Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn

Đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển

sâu rộng. Trong đó kỷ nguyên của toàn cầu hóa và cuộc Cách

mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ tạo ra những cơ chế vận hành mới

cho điều hành và quản lý mọi hoạt động của đời sống xã hội. Với

vai trò là các đơn vị cung cấp thông tin tri thức cho mọi người dân,

các hệ thống thư viện phải không ngừng tiếp cận với những thay

đổi của công nghệ và thông tin, nhằm đưa ra các tiêu chí và công

cụ tra cứu và tìm đọc nguồn thông tin tri thức mình đang sở hữu.

Để làm được điều đó, không chỉ việc số hóa kho tài liệu của đơn vị,

cơ quan mình mà các thư viện cần hình thành và liên kết thành

các trung tâm tri thức cung cấp cho người dùng các cơ sở dữ liệu

phong phú và tập trung một cách hiệu quả. Bài viết nêu bật những

cơ hội và khó khăn cũng như đề xuất các giải pháp cho việc hình

thành các Trung tâm Tri thức số đối với các thư viện tại Việt Nam

hiện nay.

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 1

Trang 1

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 2

Trang 2

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 3

Trang 3

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 4

Trang 4

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 5

Trang 5

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 6

Trang 6

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 7

Trang 7

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 8

Trang 8

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 9

Trang 9

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 9780
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn

Cần làm gì để các mô hình trung tâm tri thức và liên kết thư viện đi vào hoạt động hiệu quả - Nhìn nhận từ chính sách đến thực tiễn
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CÁC MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC... 
VÀ LIÊN KẾT THƯ VIỆN ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG HIỆU QUẢ 
- NHÌN NHẬN TỪ CHÍNH SÁCH ĐẾN THỰC TIỄN
Đỗ Xuân Đán1*
Tóm tắt: Đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển 
sâu rộng. Trong đó kỷ nguyên của toàn cầu hóa và cuộc Cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ tạo ra những cơ chế vận hành mới 
cho điều hành và quản lý mọi hoạt động của đời sống xã hội. Với 
vai trò là các đơn vị cung cấp thông tin tri thức cho mọi người dân, 
các hệ thống thư viện phải không ngừng tiếp cận với những thay 
đổi của công nghệ và thông tin, nhằm đưa ra các tiêu chí và công 
cụ tra cứu và tìm đọc nguồn thông tin tri thức mình đang sở hữu. 
Để làm được điều đó, không chỉ việc số hóa kho tài liệu của đơn vị, 
cơ quan mình mà các thư viện cần hình thành và liên kết thành 
các trung tâm tri thức cung cấp cho người dùng các cơ sở dữ liệu 
phong phú và tập trung một cách hiệu quả. Bài viết nêu bật những 
cơ hội và khó khăn cũng như đề xuất các giải pháp cho việc hình 
thành các Trung tâm Tri thức số đối với các thư viện tại Việt Nam 
hiện nay. 
Từ khóa: Thư viện; Liên kết thư viện; Số hóa tài liệu; Luật thư viện; 
Trung tâm tri thức.
I. NHỮNG GHI NHẬN TÍCH CỰC CỦA NGÀNH THƯ VIỆN TRONG THỜI GIAN QUA 
Trong những năm qua, trước sự phát triển trên tất cả các mặt của 
đời sống xã hội. Đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, làn 
sóng dịch chuyển và đón đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, 
∗ Tiến sĩ, Trường Đại học Lao động Xã hội.
470
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
ngành Thư viện cũng đang chủ động chuyển mình bắt kịp với cơ chế 
và xây dựng các chính sách trình các cơ quan nhà nước ban hành, 
hướng tới một xã hội học tập và tiếp cận với các tri thức tiến bộ của xã 
hội. Điểm nổi bật đầu tiên, chúng tôi xin liệt kê một số văn bản pháp 
luật và chính sách mang tính đột phá trong lĩnh vực thư viện thông tin 
mà những người hoạt động trong ngành thư viện hết sức mong chờ 
bấy lâu.
Điều đầu tiên phải khẳng định việc nâng cấp từ Pháp lệnh lên thành 
Luật Thư viện được Quốc hội thông qua vào ngày 21 tháng 11 năm 2019 
là một đột phá quan trọng nhất của ngành Thư viện thời gian qua. 
Theo cách nói của chuyên viên cao cấp Ông Phạm Thế Khang, nguyên 
Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam, thành viên Ban soạn thảo Luật 
Thư viện là: “Luật Thư viện đã trở thành tờ giấy khai sinh, là tấm hộ 
chiếu để Thư viện Việt Nam hội nhập với bạn bè năm châu. Chúng ta 
có quyền tự hào về chất lượng của Luật Thư viện Việt Nam so với hàng 
trăm luật thư viện của các nước trên thế giới”.
Đối với ngành Thư viện, cụ thể ở đây là Vụ Thư viện Bộ Văn hóa, 
Thể thao và Du lịch đã luôn chủ động xây dựng, trình với các cơ quan 
chức năng cho ban hành nhiều chương trình, đề án, các cuộc hội thảo 
khoa học:
Ngay sau khi Luật Thư viện được Quốc hội thông qua và ban hành 
cuối năm 2019, chúng ta đã sớm có ngay Nghị định số 93/2020/NĐ-CP 
ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi 
hành Luật Thư viện. Đây là sự nỗ lực rất lớn của Vụ Thư viện Bộ Văn hóa, 
Thể thao và Du lịch đã nhanh chóng xây dựng và trình các cấp có thẩm 
quyền thông qua. Cả Luật Thư viện và Nghị định hướng dẫn này được 
coi như bảo bối mới, giải tỏa cho nhiều băn khoăn, trăn trở về việc thiếu 
các căn cứ pháp lý để triển khai các nhiệm vụ cụ thể của ngành. Chúng tôi 
quan tâm nhất ở hai điểm mang tính gợi mở và được nhấn mạnh trong 
các văn bản luật này. Một là ưu tiên sưu tầm, bổ sung, xử lý chuẩn hóa 
nghiệp vụ và chia sẻ tài nguyên thông tin giữa các thư viện trong cùng hệ 
thống, thư viện cùng ngành, lĩnh vực hoặc khu vực, đặc biệt là vai trò của 
các thư viện lớn trung tâm; hai là số hóa, lưu giữ, bảo quản và phục vụ 
471
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CÁC MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC... 
nghiên cứu, theo quy định của pháp luật. Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ có 
