Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ

Nếu tạm gác vấn đề khuynh hướng

hệ tư tưởng chính trị và những giá trị

nhân văn trong gia tài văn hóa của

người Mỹ, mà chỉ kể đến kết quả là một

nền kinh tế khổng lồ của nước Mỹ sau

hơn 200 năm lập quốc, người ta có thể

rút ra được nhiều bài học về việc hoạch

định các chiến lược quốc gia. ở đây

chúng tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề giáo

dục bậc cao và cũng chỉ nói tới một phần

của vấn đề đó, đó là lĩnh vực thư viện

đại học Mỹ ở bước ngoặt lịch sử năm

1876.

Nước Mỹ ra đời vào năm 1776 như

kết quả của cuộc chiến tranh giải phóng

khỏi sự phụ thuộc vào nước Anh về mặt

chính trị. Tuy nhiên, những trường đại

học cùng với thư viện của chúng trên

đất Mỹ đã ra đời trước đó hơn 100 năm,

nếu lấy mốc 1636, thời điểm ra đời của

trường đại học đầu tiên, Đại học

Harvard. Không kể văn hóa của cư dân

bản địa tiền Colombo, văn hóa Mỹ, đặc

biệt là giáo dục bậc cao, lúc đầu là sự

tiếp nối truyền thống châu Âu,(*)bởi nó

được chuyển sang lục địa Bắc Mỹ cùng

với những dân nhập cư chủ yếu từ các

dân tộc châu Âu, ít nhất là ở các thế kỷ

XVI, XVII, XVIII. Một đặc điểm rất

đáng kể ở những dân nhập cư này là

thái độ trân trọng đối với sách. Những

tủ sách gia đình theo chân họ từ châu

Âu tới đất Mỹ chính là những cội nguồn

đầu tiên của thư viện trên vùng đất mới

này. Hầu như tất cả sách của các thư

viện đầu tiên ở Mỹ đều do các cá nhân

hay tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn

giáo. biếu tặng. Thư viện Trường Đại

học Harvard là một ví dụ điển hình.

Gần 300 cuốn sách đầu tiên của thư

viện chính là quà tặng của người sáng

lập nhà trường, ông John Harvard.

Nguồn bổ sung sách cho các thư viện

cũng chủ yếu là quà biếu của các cá

nhân và các tổ chức nói trên trong hơn

một thế kỷ tiếp theo kể từ khi các thư

viện đầu tiên ra đời.

 

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ trang 1

Trang 1

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ trang 2

Trang 2

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ trang 3

Trang 3

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ trang 4

Trang 4

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ trang 5

Trang 5

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 7100
Bạn đang xem tài liệu "Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ

Bước ngoặt 1876 của thư viện đại học Mỹ
 B−ớc ngoặt 1876 
của th− viện đại học mỹ 
Nguyễn Huy Ch−ơng(*) 
ừ cuối thế kỷ XIX, Hoa Kỳ trở 
thành một trong những n−ớc công 
nghiệp hàng đầu trên thế giới. Vai trò 
đó đ−ợc duy trì suốt thế kỷ XX, và cho 
đến tận ngày nay, ng−ời ta cũng khó mà 
tìm đ−ợc đầy đủ những cơ sở để dự báo 
là n−ớc này sẽ đánh mất vai trò đó ít 
nhất là trong một t−ơng lai gần. Đó là 
một sự thật. 
Nếu tạm gác vấn đề khuynh h−ớng 
hệ t− t−ởng chính trị và những giá trị 
nhân văn trong gia tài văn hóa của 
ng−ời Mỹ, mà chỉ kể đến kết quả là một 
nền kinh tế khổng lồ của n−ớc Mỹ sau 
hơn 200 năm lập quốc, ng−ời ta có thể 
rút ra đ−ợc nhiều bài học về việc hoạch 
định các chiến l−ợc quốc gia. ở đây 
chúng tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề giáo 
dục bậc cao và cũng chỉ nói tới một phần 
của vấn đề đó, đó là lĩnh vực th− viện 
đại học Mỹ ở b−ớc ngoặt lịch sử năm 
1876. 
N−ớc Mỹ ra đời vào năm 1776 nh− 
kết quả của cuộc chiến tranh giải phóng 
khỏi sự phụ thuộc vào n−ớc Anh về mặt 
chính trị. Tuy nhiên, những tr−ờng đại 
học cùng với th− viện của chúng trên 
đất Mỹ đã ra đời tr−ớc đó hơn 100 năm, 
nếu lấy mốc 1636, thời điểm ra đời của 
tr−ờng đại học đầu tiên, Đại học 
Harvard. Không kể văn hóa của c− dân 
bản địa tiền Colombo, văn hóa Mỹ, đặc 
biệt là giáo dục bậc cao, lúc đầu là sự 
tiếp nối truyền thống châu Âu,(*)bởi nó 
đ−ợc chuyển sang lục địa Bắc Mỹ cùng 
với những dân nhập c− chủ yếu từ các 
dân tộc châu Âu, ít nhất là ở các thế kỷ 
XVI, XVII, XVIII. Một đặc điểm rất 
đáng kể ở những dân nhập c− này là 
thái độ trân trọng đối với sách. Những 
tủ sách gia đình theo chân họ từ châu 
Âu tới đất Mỹ chính là những cội nguồn 
đầu tiên của th− viện trên vùng đất mới 
này. Hầu nh− tất cả sách của các th− 
viện đầu tiên ở Mỹ đều do các cá nhân 
hay tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn 
giáo... biếu tặng. Th− viện Tr−ờng Đại 
học Harvard là một ví dụ điển hình. 
Gần 300 cuốn sách đầu tiên của th− 
viện chính là quà tặng của ng−ời sáng 
lập nhà tr−ờng, ông John Harvard. 
Nguồn bổ sung sách cho các th− viện 
cũng chủ yếu là quà biếu của các cá 
nhân và các tổ chức nói trên trong hơn 
một thế kỷ tiếp theo kể từ khi các th− 
viện đầu tiên ra đời. 
B−ớc ngoặt lịch sử năm 1876 của 
ngành Th− viện đại học Mỹ là kết quả 
của sự hình thành và phát triển của 
(*) TS., Giám đốc Trung tâm Thông tin – Th− 
viện, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
T 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 8, 2008 34 
ngành này trong hơn một thế kỷ. Nh−ng 
chính xác hơn thì phải nói rằng đó là 
kết quả của một tập quán tốt ở đông đảo 
ng−ời Mỹ, tập quán quý trọng tri thức, 
khao khát tri thức, lại đ−ợc đặt trong 
bối cảnh của cuộc cách mạng công 
nghiệp đ−ợc bắt đầu từ tr−ớc cuộc Nội 
chiến 1861. 
Tr−ớc thời điểm này, giáo dục đại 
học ở Mỹ về cơ bản giống nh− nền giáo 
dục đại học cổ điển ở châu Âu. Nói 
chung, nền giáo dục ấy còn tách rời thực 
tiễn, hay nói cho đúng hơn thực tiễn 
tiền công nghiệp ch−a đòi hỏi gì nhiều ở 
nó. Các môn học đ−ợc coi trọng nhất là 
thần học, nghệ thuật tự do, văn học cổ, 
triết học, y học và luật học (chủ yếu là 
luật La Mã). Sản phẩm của nền giáo 
dục đó là những trí thức không quan 
tâm tới đời sống sản xuất, nặng óc kinh 
viện, tách khỏi các tầng lớp khác trong 
dân c−. Sinh viên cũng xuất thân chủ 
yếu từ tầng lớp trung l−u trở lên. Các 
giai cấp lao động bị gạt ra bên lề hoạt 
động giáo dục, nhất là giáo dục đại học. 
Điều đặc biệt là sự lạc hậu của công 
nghệ giáo dục. Công việc giảng dạy chủ 
yếu là độc thoại và học thuộc lòng: Thầy 
