Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các

yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm

bản quyền số ở Việt Nam, và đưa ra khuyến

nghị nhằm hạn chế tình trạng này. Dựa trên mô

hình lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of

Planned Behavior - TPB), và mô hình chấp

nhận công nghệ hợp nhất (Unified Theory of

Acceptance and Use of Technology - UTAUT),

nghiên cứu đề xuất một mô hình tích hợp các

khía cạnh tâm lý, đạo đức, và công nghệ để

khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi

phạm bản quyền số (VPBQS) ở Việt Nam. Mẫu

khảo sát bao gồm 264 sinh viên, học viên cao

học, nhân viên kỹ thuật, phi kỹ thuật cũng như

quản lý các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh. Mô

hình nghiên cứu được kiểm định bằng các công

cụ thống kê như: Cronbach Alpha, phân tích

nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố

khẳng định (CFA), mô hình cấu trúc tuyến tính

(SEM) và phân tích khác biệt nhóm (ANOVA).

Kết quả cho thấy ý định vi phạm ảnh hưởng lớn

đến hành vi, và nhận thức kiểm soát hành vi

ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định. Mặt khác,

nhận thức kiểm soát hành vi chịu chi phối từ

những yếu tố khách quan như sự phát triển

công nghệ và nhận thức về rủi ro. Trên cơ sở

các kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã có

một số đề xuất và gợi ý trong việc giúp các cơ

quan quản lý cũng như doanh nghiệp có những

chiến lược phù hợp nhằm ngăn cản hành vi

VPBQS ở Việt Nam. Từ đó, thúc đẩy sự phát

triển lành mạnh của nền kinh tế trong thời đại

kỹ thuật số, và giúp Việt Nam có thể chuyển đổi

thành công sang nền kinh tế tri thức.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 9640
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam
78 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.Q4- 2017 
  