thể cho phép được số hóa tài liệu để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, 
không lo sợ vi phạm bản quyền. Cụ thể: Điều 25, mục 2 điểm đ Luật Thư 
viện đã nêu: “chuyển dạng, số hóa tài nguyên thông tin phục vụ lưu giữ 
và nghiên cứu theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ,..." ở Điều 
25 mục 1 của Luật Sở hữu trí tuệ cho thấy: “sao chép tác phẩm để lưu trữ 
trong thư viện với mục đích nghiên cứu và giảng dạy”. Như vậy có thể 
hiểu thư viện được số hóa để phục vụ nghiên cứu (dùng nội bộ và không 
được bán). Bên cạnh đó Luật cũng đề cập rõ việc bố trí cán bộ có tiêu 
chuẩn chức danh nghề nghiệp được đào tạo đúng chuyên môn nghiệp 
vụ; trụ sở thư viện được bố trí tại nơi trung tâm.
Một văn bản mới nữa là Thông tư số 03/2020/TT-BGDĐT ngày 
10/02/2020 Quy định chi tiết hướng dẫn tiêu chuẩn định mức sử dụng 
diện tích công trình sự nghiệp lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trong đó có 
nêu rõ trong các cơ sở giáo dục đào tạo, phải bố trí diện tích tối thiểu 
tương ứng với quy mô đào tạo và đội ngũ cán bộ giảng viên. Đặc biệt, 
trong đó nêu rất cụ thể như hội trường, phòng học, xư ... ẬP VÀ NGHIÊN CỨU 
Không thể không thừa nhận nỗ lực và cố gắng của ngành thư viện 
và những người làm nghề thư viện tâm huyết trong những năm qua 
đã có tiếng nói và hành động, việc làm thiết thực trong tham mưu, đề 
xuất các chính sách cho sự đổi mới và thay đổi về nhận thức của xã hội, 
đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thông tin 
thư viện thời gian qua. Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động và đánh giá, 
chúng tôi nhận thấy vẫn còn những điểm bất cập như sau:
Thứ nhất, mặc dù Luật Thư viện ra đời và đi kèm sau đó là Nghị 
định của Chính phủ đã được ban hành trong một thời gian ngắn, cùng 
với đó là một số văn bản của các cơ quan nhà nước liên quan đến công 
tác thông tin thư viện. Tuy nhiên, Luật vẫn còn dừng ở văn bản trên giấy, 
mà chưa đi vào thực tiễn hoạt động của ngành, của nghề một sớm một 
chiều. Để dần biến từ chính sách đến hiệu quả thực tiễn trong hoạt động 
của lĩnh vực chuyên môn, rất cần sự phổ biến, tuyên truyền và kèm với 
đó là những giải pháp chi tiết cụ thể, nếu không văn bản chỉ mãi ở trên 
giấy. Đơn cử như Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động thư viện trường 
đại học được ban hành ngày 10/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể 
thao và Du lịch, chưa có nhiều tác dụng khi ứng dụng vào thực tiễn. 
Trong khi thực tế, những người làm trong ngành luôn kêu ca thiếu văn 
bản pháp lý để triển khai hoạt động.
Thứ hai, việc khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, dữ liệu từ các trường 
được đầu tư chưa thống nhất, rời rạc, thậm chí kém hiệu quả, do chính 
sách, do sự thiếu chủ động, do còn tùy thuộc vào mức độ cho phép của 
lãnh đạo các trường, hoặc lãnh đạo địa phương. Đơn cử, người ta rất 
mong đợi Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) là nơi lưu trữ đầy đủ 
nhất về các tài liệu, cơ sở dữ liệu toàn văn hoặc điện tử, chuẩn hóa về mặt 
xử lý nghiệp vụ để thuận tiện cho việc tra cứu thông tin, chia sẻ cơ sở dữ 
liệu nghiệp vụ đã được xử lý, giúp cho các thành viên đỡ tốn công sức 
xử lý lại từ đầu hoặc sẽ có sự không chuẩn hóa. Tuy nhiên, như đánh giá 
của tác giả Lê Đức Thắng trong bài viết “Thực trạng ứng dụng khoa học 
công nghệ tại TVQGVN” đăng trong Kỷ yếu Hội thảo phục vụ xây dựng 
đề án: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong hoạt động của 
474
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
thư viện ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 là: “Phần 
mềm thư viện đã sử dụng 19 năm, không còn phù hợp trong điều kiện 
hiện tại của công nghệ. Tính năng thường xuyên lỗi, trục trặc gây nhiều 
khó khăn cho đơn vị trong việc xử lý, quản lý, phổ biến thông tin, đặc 
biệt chưa đảm bảo được vai trò là trung tâm xử lý dữ liệu tập trung, chia 
sẻ cho thư viện toàn quốc. Điều này vô hình chung gây lãng phí nguồn 
nhân lực và kinh phí cho toàn hệ thống thư viện cả nước”. 
Thứ ba, trong các cuộc hội thảo, tọa đàm về lĩnh vực thông tin 
thư viện, rất hiếm khi thấy sự xuất hiện lãnh đạo hay người có trách 
