Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm
bản quyền số ở Việt Nam, và đưa ra khuyến
nghị nhằm hạn chế tình trạng này. Dựa trên mô
hình lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of
Planned Behavior - TPB), và mô hình chấp
nhận công nghệ hợp nhất (Unified Theory of
Acceptance and Use of Technology - UTAUT),
nghiên cứu đề xuất một mô hình tích hợp các
khía cạnh tâm lý, đạo đức, và công nghệ để
khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi
phạm bản quyền số (VPBQS) ở Việt Nam. Mẫu
khảo sát bao gồm 264 sinh viên, học viên cao
học, nhân viên kỹ thuật, phi kỹ thuật cũng như
quản lý các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh. Mô
hình nghiên cứu được kiểm định bằng các công
cụ thống kê như: Cronbach Alpha, phân tích
nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố
khẳng định (CFA), mô hình cấu trúc tuyến tính
(SEM) và phân tích khác biệt nhóm (ANOVA).
Kết quả cho thấy ý định vi phạm ảnh hưởng lớn
đến hành vi, và nhận thức kiểm soát hành vi
ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định. Mặt khác,
nhận thức kiểm soát hành vi chịu chi phối từ
những yếu tố khách quan như sự phát triển
công nghệ và nhận thức về rủi ro. Trên cơ sở
các kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã có
một số đề xuất và gợi ý trong việc giúp các cơ
quan quản lý cũng như doanh nghiệp có những
chiến lược phù hợp nhằm ngăn cản hành vi
VPBQS ở Việt Nam. Từ đó, thúc đẩy sự phát
triển lành mạnh của nền kinh tế trong thời đại
kỹ thuật số, và giúp Việt Nam có thể chuyển đổi
thành công sang nền kinh tế tri thức.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam
78 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.Q4- 2017 Tóm tắt–Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam, và đưa ra khuyến nghị nhằm hạn chế tình trạng này. Dựa trên mô hình lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of Planned Behavior - TPB), và mô hình chấp nhận công nghệ hợp nhất (Unified Theory of Acceptance and Use of Technology - UTAUT), nghiên cứu đề xuất một mô hình tích hợp các khía cạnh tâm lý, đạo đức, và công nghệ để khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi phạm bản quyền số (VPBQS) ở Việt Nam. Mẫu khảo sát bao gồm 264 sinh viên, học viên cao học, nhân viên kỹ thuật, phi kỹ thuật cũng như quản lý các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình nghiên cứu được kiểm định bằng các công cụ thống kê như: Cronbach Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) và phân tích khác biệt nhóm (ANOVA). Kết quả cho thấy ý định vi phạm ảnh hưởng lớn đến hành vi, và nhận thức kiểm soát hành vi ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định. Mặt khác, nhận thức kiểm soát hành vi chịu chi phối từ những yếu tố khách quan như sự phát triển công nghệ và nhận thức về rủi ro. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã có một số đề xuất và gợi ý trong việc giúp các cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp có những chiến lược phù hợp nhằm ngăn cản hành vi VPBQS ở Việt Nam. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế trong thời đại kỹ thuật số, và giúp Việt Nam có thể chuyển đổi thành công sang nền kinh tế tri thức. Bài nhận ngày 20 tháng 07 năm 2017, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 06 tháng 11 năm 2017. Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Đề tài mã số C2017-20-41. Phạm Quốc Trung, Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG- HCM (e-mail: pqtrung@hcmut.edu.vn). Đặng Nhựt Minh, Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG- HCM (e-mail: dangnhutminh@gmail.com). Từ khóa–Vi phạm bản quyền số, lý thuyết hành vi hoạch định, sở hữu trí tuệ, Việt Nam 1. GIỚI THIỆU heo liên minh phần mềm BSA thì 39% phần mềm cài đặt trên máy tính toàn thế giới năm 2015 không có bản quyền hợp pháp, so với mức 43% theo nghiên cứu trước của BSA năm 2013. Theo kết quả khảo sát này, tỷ lệ sử dụng phần mềm máy tính không bản quyền ở Việt Nam năm 2015 là 78%, giảm 3% so với năm 2013. Như vậy, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm máy tính ở Việt Nam đã giảm liên tục từ 85% năm 2009 xuống 83% năm 2010 và 81% vào năm 2011 và 2013; cho tới 78% năm 2015 theo kết quả khảo sát mới được công bố. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực thì tỷ lệ này vẫn còn tương đối cao (Malaysia 53%, Thái Lan 69%, Trung Quốc 70%) và so với khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là 61% và trên toàn thế giới là 39% [7]. Nhiều tác giả đã sử dụng mô hình Lý thuyết hành vi hoạch định (TPB) để giải thích ý định hành vi vi phạm bản quyền số, như: Peace và cộng sự [19] nghiên cứu vi phạm bản quyền phần mềm, nghiên cứu về vi phạm bản quyền sản phẩm số nói chung [11], Yoon [30] cũng đã sử dụng mô hình TPB kết hợp các lý thuyết về đạo đức, thói quen nghiên cứu trên đối tượng sinh viên tại Trung Quốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường tập trung vào một vài khía cạnh (tâm lý, đạo đức, pháp luật, công nghệ, kinh tế) mà không bao quát, hoặc tập trung vào đối tượng chủ yếu là sinh viên (những người chưa tự chủ về mặt kinh tế), hoặc chỉ xét một dòng sản phẩm số cụ thể như: phần mềm, nhạc số Hơn nữa, các nghiên cứu về chủ đề này ở Việt Nam còn tương đối ít, vì vậy cần có thêm nhiều nghiên cứu về hành vi vi phạm bản quyền số ở bối cảnh Việt Nam. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả muốn xem xét ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của Pháp luật về Sở hữu trí tuệ, sự phát triển của công nghệ, các yếu tố về tâm lý, đạo đức, và các yếu tố nhân khẩu, đến ý định và hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân vi phạm bản quyền số ở Việt Nam Phạm Quốc Trung, Đặng Nhựt Minh T Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số Q4-2017 79 Nam. Ngoài ra, việc mở rộng phạm vi nghiên cứu ra cả những đối tượng học viên cao học và người đã đi làm, sẽ giúp nghiên cứu có góc nhìn tổng quát hơn về ý định và hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam. Do đó, nghiên cứu này sẽ tích hợp các mô hình trước đây, như: lý thuyết hành vi hoạch định (TPB), mô hình chấp nhận công nghệ (TAM), mô hình chấp nhận công nghệ hợp nhất (UTAUT) và một số mô hình liên quan nhằm tìm hiểu về hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam. Mục tiêu chính của nghiên cứu bao gồm: (1) Xác định và đo lường mức độ tác động của các yếu tố đến ý định và hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam, và (2) Đề xuất hàm ý quản lý nhằm hạn chế hành vi vi phạm bản quyền số ở bối cảnh Việt Nam. Cấu trúc của bài báo gồm các phần sau: (2) Cơ sở lý thuyết & ... phạm, từ đó làm tăng khả năng vi phạm bản quyền số. Bên cạnh đó, phần lớn đối tượng khảo sát đều cho rằng giá cả phần mềm là cao (71.6%), cộng với việc thuận lợi trong sử dụng phần mềm trái phép, nên yếu tố thu nhập đã không tác động nhiều đến ý định hành vi của mẫu khảo sát. Việc vi phạm bản quyền số tại Việt Nam đã diễn ra trong nhiều năm, vì vậy, nó đã hình thành thói quen, và trở thành một yếu tố văn hóa, chính vì vậy người có thu nhập cao hay thấp không phải là yếu tố quyết định. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Yoon [30], theo đó, thói quen tác động mạnh đến thái độ tán thành đối với ý định vi phạm bản quyền số. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số Q4-2017 85 BẢNG 2. KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ANOVA GIẢ THUYẾT H12 VÀ KẾT LUẬN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận và thảo luận Tóm lại, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hành vi vi phạm bản quyền số bị chi phối bởi ý định, điều này có nghĩa là ý định vi phạm càng cao thì dẫn đến hành vi vi phạm càng cao (0,47). Ngoài ra hành vi vi phạm cũng bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi, đó là sự dễ dàng trong việc tìm thấy và bẻ khóa cũng như sử dụng các sản phẩm số trái phép (0,26). Sự phát triển của công nghệ cũng góp phần làm gia tăng hành vi vi phạm bản quyền số (0,36). Ngoài ra, kết quả cho thấy ý định hành vi không bị ảnh hưởng của chuẩn chủ quan, tuy nhiên thái độ tán đồng đối với hành vi vi phạm sẽ làm tăng ý định vi phạm (0,17) và nhận thức kiểm soát hành vi (sự dễ dàng trong việc tìm và bẻ khóa sản phẩm số) có tác động lớn đến ý định vi phạm (0,44). Bên cạnh đó, chuẩn chủ quan có ảnh hưởng dương (+) đến thái độ, điều này tương đồng với nghiên cứu của Hoàng và Hà [16]. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng nghĩa vụ đạo đức càng cao thì sẽ giảm chuẩn chủ quan về ý định vi phạm. Nhận thức về rủi ro có thể gặp phải càng cao sẽ làm giảm thái độ tán thành đối với ý định vi phạm (-0,22) và đồng thời tác động đến nhận thức kiểm soát hành vi làm giảm ý định vi phạm bản quyền số (-0,34). Hơn nữavai trò của nhận thức cũng như thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ cao cũng sẽ làm giảm ý định vi phạm (-0,2). Mặt khác, để tìm hiểu ảnh hưởng của khía cạnh kinh tế, qua khảo sát về giá thành một số sản phẩm số, cũng như từ nhiều ý kiến đóng góp từ đáp viên cho thấy giá sản phẩm số ở Việt Nam hiện nay là tương đối cao so với mặt bằng thu nhập (đánh giá chung: 3,9/ 5). Trong câu hỏi mở của bảng câu hỏi về lý do cho việc vi phạm bản quyền số. Kết quả cho thấy ngoài giá cả, trở ngại trong việc thanh toán, đặc biệt là đối với các website cung cấp sản phẩm số ở nước ngoài cũng đã được nêu ra. 5.2 Kiến nghị Từ kết quả phân tích trên, một vài kiến nghị được đề xuất để giúp hạn chế hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam như sau: - Nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ: Nhà nước đã ban hành nhiều quy định, kể cả hình thức chế tài đối với vi phạm bản quyền số, tuy nhiên mức độ thực thi chưa đạt hiệu quả cao. Việc thanh tra vi phạm bản quyền số được thực hiện bởi Thanh tra sở văn hóa du lịch và thể thao kết hợp với Cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm sử dụng Công nghệ cao C50 (Bộ Công an) chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp, tuy nhiên đối với hình thức vi phạm cá nhân thì vẫn không mang đến hiệu quả. Muốn giảm hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm không chỉ thông qua việc thanh tra giám sát mà còn phải thông qua việc đưa ra những khung pháp lý mang tính răn đe, tuyên truyền những nội dung quy định cũng như mức phạt của pháp luật về sở hữu trí tuệ đến các đến tất cả mọi đối tượng, chủ yếu tập trung vào các đối tượng có khả năng vi phạm cao, như là nam giới, Đồng nhất của phương sai Kết quả ANOVA Post Hoc (Tamhane’s T2) Kết luận Độ tuổi Sig.=0,529>0,05 Sig.=0,152>0,05 Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê các nhóm tuổi khác nhau. Trình độ học vấn Sig.=0,743>0,05 Sig.=0,3 12>0,05 Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê các nhóm trình độ học vấn. Nghề nghiệp Sig.=0,350>0,05 Sig.