyên số: góc nhìn từ thư viện, Kỷ yếu hội thảo “Tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa trong hoạt động thông tin tư liệu. 4. Sharples, M., Corlett, D., Westmancott, O. (2000), The Design and Implementation of a Mobile Learning Resource, UK: University of Birmingham, Edgbaston.
File đính kèm:
- cong_tac_so_hoa_tai_lieu_o_thu_vien_trong_viec_day_hoc_truc.pdf