nhiệm từ Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
Thứ tư, lâu nay, các nhóm liên hiệp thư viện thuộc khối ngành 
nghề hoặc địa bàn, các thư viện có đủ nguồn lực luôn chủ động đề xuất 
việc mua các bộ sưu tập số của nước ngoài, điều đó cũng là cần thiết. 
Tuy nhiên, tỷ lệ và hiệu quả sử dụng chưa cao, nguyên nhân có thể do 
khả năng sử dụng ngoại ngữ của giảng viên, sinh viên, người nghiên 
cứu, cũng có thể do không mang tính cấp thiết, bắt buộc họ phải tìm 
đọc. Chúng tôi nhận thấy ở mảng bộ sưu tập số thuộc các lĩnh vực tri 
thức khác nhau của các nhà xuất bản, các tạp chí trong nước, các cơ 
quan nghiên cứu chuyên ngành còn bỏ ngỏ đối với bạn đọc và vác 
thư viện, cơ quan nghiên cứu. Có thể do họ chưa quan tâm, chưa có các 
văn bản hướng dẫn từ cơ quan nhà nước, chưa có những tuyên truyền 
quảng bá đến cộng đồng giới đào tạo và nghiên cứu. Hiện như chúng 
tôi biết mới chỉ có Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Bộ 
KH&CN); một số ít tạp chí chuyên ngành uy tín, tạo lập các cơ sở dữ 
liệu để cung cấp cho người dùng tin ở dạng số và điện tử. Tuy nhiên, 
tính phổ biến tới đông đảo người có nhu cầu còn hạn chế.
Thứ năm, việc đầu tư, mua sắm nguồn thông tin, tài liệu từ các thư 
viện cũng có nhiều bất cập. Có nơi nhiều đầu tư kinh phí mua về thì 
không có người dùng, nơi có người dùng thì không có kinh phí để mua 
hoặc không thể sử dụng được từ thư viện khác. Chia sẻ từ lãnh đạo 
một thư viện đại học, cơ sở dữ liệu họ mua của nước ngoài với nhiều 
tỷ đồng, nhưng thống kê mỗi năm chỉ khoảng vài chục người tìm đọc. 
Nhiều thư viện, đặc biệt là thư viện công cộng duy trì bởi các kho sách 
chết, hàng năm không có bạn đọc ghé thăm.
475
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CÁC MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC... 
Thứ sáu, mặc dù các tổ chức thuộc hội nghề nghiệp như Hội Thư 
viện Việt Nam, Liên Chi hội thư viện đại học phía Bắc, phía Nam liên tục 
tổ chức các hội thảo, tọa đàm, nhằm đề xuất các giải pháp cho công tác 
nghiệp vụ và kiến nghị chính sách cho ngành thư viện để có cơ sở pháp 
lý cho hoạt động lĩnh vực này hiệu quả hơn nhưng các cuộc hội thảo 
này mới chỉ dừng ở nội bộ những người làm thư viện, hầu như rất hiếm 
sự có mặt của các quan chức thuộc bộ, ngành có thẩm quyền ban hành 
chính sách. Đồng thời các ý kiến đề xuất, kiến nghị cũng rất ít/hiếm khi 
được tập hợp và gửi cho các cơ quan chức năng. Do vậy tiếng nói hay 
ảnh hưởng của hội nghề nghiệp tới xã hội nói chung hay các cơ quan 
chuyên ngành cũng chưa được rõ nét và hiệu quả.
III. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG CÁC TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO THƯ VIỆN 
VIỆT NAM NHẰM PHỤC VỤ HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU MỘT CÁCH HIỆU QUẢ
Chưa bao giờ có nhiều văn bản được ban hành, nhiều cuộc hội 
thảo tọa đàm liên quan đến lĩnh vực thư viện được tổ chức như thời 
gian vừa qua. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, ngành thư viện vẫn 
còn gặp một số khó khăn, rào cản, cả về cơ chế chính sách, lẫn nhận 
thức hành động. Trước những thực trạng như vậy, để góp phần giúp 
thư viện làm tốt vai trò và sứ mệnh của mình trong việc phục vụ nâng 
cao dân trí, đào tạo nhân tài và phát triển khoa học kỹ thuật và nghiên 
cứu, chúng tôi đề xuất một số nội dung nhằm tiến tới xây dựng các 
Trung tâm Tri thức số cho thư viện Việt Nam, tập trung vào các giải 
pháp cụ thể sau đây:
1. Triển khai và hoàn thiện văn bản, cơ chế, chính sách và mô hình 
phù hợp liên quan đến lĩnh vực thông tin thư viện.
Chúng ta đã có Luật, có Nghị định và một số thông tư liên quan. 
Tuy nhiên, cần chủ động, tích cực tuyên truyền, phổ biến và áp dụng 
văn bản luật làm sao cho các cấp quản lý, lãnh đạo, người làm công 
tác trực tiếp nắm rõ và vận dụng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, 
chúng tôi đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu để ban hành các thông 
tư, thông tư liên tịch giữa các bộ có liên quan, cụ thể là Bộ VHTTDL, 
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ LĐTBXH trong việc hướng dẫn và thực 
thi các vấn đề còn chung chung chưa cụ thể từ Luật và Nghị định. 
476
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Cụ thể như vấn đề cho phép sao lưu, số hóa tài liệu phục vụ lưu trữ 