=0.0 09<0,05 Sig.=0,012<0,05 (Kỹ thuật/ Phi kỹ thuật) Có sự khác biệt giữa nhóm Nhân viên kỹ thuật và Nhân viên phi kỹ thuật. Chuyên môn Sig.=0,165>0,05 Sig.=0.0 00<0,05 Sig.=0,000<0,05(Ti n học-điện tử/Kinh tế) Sig.=0,000<0,05 (Kỹ thuật khác/Kinh tế) Có sự khác biệt giữa nhóm chuyên môn Tin học-điện tử với Kinh tế và giữa nhóm Kỹ thuật khác với Kinh tế. Thu nhập Sig.=0,474>0,05 Sig.=0,0 42<0,05 Sig. > 0,05 giữa các nhóm Không có sự khác biệt giữa các nhóm thu nhập. 86 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.Q4- 2017 người trẻ tuổi, có khả năng hiểu biết về công nghệ. Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế thực hiện luật về sở hữu trí tuệ phù hợp với Bộ luật dân sự cũng như Các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. - Tăng mức độ nhận thức rủi ro và cải thiện công nghệ ngăn chặn: Giám sát các cộng đồng trực tuyến chia sẻ bản quyền phần mềm trái phép, đưa ra những cảnh báo vi phạm. Đối với bản quyền nhạc số cũng như phim ảnh số, cần có hình thức giám sát các website chia sẻ, có biện pháp ngăn chặn về mặt kỹ thuật cũng như pháp lý. Đối với doanh nghiệp phần mềm, phòng ngừa (Preventive) và ngăn chặn (Deterrent) là hai chiến lược phù hợp để đối phó với hành vi vi phạm bản quyền số. Phòng ngừa là sử dụng các phần mềm kiểm tra, tăng mức độ bảo mật (tác động vào nhận thức kiểm soát hành vi) làm tăng độ khó khi bẻ khóa. Ngăn chặn là tác động vào nhận thức của người vi phạm về khả năng bị phát hiện và hậu quả họ có thể phải trả giá cho hành vi vi phạm, ngăn chặn thông quá giáo dục, tuyên truyền về pháp luật cũng như các chiến dịch truyền thông tác động không chỉ vào yếu tố rủi ro pháp luật mà còn rủi ro về công nghệ, khả năng bị virus, mất thông tin cá nhân, phần mềm bẻ khóa không ổn định, chất lượng cũng sự chăm sóc khách hàng không thể so sánh với phần mềm hợp pháp. - Giảm bớt rào cản về giá thành và có nhiều phương thức thanh toàn phù hợp: Để đạt hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm số cần có các chính sách về giá phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam (hình thức cho thuê phần mềm, thay vì bán trọn gói sản phẩm). Đa dạng các hình thức thanh toán, khuyến khích tạo điều kiện cho người dùng tiếp cận sử dụng phần mềm hợp pháp miễn phí (bản giới hạn chức năng) bên cạnh các bản thương mại, tạo thói quen sử dụng phần mềm hợp pháp. - Nâng cao chuẩn mực đạo đức: Doanh nghiệp nên phối hợp với trường học và xã hội trong việc giáo dục, hình thành các giá trị đạo đức phù hợp trong việc sử dụng thông tin, sản phẩm số, từng bước thay đổi nhận thức về hành vi vi phạm bản quyền số ở học sinh, sinh viên và người dân. 5.3 Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo Nghiên cứu cũng còn một số hạn chế như sau: (1) mẫu khảo sát còn ít, được thu thập thuận tiện và giới hạn ở Tp.HCM, (2) mức độ giải thích của mô hình chưa cao (R2< 50%), chứng tỏ còn một số yếu tố chưa được xem xét. Hướng mở rộng nghiên cứu trong tương lai gồm: (1) mở rộng phạm vi khảo sát, so sánh với một số tỉnh thành khác, hoặc một vài quốc gia có điều kiện tương tự Việt Nam, (2) xem xét nhiều hơn đến khía cạnh kinh tế, văn hóa là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến ý định và hành vi vi phạm bản quyền số ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] I. Ajzen, “The Theory of Planned Behavior,” Organizational Behavior Human Decision Process,vol. 50, no. 2, pp. 179–211, 1991. [2] S. Al-Rafee, and T. P. Cronan, “Digital Piracy: Factors that Influence Attitude Toward Behaviour,”Journal of Business Ethics, vol. 63, no. 3, pp. 237–259, 2006. [3] S. Al-Rafee, and