Tóm tắt–Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các 
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm 
bản quyền số ở Việt Nam, và đưa ra khuyến 
nghị nhằm hạn chế tình trạng này. Dựa trên mô 
hình lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of 
Planned Behavior - TPB), và mô hình chấp 
nhận công nghệ hợp nhất (Unified Theory of 
Acceptance and Use of Technology - UTAUT), 
nghiên cứu đề xuất một mô hình tích hợp các 
khía cạnh tâm lý, đạo đức, và công nghệ để 
khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi 
phạm bản quyền số (VPBQS) ở Việt Nam. Mẫu 
khảo sát bao gồm 264 sinh viên, học viên cao 
học, nhân viên kỹ thuật, phi kỹ thuật cũng như 
quản lý các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh. Mô 
hình nghiên cứu được kiểm định bằng các công 
cụ thống kê như: Cronbach Alpha, phân tích 
nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố 
khẳng định (CFA), mô hình cấu trúc tuyến tính 
(SEM) và phân tích khác biệt nhóm (ANOVA). 
Kết quả cho thấy ý định vi phạm ảnh hưởng lớn 
đến hành vi, và nhận thức kiểm soát hành vi 
ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định. Mặt khác, 
nhận thức kiểm soát hành vi chịu chi phối từ 
những yếu tố khách quan như sự phát triển 
công nghệ và nhận thức về rủi ro. Trên cơ sở 
các kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã có 
một số đề xuất và gợi ý trong việc giúp các cơ 
quan quản lý cũng như doanh nghiệp có những 
chiến lược phù hợp nhằm ngăn cản hành vi 
VPBQS ở Việt Nam. Từ đó, thúc đẩy sự phát 
triển lành mạnh của nền kinh tế trong thời đại 
kỹ thuật số, và giúp Việt Nam có thể chuyển đổi 
thành công sang nền kinh tế tri thức. 
Bài nhận ngày 20 tháng 07 năm 2017, hoàn chỉnh sửa chữa 
ngày 06 tháng 11 năm 2017. 
Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố 
Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Đề tài mã số 
C2017-20-41. 
Phạm Quốc Trung, Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG-
HCM (e-mail: pqtrung@hcmut.edu.vn). 
Đặng Nhựt Minh, Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG-
HCM (e-mail: dangnhutminh@gmail.com). 
Từ khóa–Vi phạm bản quyền số, lý thuyết 
hành vi hoạch định, sở hữu trí tuệ, Việt Nam 
1. GIỚI THIỆU 
heo liên minh phần mềm BSA thì 39% phần 
mềm cài đặt trên máy tính toàn thế giới năm 
2015 không có bản quyền hợp pháp, so với mức 
43% theo nghiên cứu trước của BSA năm 2013. 
Theo kết quả khảo sát này, tỷ lệ sử dụng phần 
mềm máy tính không bản quyền ở Việt Nam năm 
2015 là 78%, giảm 3% so với năm 2013. Như vậy, 
tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm máy tính ở 
Việt Nam đã giảm liên tục từ 85% năm 2009 
xuống 83% năm 2010 và 81% vào năm 2011 và 
2013; cho tới 78% năm 2015 theo kết quả khảo sát 
mới được công bố. Tuy nhiên so với các nước 
trong khu vực thì tỷ lệ này vẫn còn tương đối cao 
(Malaysia 53%, Thái Lan 69%, Trung Quốc 70%) 
và so với khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là 
61% và trên toàn thế giới là 39% [7]. 
Nhiều tác giả đã sử dụng mô hình Lý thuyết 
hành vi hoạch định (TPB) để giải thích ý định 
hành vi vi phạm bản quyền số, như: Peace và cộng 
sự [19] nghiên cứu vi phạm bản quyền phần mềm, 
nghiên cứu về vi phạm bản quyền sản phẩm số nói 
chung [11], Yoon [30] cũng đã sử dụng mô hình 
TPB kết hợp các lý thuyết về đạo đức, thói quen 
nghiên cứu trên đối tượng sinh viên tại Trung 
Quốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường tập 
trung vào một vài khía cạnh (tâm lý, đạo đức, pháp 
luật, công nghệ, kinh tế) mà không bao quát, 
hoặc tập trung vào đối tượng chủ yếu là sinh viên 
(những người chưa tự chủ về mặt kinh tế), hoặc 
chỉ xét một dòng sản phẩm số cụ thể như: phần 
mềm, nhạc số Hơn nữa, các nghiên cứu về chủ 
đề này ở Việt Nam còn tương đối ít, vì vậy cần có 
thêm nhiều nghiên cứu về hành vi vi phạm bản 
quyền số ở bối cảnh Việt Nam. Trong nghiên cứu 
này, nhóm tác giả muốn xem xét ảnh hưởng của 
nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của Pháp luật về 
Sở hữu trí tuệ, sự phát triển của công nghệ, các yếu 
tố về tâm lý, đạo đức, và các yếu tố nhân khẩu, 
đến ý định và hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt 
Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân 
vi phạm bản quyền số ở Việt Nam 
Phạm Quốc Trung, Đặng Nhựt Minh 
T 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số Q4-2017 79 
Nam. Ngoài ra, việc mở rộng phạm vi nghiên cứu 
ra cả những đối tượng học viên cao học và người 
đã đi làm, sẽ giúp nghiên cứu có góc nhìn tổng 
quát hơn về ý định và hành vi vi phạm bản quyền 
số ở Việt Nam. 
Do đó, nghiên cứu này sẽ tích hợp các mô hình 
trước đây, như: lý thuyết hành vi hoạch định 
(TPB), mô hình chấp nhận công nghệ (TAM), mô 
hình chấp nhận công nghệ hợp nhất (UTAUT) và 
một số mô hình liên quan nhằm tìm hiểu về hành 
vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam. Mục tiêu 
chính của nghiên cứu bao gồm: (1) Xác định và đo 
lường mức độ tác động của các yếu tố đến ý định 
và hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam, và 
(2) Đề xuất hàm ý quản lý nhằm hạn chế hành vi 
vi phạm bản quyền số ở bối cảnh Việt Nam. Cấu 
trúc của bài báo gồm các phần sau: (2) Cơ sở lý 
thuyết &  ... phạm, từ đó làm tăng khả 
năng vi phạm bản quyền số. 
Bên cạnh đó, phần lớn đối tượng khảo sát đều 
cho rằng giá cả phần mềm là cao (71.6%), cộng 
với việc thuận lợi trong sử dụng phần mềm trái 
phép, nên yếu tố thu nhập đã không tác động nhiều 
đến ý định hành vi của mẫu khảo sát. Việc vi phạm 
bản quyền số tại Việt Nam đã diễn ra trong nhiều 
năm, vì vậy, nó đã hình thành thói quen, và trở 
thành một yếu tố văn hóa, chính vì vậy người có 
thu nhập cao hay thấp không phải là yếu tố quyết 
định. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của 
Yoon [30], theo đó, thói quen tác động mạnh đến 
thái độ tán thành đối với ý định vi phạm bản quyền 
số. 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số Q4-2017 85 
BẢNG 2. KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ANOVA GIẢ THUYẾT H12 VÀ KẾT LUẬN 
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
5.1 Kết luận và thảo luận 
Tóm lại, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hành vi 
vi phạm bản quyền số bị chi phối bởi ý định, điều 
này có nghĩa là ý định vi phạm càng cao thì dẫn 
đến hành vi vi phạm càng cao (0,47). Ngoài ra 
hành vi vi phạm cũng bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi 
yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi, đó là sự dễ 
dàng trong việc tìm thấy và bẻ khóa cũng như sử 
dụng các sản phẩm số trái phép (0,26). Sự phát 
triển của công nghệ cũng góp phần làm gia tăng 
hành vi vi phạm bản quyền số (0,36). 
Ngoài ra, kết quả cho thấy ý định hành vi không 
bị ảnh hưởng của chuẩn chủ quan, tuy nhiên thái 
độ tán đồng đối với hành vi vi phạm sẽ làm tăng ý 