và nghiên cứu, học tập và giảng dạy; vấn đề trách nhiệm của người 
đứng đầu các cơ sở giáo dục trong việc cho phép truy cập và sử dụng 
cơ sở dữ liệu thông tin ra bên ngoài; vấn đề liên kết các nhóm, hiệp 
hội thư viện cùng khối, ngành hoặc địa bàn, bởi hiện nay các hoạt 
động nói trên vẫn chủ yếu dựa vào sự nhiệt tình, tự nguyện hoặc tự 
phát từ các thư viện mà chưa có những căn cứ và trách nhiệm và vai 
trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; vấn đề đầu tư, mua sắm tập 
trung về cơ sở dữ liệu thông tin, tài liệu, phần mềm; vấn đề cho phép 
thu phí từ các dịch vụ
Trong chuyến thăm quan thực tế một số thư viện trường đại học 
tại Hàn Quốc của đoàn đại biểu thư viện các trường ĐH phía Bắc, phía 
Nam, chúng tôi nhận thấy, họ đã đặt viết và đưa vào sử dụng một 
phần mềm thư viện chung áp dụng cho thư viện tất cả các trường 
đại học trong cả nước. Điều này sẽ tạo được ít nhất hai thứ: một là 
tiết kiệm ngân sách quốc gia, hai là rất dễ dàng trong việc thống nhất 
sưu tầm, xử lý và chia sẻ dữ liệu, tra cứu và sử dụng thông tin, bảo trì 
bảo dưỡng giữa thư viện và các cơ sở đào tạo. Thực trạng mua phần 
mềm và CSDL ở Việt Nam, chúng tôi thấy chủ yếu vẫn mạnh ai nấy 
chạy, mạnh trường nào trường ấy đầu tư; phần mềm cũng có nhiều 
loại khác nhau, chưa có quy định về cơ quan có thẩm quyền thẩm 
định, đánh giá và tư vấn. Hiện nay, chạy theo xu thế số hóa, các đơn vị 
đua nhau xin dự án số hóa tài liệu, nơi nào cũng sắm máy và thiết bị, có 
khi sử dụng chỉ vài lần, trong khi mua sắm nhiều tỷ đồng, có nơi, thậm 
chí khi không có người biết sử dụng, nhiều nơi cùng số hóa một tên 
sách giống nhau. Do vậy dẫn đến việc đầu tư lãng phí và không hiệu 
quả từ nguồn đầu tư ngân sách.
Một vấn đề nữa cần xem xét các tiêu chí đánh giá kiểm định trường 
đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Nếu chỉ coi thư viện đại 
học là một trong hàng trăm tiêu chí ngang nhau so với các tiêu chí khác 
của trường đại học, khi mà thư viện không đạt, trong khi mỗi trường 
ĐH vượt qua 80/100 điểm/tiêu chí, thì trường đại học đó vẫn coi như 
đạt và vượt qua vòng kiểm định. Điều này sẽ dẫn đến lãnh đạo các 
trường không/hoặc chẳng cần thiết phải đầu tư thay đổi cho thư viện.
477
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CÁC MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC... 
Chúng tôi quan tâm đến một ý tưởng trong bài viết của tác giả 
Nguyễn Việt Trung đăng trong Kỷ yếu Hội thảo phục vụ xây dựng Đề án: 
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong hoạt động của thư viện 
ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, do Vụ Thư viện Bộ 
VHTTDL tổ chức tại Hà Nội vào tháng 8/2020 với tiêu đề: “Đề xuất mô 
hình kiến trúc trung tâm dữ liệu thư viện điện tử quốc gia”. Theo bài viết, 
trung tâm dữ liệu sẽ cho phép triển khai, kết nối các quy trình công việc 
quan trọng, thực hiện các công việc như tìm kiếm, liên kết, truy vấn, tổng 
hợp, thống kê, phân tích, báo cáo và tự động hóa các quy trình, giúp giảm 
chi phí, thời gian và đưa ra các quyết định chính xác cho người dùng và 
lãnh đạo. Đi kèm với đó là hệ thống hạ tầng phần cứng thiết bị và công 
nghệ được đầu tư và kết nối trên nền tảng mạng LAN và Web
2. Tạo lập các cơ sở dữ liệu nội sinh thuộc tất cả các lĩnh vực nghiên 
cứu trong nước.
Như đã phân tích ở phần trên, các thư viện (đặc biệt là thư viện 
đại học, viên nghiên cứu) bấy lâu nay vẫn tìm mua những cơ sở dữ liệu 
tri thức nước ngoài hết sức tốn kém, nhưng việc sử dụng lại chưa hiệu 
quả. Thậm chí có tình trạng nơi cần thì không có tiền mua; nhiều nơi 
mua về thì để đó, hoặc rất ít người có khả năng đọc tài liệu nước ngoài. 
Tuy nhiên không hiểu vì sao rất ít các bộ sưu tập về các lĩnh vực nghiên 
cứu, tạp chí, xuất bản lại thiếu vắng những cơ sở dữ liệu phát hành 
bằng tiếng Việt. Chúng tôi đề xuất Nhà nước cần có những quy định 
bắt buộc hoặc chỉ đạo, hướng dẫn hoặc giao các cơ quan chuyên môn 
chủ trì trong việc xây dựng, số hóa, tạo lập các cơ sở dữ liệu nội sinh 
tập trung từ các cơ sở đào tạo, các địa phương, bộ ngành, các nhà xuất 
bản, các cơ quan tạp chí, truyền thông nhằm tập hợp thành các đầu 