K. Rouibah,“The fight against digital piracy: An experiment,”Telematics and Informatics, vol. 27, no. 3, pp. 283-292, 2010. [4] A.R. Andrés, “The relationship between copyright software protection and piracy: Evidence from europe,” European Journal of Law and Economics, vol. 21, no. 1, pp. 29-51, 2006. [5] R. P. Bagozzi, and Y. Yi, “On the Evaluation of Structural Equation Models,”Journal of the Academy of Marketing Science, vol. 6, no. 1, pp. 74‐ 94, 1988. [6] Bộ Tư Pháp (2014), Cơ Sở Dữ Liệu Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Bộ Tư Pháp. Được lấy về từ Cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp: [7] Business Software Alliance, Seizing Opportunity Through License Compliance, May 2016. [8] M. K. Chang, “Predicting unethical behavior: a comparison of the theory of reasoned action on the theory of planned behavior,”Journal of Business Ethics, vol. 17, no. 16, pp. 1825-1834, 1998. [9] J. Chiou, C. Huang, and H. Lee, “The Antecedents of Music Piracy Attitudes and Intentions,”Journal of Business Ethics, vol. 57, no. 2, pp. 161–174, 2005. [10] J. Coyle, S. Gould, P. Gupta, andR. Gupta, ‘‘To buy or pirate: The matrix of music consumers acquisition-model decision-making,”Journal of Business Research, vol. 62, pp. 1031–1037, 2009. [11] T. P. Cronan, and S. Al-Rafee, “Factors that Influence the Intention to Pirate Software and Media,”Journal of Business Ethics, vol. 78, no. 4, pp. 527–545, 2008. [12] C. Fornell, and D. F. Larcker, “Evaluating Structural Equation Models with Unobservable Variables and Measurement Error,”Journal of Marketing Research , vol. 18, no.1, pp. 39-50, 1981. [13] N.D. Gomes, P.A. Cerqueira, L.A. Almeida, “A Survey on Software Piracy Empirical Literature: Stylized Facts and Theory,”Information Economics and Policy, 2015. [14] R. D. Gopal, and G. L. Sanders, “Preventive and deterrent controls for software piracy,”Journal of Management Information Systems, vol. 13, no. 4, pp. 29-47, 1997. [15] R. Haines, and D. Haines, “Fairness, Guilt, and Perceived Importance as Antecedents of Intellectual Property Piracy Intentions.”Proceedings of the 28nd International Conference on Information Systems 2007. [16] T. P. T. Hoàng and H. H. Hà, “Thái độ và ý định vi phạm bản quyền phần mềm của sinh viên Việt Nam,”Tạp chí Phát triển KH&CN, vol.17, no. 4Q, 2014. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số Q4-2017 87 [17] C.Liao, H. Lin, Y. Liu, “Predicting the Use of Pirated Software: A Contingency Model Integrating Perceived Risk with the Theory of Planned Behavior,” Journal of Business Ethics, vol. 91, no. 2, pp. 237–253, 2010. [18] Đ. T. Nguyễn và T. M.T. Nguyễn, Nghiên cứu khoa học trong quản trị kinh doanh, NXB Thống kê, 2009. [19] G. Peace, D. Galletta, and L. Thong, “Software Piracy in the Workplace: A Model and Empirical Test,”Journal of Management Information Systems, vol. 20, no. 1, pp. 153– 177, 2003. [20] Q. T. Phạm, Giáo trình quản lý tri thức, NXB Xây dựng, 2016. [21] R. E. Reidenbach, and D. P. Robin, “Some Initial Steps Toward Improving the Measurement of Ethical Evaluations of Marketing Activities,”Journal of Business Ethics, vol. 7, no. 11, pp. 871–879, 1988. [22] Y. Sang, J. Lee, Y. Kim and H. Woo, “Understanding the intentions behind illegal downloading: A comparative study of American and Korean college students,”Telematics and Informatic, vol. 32, no. 2, pp. 333-343, 2014. [23] R. A.Shang, Y.C.Chen,and P.C.Chen, “Ethical decisions about sharing music files in the P2P environment,”Journal of Business Ethics, vol. 80, no. 2, pp. 349–365, 