định vi phạm (0,17) và nhận thức kiểm soát hành 
vi (sự dễ dàng trong việc tìm và bẻ khóa sản phẩm 
số) có tác động lớn đến ý định vi phạm (0,44). Bên 
cạnh đó, chuẩn chủ quan có ảnh hưởng dương (+) 
đến thái độ, điều này tương đồng với nghiên cứu 
của Hoàng và Hà [16]. 
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng nghĩa vụ đạo 
đức càng cao thì sẽ giảm chuẩn chủ quan về ý định 
vi phạm. Nhận thức về rủi ro có thể gặp phải càng 
cao sẽ làm giảm thái độ tán thành đối với ý định vi 
phạm (-0,22) và đồng thời tác động đến nhận thức 
kiểm soát hành vi làm giảm ý định vi phạm bản 
quyền số (-0,34). Hơn nữavai trò của nhận thức 
cũng như thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ cao 
cũng sẽ làm giảm ý định vi phạm (-0,2). 
Mặt khác, để tìm hiểu ảnh hưởng của khía cạnh 
kinh tế, qua khảo sát về giá thành một số sản phẩm 
số, cũng như từ nhiều ý kiến đóng góp từ đáp viên 
cho thấy giá sản phẩm số ở Việt Nam hiện nay là 
tương đối cao so với mặt bằng thu nhập (đánh giá 
chung: 3,9/ 5). Trong câu hỏi mở của bảng câu hỏi 
về lý do cho việc vi phạm bản quyền số. Kết quả 
cho thấy ngoài giá cả, trở ngại trong việc thanh 
toán, đặc biệt là đối với các website cung cấp sản 
phẩm số ở nước ngoài cũng đã được nêu ra. 
5.2 Kiến nghị 
Từ kết quả phân tích trên, một vài kiến nghị 
được đề xuất để giúp hạn chế hành vi vi phạm bản 
quyền số ở Việt Nam như sau: 
- Nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ: Nhà 
nước đã ban hành nhiều quy định, kể cả hình thức 
chế tài đối với vi phạm bản quyền số, tuy nhiên 
mức độ thực thi chưa đạt hiệu quả cao. Việc thanh 
tra vi phạm bản quyền số được thực hiện bởi 
Thanh tra sở văn hóa du lịch và thể thao kết hợp 
với Cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm sử dụng 
Công nghệ cao C50 (Bộ Công an) chủ yếu tập 
trung vào doanh nghiệp, tuy nhiên đối với hình 
thức vi phạm cá nhân thì vẫn không mang đến hiệu 
quả. Muốn giảm hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ 
trong lĩnh vực phần mềm không chỉ thông qua việc 
thanh tra giám sát mà còn phải thông qua việc đưa 
ra những khung pháp lý mang tính răn đe, tuyên 
truyền những nội dung quy định cũng như mức 
phạt của pháp luật về sở hữu trí tuệ đến các đến tất 
cả mọi đối tượng, chủ yếu tập trung vào các đối 
tượng có khả năng vi phạm cao, như là nam giới, 
 Đồng nhất của 
phương sai 
Kết quả 
ANOVA 
Post Hoc 
(Tamhane’s T2) Kết luận 
Độ tuổi Sig.=0,529>0,05 Sig.=0,152>0,05 
Không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê các nhóm tuổi khác 
nhau. 
Trình 
độ học vấn Sig.=0,743>0,05 
Sig.=0,3
12>0,05 
Không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê các nhóm trình độ 
học vấn. 
Nghề 
nghiệp Sig.=0,350>0,05 
Sig.=0.0
09<0,05 
Sig.=0,012<0,05 
(Kỹ thuật/ Phi kỹ 
thuật) 
Có sự khác biệt giữa nhóm Nhân 
viên kỹ thuật và Nhân viên phi kỹ 
thuật. 
Chuyên 
môn Sig.=0,165>0,05 
Sig.=0.0
00<0,05 
Sig.=0,000<0,05(Ti
n học-điện tử/Kinh tế) 
Sig.=0,000<0,05 
(Kỹ thuật 
khác/Kinh tế) 
Có sự khác biệt giữa nhóm 
chuyên môn Tin học-điện tử với 
Kinh tế và giữa nhóm Kỹ thuật 
khác với Kinh tế. 
Thu 
nhập Sig.=0,474>0,05 
Sig.=0,0
42<0,05 
Sig. > 0,05 giữa các 
nhóm 
Không có sự khác biệt giữa các 
nhóm thu nhập. 
86 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.Q4- 2017 
người trẻ tuổi, có khả năng hiểu biết về công nghệ. 
Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế 