mối thuộc quản lý nhà nước cho các lĩnh vực thông tin tri thức và có 
phương án phân phối, chia sẻ, khai thác nhằm phục vụ mục đích tra 
cứu, nghiên cứu, giảng dạy, học tập cho cộng đồng và xã hội.
3. Phát huy sự chủ động, sáng tạo của cán bộ làm công tác thông 
tin thư viện, nhằm hiểu rõ và vận dụng sáng tạo các chính sách đã ban 
hành. Không ngừng học hỏi để tiếp cận với khoa học và công nghệ trong 
bối cảnh đất nước tiến vào kỷ nguyên số hóa, với công nghệ 4.0, nhằm 
478
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
tham mưu cho lãnh đạo đơn vị cho phép triển khai các bước số hóa, dịch 
vụ liên thông, liên kết với cơ sở bên ngoài, nhằm hướng tới cùng khai 
thác, sử dụng nguồn lực thông tin từ các cơ sở một cách hiệu quả.
4. Phát huy tiếng nói và tầm ảnh hưởng của tổ chức hội nghề 
nghiệp. Cụ thể là như Hội Thư viện Việt Nam, Liên Chi hội TVĐH 
phía Bắc, phía Nam, Liên Chi hội thư viện công cộng các khu vực, khối 
thư viện lực lượng vũ trang, Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn 
tin KH&CN trong việc chia sẻ thông tin, nghiệp vụ; tăng cường sức 
ảnh hưởng của tổ chức hội nghề nghiệp trong việc tham gia khảo sát 
nghiên cứu các đề tài, dự án, phản biện và trình các chính sách liên 
quan đến những tiêu chuẩn, chế độ thuộc lĩnh vực ngành trong phạm 
vi hoạt động của mình đối với xã hội và các cơ quan quản lý nhà nước.
IV. KẾT LUẬN
Hướng đến việc hình thành các Trung tâm Tri thức số cho thư viện 
Việt Nam là nhiệm vụ và xu thế tất yếu của đất nước trong kỷ nguyên 
số, toàn cầu hóa và chúng ta đang bắt đầu bước vào giai đoạn của cuộc 
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngành Thư viện và những người 
làm nghề thư viện thấy có trách nhiệm đề xuất các ý kiến với các cơ 
quan quản lý nhà nước, đồng thời tìm kiếm các giải pháp để phục vụ 
hiệu quả các nguồn lực thông tin tri thức vì sự phát triển của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Kỷ yếu Hội thảo phục vụ xây 
dựng Đề án: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong hoạt 
động của thư viện ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
2. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 194/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ 
Tài chính hướng dẫn mức chi tạo lập thông tin điện tử nhằm duy trì hoạt 
động thường xuyên của cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.
3. Nguyễn Huy Chương (2014), Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy hoạt động 
thông tin thư viện đại học Việt Nam với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo 
dục đại học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Đại học Quốc gia Hà Nội (2019), Tối ưu hóa quản trị tri thức số: Chính phủ - 
Doanh nghiệp – thư viện, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
479
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CÁC MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC... 
5. Đỗ Xuân Đán (2019), Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư và nguồn lực thông 
tin tri thức trong các thư viện ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Hoạt 
động thư viện trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thư 4, Học viện Chính 
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 40.
6. Mẫn Đạt (2018), Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến các thư 
viện đại học ở Việt Nam, Thư viện thông minh Công nghệ - Dữ liệu – con 
người, tr. 132- 140.
7. Luật Thư viện số: 46/2019/QH14 ngày 21 tháng 11 năm 2019.
8. Nghị định số 93/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ 
quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Thư viện. 
9. Nguyễn Hoàng sơn, Lê Bá Lâm, Hoàng Văn Dưỡng, Xây dựng thư viện 
số đại học dùng chung thông qua công cụ tìm kiếm thông minh Primo 
và phần mềm quản trị tài liệu số nội sinh Dispace. Công nghệ - Dữ liệu – 
con người, tr. 491 – 502.
10. Thông tư số 03/2020/TT-BGDĐT ngày 10/02/2020 Quy định chi tiết hướng 
dẫn tiêu chuẩn định mức sử dụng diện tích công trình sự nghiệp thuộc 
lĩnh vực giáo dục đào tạo.
11. Trường ĐH KHXH NV (2014), Hoạt động thông tin thư viện với vấn đề đổi 
mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfcan_lam_gi_de_cac_mo_hinh_trung_tam_tri_thuc_va_lien_ket_thu.pdf