2008. [24] R. R.Sims, H. K.Cheng and H. Teegen,“Toward a profile of student software piraters,”Journal of Business Ethics, vol. 15, no. 8 , pp. 839–849, 1996. [25] S. Taylor and P. Todd,“Understanding information technology usage: a test of competing models,”Information Systems Research, vol. 6, no. 2, pp. 144-176, 1995. [26] V. Venkatesh, M. Morris, G. Davis and F. Davis, “User acceptance of information technology: Toward a unified view,”MIS Quarterly, vol. 7, no. 3, pp. 425–478, 2003. [27] V. Venkatesh, Y. L. M. Thong and X. Xu, “Consumer Acceptance and Use of Information Technology: Extending the Unified Theory of Acceptance and Use of Technology,”MIS Quarterly, vol. 36, no. 1, pp. 157-178, 2012. [28] D. J. Woolleyand M. M. Eining, “Software piracy among accounting students: A longitudinal comparison of changes and sensitivity,”Journal of Information Systems, vol. 20, no. 1, pp. 49–63, 2006. [29] H. Wulandari, “Economy and technology as influential factors for digital piracy sustainability: an Indonesian case,”Procedia – Social and Behavioral Sciences, vol. 164, pp. 112–117, 2014. [30] C. Yoon, “Theory of planned behavior and ethics theory in digital piracy: An integrated model,”Journal of Business Ethics, vol. 100, no. 3, pp. 405–417, 2011. TS. Phạm Quốc Trung, Phó trưởng khoa, Khoa Quản lý Công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG-HCM. Địa chỉ e-mail: pqtrung@hcmut.edu.vn. Ông đã nhận bằng Cử nhân Toán-Tin học và Thạc sĩ Công nghệ Thông tin từ Đại học Khoa học Tự nhiên Tp.HCM, và nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế từ Đại học Kyoto, Nhật Bản. Chủ đề nghiên cứu chính của ông bao gồm : hệ tìm kiếm thông tin, HTTTQL, hệ hỗ trợ ra quyết định, thương mại điện tử, đổi mới sáng tạo, quản lý tri thức Ông đã xuất bản và giảng dạy về các chủ đề trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin, Hệ thống Thông tin Quản lý, và Quản lý Tri thức. ThS. Đặng Nhựt Minh, Học viên cao học Khoa Quản lý Công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG-HCM. Địa chỉ e-mail: dangnhutminh@gmail.com. Impact factors of personal digital piracy behavior in Vietnam Abstract - This study aimed to find out factors influencing personal digital piracy behavior in Viet Nam, and to make recommendations mitigate this situation. Based on the Theory of Planned Behavior (TPB), and the Unified Theory of Acceptance and Use of Technology (UTAUT), this study will propose an integrated model that combines psychological, moral, and technological aspects to understand the factors that affect digital piracy in Vietnam. The sample consists of 264 students, graduated students, technical and non-technical staffs in Ho Chi Minh City. The research model was examined by statistical tools such as Cronbach Alpha, EFA, CFA, SEM and ANOVA. The results show that the intention to digital piracy the great influence on behavior, and perceived behavioral control strongly influences intent. On the other hand, perceived behavioral control is influenced by other factors such as technology development and perceived risk. Based on the findings of the study, the authors have made several suggestions to help regulatory agencies and businesses have appropriate strategies to prevent digital piracy in Vietnam. From there, promoting the development of the economy in the digital and information age, and helping Vietnam to successfully transition to a knowledge-based economy. Keywords - Digital piracy, TPB, Intellectual Property, Vietnam
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_hanh_vi_ca_nhan_vi_pham_ban_quyen_s.pdf