thực hiện luật về sở hữu trí tuệ phù hợp với Bộ luật 
dân sự cũng như Các điều ước quốc tế về sở hữu 
trí tuệ. 
- Tăng mức độ nhận thức rủi ro và cải thiện 
công nghệ ngăn chặn: Giám sát các cộng đồng trực 
tuyến chia sẻ bản quyền phần mềm trái phép, đưa 
ra những cảnh báo vi phạm. Đối với bản quyền 
nhạc số cũng như phim ảnh số, cần có hình thức 
giám sát các website chia sẻ, có biện pháp ngăn 
chặn về mặt kỹ thuật cũng như pháp lý. Đối với 
doanh nghiệp phần mềm, phòng ngừa (Preventive) 
và ngăn chặn (Deterrent) là hai chiến lược phù hợp 
để đối phó với hành vi vi phạm bản quyền số. 
Phòng ngừa là sử dụng các phần mềm kiểm tra, 
tăng mức độ bảo mật (tác động vào nhận thức 
kiểm soát hành vi) làm tăng độ khó khi bẻ khóa. 
Ngăn chặn là tác động vào nhận thức của người vi 
phạm về khả năng bị phát hiện và hậu quả họ có 
thể phải trả giá cho hành vi vi phạm, ngăn chặn 
thông quá giáo dục, tuyên truyền về pháp luật cũng 
như các chiến dịch truyền thông tác động không 
chỉ vào yếu tố rủi ro pháp luật mà còn rủi ro về 
công nghệ, khả năng bị virus, mất thông tin cá 
nhân, phần mềm bẻ khóa không ổn định, chất 
lượng cũng sự chăm sóc khách hàng không thể so 
sánh với phần mềm hợp pháp. 
- Giảm bớt rào cản về giá thành và có nhiều 
phương thức thanh toàn phù hợp: Để đạt hiệu quả 
kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm số 
cần có các chính sách về giá phù hợp với điều kiện 
kinh tế Việt Nam (hình thức cho thuê phần mềm, 
thay vì bán trọn gói sản phẩm). Đa dạng các hình 
thức thanh toán, khuyến khích tạo điều kiện cho 
người dùng tiếp cận sử dụng phần mềm hợp pháp 
miễn phí (bản giới hạn chức năng) bên cạnh các 
bản thương mại, tạo thói quen sử dụng phần mềm 
hợp pháp. 
- Nâng cao chuẩn mực đạo đức: Doanh nghiệp 
nên phối hợp với trường học và xã hội trong việc 
giáo dục, hình thành các giá trị đạo đức phù hợp 
trong việc sử dụng thông tin, sản phẩm số, từng 
bước thay đổi nhận thức về hành vi vi phạm bản 
quyền số ở học sinh, sinh viên và người dân. 
5.3 Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo 
Nghiên cứu cũng còn một số hạn chế như sau: 
(1) mẫu khảo sát còn ít, được thu thập thuận tiện 
và giới hạn ở Tp.HCM, (2) mức độ giải thích của 
mô hình chưa cao (R2< 50%), chứng tỏ còn một số 
yếu tố chưa được xem xét. 
Hướng mở rộng nghiên cứu trong tương lai 
gồm: (1) mở rộng phạm vi khảo sát, so sánh với 
một số tỉnh thành khác, hoặc một vài quốc gia có 
điều kiện tương tự Việt Nam, (2) xem xét nhiều 
hơn đến khía cạnh kinh tế, văn hóa là những yếu 
tố có thể ảnh hưởng đến ý định và hành vi vi phạm 
bản quyền số ở Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] I. Ajzen, “The Theory of Planned Behavior,” 
Organizational Behavior Human Decision Process,vol. 50, 
no. 2, pp. 179–211, 1991. 
[2] S. Al-Rafee, and T. P. Cronan, “Digital Piracy: Factors that 
Influence Attitude Toward Behaviour,”Journal of Business 
Ethics, vol. 63, no. 3, pp. 237–259, 2006. 
[3] S. Al-Rafee, and K. Rouibah,“The fight against digital 
piracy: An experiment,”Telematics and Informatics, vol. 
27, no. 3, pp. 283-292, 2010. 
[4] A.R. Andrés, “The relationship between copyright software 
protection and piracy: Evidence from europe,” European 
Journal of Law and Economics, vol. 21, no. 1, pp. 29-51, 
2006. 
[5] R. P. Bagozzi, and Y. Yi, “On the Evaluation of Structural 
Equation Models,”Journal of the Academy of Marketing 
Science, vol. 6, no. 1, pp. 74‐ 94, 1988. 
[6] Bộ Tư Pháp (2014), Cơ Sở Dữ Liệu Văn Bản Quy Phạm 
Pháp Luật Bộ Tư Pháp. Được lấy về từ Cổng thông tin điện 
tử Bộ Tư Pháp:  
[7] Business Software Alliance, Seizing Opportunity Through 
License Compliance, May 2016. 
[8] M. K. Chang, “Predicting unethical behavior: a comparison 
of the theory of reasoned action on the theory of planned 
behavior,”Journal of Business Ethics, vol. 17, no. 16, pp. 
1825-1834, 1998. 
[9] J. Chiou, C. Huang, and H. Lee, “The Antecedents of Music 
Piracy Attitudes and Intentions,”Journal of Business 
Ethics, vol. 57, no. 2, pp. 161–174, 2005. 
[10] J. Coyle, S. Gould, P. Gupta, andR. Gupta, ‘‘To buy or 
pirate: The matrix of music consumers acquisition-model 
decision-making,”Journal of Business Research, vol. 62, 
pp. 1031–1037, 2009. 
[11] T. P. Cronan, and S. Al-Rafee, “Factors that Influence the 
Intention to Pirate Software and Media,”Journal of 
Business Ethics, vol. 78, no. 4, pp. 527–545, 2008. 
[12] C. Fornell, and D. F. Larcker, “Evaluating Structural 
Equation Models with Unobservable Variables and 
Measurement Error,”Journal of Marketing Research , vol. 
18, no.1, pp. 39-50, 1981. 
[13] N.D. Gomes, P.A. Cerqueira, L.A. Almeida, “A Survey on 
Software Piracy Empirical Literature: Stylized Facts and 
Theory,”Information Economics and Policy, 2015. 
[14] R. D. Gopal, and G. L. Sanders, “Preventive and deterrent 
controls for software piracy,”Journal of Management 
Information Systems, vol. 13, no. 4, pp. 29-47, 1997. 
[15] R. Haines, and D. Haines, “Fairness, Guilt, and Perceived 
Importance as Antecedents of Intellectual Property Piracy 
Intentions.”Proceedings of the 28nd International 
Conference on Information Systems 2007. 
[16] T. P. T. Hoàng and H. H. Hà, “Thái độ và ý định vi phạm 
bản quyền phần mềm của sinh viên Việt Nam,”Tạp chí 
Phát triển KH&CN, vol.17, no. 4Q, 2014. 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số Q4-2017 87 
[17] C.Liao, H. Lin, Y. Liu, “Predicting the Use of Pirated 
Software: A Contingency Model Integrating Perceived 
Risk with the Theory of Planned Behavior,” Journal of 
Business Ethics, vol. 91, no. 2, pp. 237–253, 2010. 
[18] Đ. T. Nguyễn và T. M.T. Nguyễn, Nghiên cứu khoa học 
trong quản trị kinh doanh, NXB Thống kê, 2009. 
[19] G. Peace, D. Galletta, and L. Thong, “Software Piracy in 
the Workplace: A Model and Empirical Test,”Journal of 
Management Information Systems, vol. 20, no. 1, pp. 153–
177, 2003. 
[20] Q. T. Phạm, Giáo trình quản lý tri thức, NXB Xây dựng, 
2016. 
[21] R. E. Reidenbach, and D. P. Robin, “Some Initial Steps 
Toward Improving the Measurement of Ethical Evaluations 
of Marketing Activities,”Journal of Business Ethics, vol. 7, 
no. 11, pp. 871–879, 1988. 
[22] Y. Sang, J. Lee, Y. Kim and H. Woo, “Understanding the 
intentions behind illegal downloading: A comparative 
study of American and Korean college 
students,”Telematics and Informatic, vol. 32, no. 2, pp. 
333-343, 2014. 
[23] R. A.Shang, Y.C.Chen,and P.C.Chen, “Ethical decisions 
about sharing music files in the P2P environment,”Journal 
of Business Ethics, vol. 80, no. 2, pp. 349–365, 2008. 
[24] R. R.Sims, H. K.Cheng and H. Teegen,“Toward a profile 
of student software piraters,”Journal of Business Ethics, 
vol. 15, no. 8 , pp. 839–849, 1996. 
[25] S. Taylor and P. Todd,“Understanding information 
technology usage: a test of competing models,”Information 
Systems Research, vol. 6, no. 2, pp. 144-176, 1995. 
[26] V. Venkatesh, M. Morris, G. Davis and F. Davis, “User 
acceptance of information technology: Toward a unified 
view,”MIS Quarterly, vol. 7, no. 3, pp. 425–478, 2003. 
[27] V. Venkatesh, Y. L. M. Thong and X. Xu, “Consumer 
Acceptance and Use of Information Technology: 
Extending the Unified Theory of Acceptance and Use of 
Technology,”MIS Quarterly, vol. 36, no. 1, pp. 157-178, 
2012. 
[28] D. J. Woolleyand M. M. Eining, “Software piracy among 
accounting students: A longitudinal comparison of changes 
and sensitivity,”Journal of Information Systems, vol. 20, 
no. 1, pp. 49–63, 2006. 
[29] H. Wulandari, “Economy and technology as influential 
factors for digital piracy sustainability: an Indonesian 
case,”Procedia – Social and Behavioral Sciences, vol. 164, 
pp. 112–117, 2014. 
[30] C. Yoon, “Theory of planned behavior and ethics theory in 
digital piracy: An integrated model,”Journal of Business 
Ethics, vol. 100, no. 3, pp. 405–417, 2011. 
TS. Phạm Quốc Trung, Phó trưởng khoa, Khoa 
Quản lý Công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa 
- ĐHQG-HCM. Địa chỉ e-mail: 
pqtrung@hcmut.edu.vn. Ông đã nhận bằng Cử 
nhân Toán-Tin học và Thạc sĩ Công nghệ Thông 
tin từ Đại học Khoa học Tự nhiên Tp.HCM, và 
nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế từ Đại học Kyoto, Nhật 
Bản. Chủ đề nghiên cứu chính của ông bao gồm : 
hệ tìm kiếm thông tin, HTTTQL, hệ hỗ trợ ra 
quyết định, thương mại điện tử, đổi mới sáng tạo, 
quản lý tri thức Ông đã xuất bản và giảng dạy về 
các chủ đề trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin, 
Hệ thống Thông tin Quản lý, và Quản lý Tri thức. 
ThS. Đặng Nhựt Minh, Học viên cao học Khoa 
Quản lý Công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa 
- ĐHQG-HCM. Địa chỉ e-mail: 
dangnhutminh@gmail.com. 
Impact factors of personal digital piracy 
behavior in Vietnam 
Abstract - This study aimed to find out factors influencing personal digital piracy behavior in Viet 
Nam, and to make recommendations mitigate this situation. Based on the Theory of Planned Behavior 
(TPB), and the Unified Theory of Acceptance and Use of Technology (UTAUT), this study will propose 
an integrated model that combines psychological, moral, and technological aspects to understand the 
factors that affect digital piracy in Vietnam. The sample consists of 264 students, graduated students, 
technical and non-technical staffs in Ho Chi Minh City. The research model was examined by statistical 
tools such as Cronbach Alpha, EFA, CFA, SEM and ANOVA. The results show that the intention to 
digital piracy the great influence on behavior, and perceived behavioral control strongly influences intent. 
On the other hand, perceived behavioral control is influenced by other factors such as technology 
development and perceived risk. Based on the findings of the study, the authors have made several 
suggestions to help regulatory agencies and businesses have appropriate strategies to prevent digital 
piracy in Vietnam. From there, promoting the development of the economy in the digital and information 
age, and helping Vietnam to successfully transition to a knowledge-based economy. 
Keywords - Digital piracy, TPB, Intellectual Property, Vietnam 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_hanh_vi_ca_nhan_vi_pham_ban_quyen_s.pdf