giảng, trò ghi, rồi học thuộc lòng và trả 
bài qua các kỳ kiểm tra. Với cung cách 
này thì quá khứ thống trị hiện tại và 
nhà tr−ờng không phải là nơi đào tạo ra 
những con ng−ời năng động sáng tạo. 
Nh−ng thực tiễn luôn luôn cao hơn 
lý luận, luôn biết tự mở cho mình con 
đ−ờng chân lý. Thực tiễn n−ớc Mỹ lại là 
một thực tiễn sôi động. Đến vùng đất 
mới, dân nhập c− ở bất kỳ thời nào đều 
là những ng−ời đã bứt khỏi cái nôi 
truyền thống. Chế độ quý tộc trung cận 
đại châu Âu và các di sản của nó bị vứt 
lại Lục địa cổ. Dân nhập c− phải đối 
mặt với thực trạng "tồn tại hay không 
tồn tại" và hành động là triết lý căn bản 
của ng−ời Mỹ. Những tham vọng cọ sát 
với nhau, và mỗi ng−ời, mỗi tầng lớp, 
mỗi nhóm c− dân chỉ trụ nổi trên vùng 
đất Mỹ nếu hành động thành công. 
Thực tiễn Mỹ đã tạo nên một trạng thái 
xã hội th−ờng trực đón nhận những cơ 
hội phát triển. Và cơ hội đầu tiên trong 
lịch sử Mỹ, đó là cuộc cách mạng công 
nghiệp vào giữa thế kỷ XIX. 
Engels từng nói đại ý rằng sự thúc 
đẩy khoa học phát triển của thực tiễn 
sản xuất có sức mạnh gấp hàng trăm 
lần các tr−ờng đại học. Điều này hoàn 
toàn đúng đối với b−ớc chuyển biến của 
n−ớc Mỹ khi cách mạng công nghiệp ra 
đời. Những quan hệ bản chất của nền 
sản xuất t− bản chủ nghĩa với sự thống 
trị của quy luật giá trị là động lực trực 
tiếp cho hoạt động tìm kiếm những phát 
minh sáng chế. Trong thập kỷ 60 của 
thế kỷ XIX, kỹ thuật điện báo đã có mặt 
ở những vùng xa xôi khắp n−ớc Mỹ. 
Năm 1876 chiếc máy điện thoại của 
Alexander Graham Bell đ−ợc tr−ng bày. 
Máy chữ đ−ợc ra đời năm 1867, máy in 
trục lô có thể in 240.000 tờ báo 8 trang 
trong 1 giờ ra đời vào năm 1886, máy 
tính số vào năm 1888. Tiếp đó là bóng 
đèn điện của Thomas Edison, máy hát 
của Thomas Edison và máy chiếu phim 
của George Eastwan... Tất cả đã tạo ra 
một trình độ khác về chất cho nền sản 
xuất và cho đời sống xã hội. Đến l−ợt 
mình, những hoạt động này lại thúc đẩy 
những nghiên cứu cơ bản. Hai khu vực 
của nền sản xuất tinh thần này th−ờng 
xuyên tác động qua lại với nhau tạo nên 
b−ớc ngoặt của lịch sử đại học Mỹ nói 
chung, Th− viện đại học Mỹ nói riêng. 
Những tr−ờng đại học đầu tiên thay 
đổi ph−ơng pháp đào tạo là Đại học 
B−ớc ngoặt 1876 của Th− viện... 35 
John Hopkin, Đại học Harvard, Đại học 
Princeton... Thực ra, đây là một cuộc 
cách tân sâu sắc đối với hoạt động đào 
tạo đại học, lấy ph−ơng pháp làm đòn 
bẩy cơ bản. Linh hồn của ph−ơng pháp 
này là tự do để dạy (Lefreiheit) và tự do 
để học (Lehrfreiheit). Bài giảng của giáo 
viên không còn là nguồn duy nhất, và 
trong nhiều tr−ờng hợp thậm chí không 
còn là nguồn chủ yếu tạo dựng nên tri 
thức của sinh viên. Hoạt động khảo sát 
của cá nhân đ−ợc coi là có tầm quan 
trọng hàng đầu. 
Thành công của những tr−ờng đại 
học đi đầu trong cải cách giáo dục bậc 
cao nhanh chóng gây ảnh h−ởng tới các 
tr−ờng đại học khác ở Mỹ. Những vị 
hiệu tr−ởng với cá tính mạnh mẽ, nghị 
lực và bản lĩnh đã đẩy nhanh tốc độ của 
quá trình hiện đại hóa nền đại học Mỹ. 
Không chỉ có Hiệu tr−ởng Charles Iliot 
của Harvard, mà còn có những nhân vật 
khác không kém phần nổi tiếng nh− 
Nicholas Murray Butler của Đại học 
Columbia, B.Angell của Đại học 
Michigan, Daniel Coit Gilman của Đại 
học John Hopkin, William Rainey 
Harper của Đại học Chicago... Ngành 
đại học Mỹ trong khoảng 20 năm từ 
1868-1888 chuyển mình một cách 
nhanh chóng và chắc chắn, trở thành 
một ngành đại học năng động nhất trên 
thế giới thời bấy giờ. Với b−ớc ngoặt 
1876, đại học Mỹ bắt đầu có cả ba chức 
năng: chức năng đào tạo, chức năng 
nghiên cứu và chức năng dịch vụ (đúng 
hơn là dịch vụ phát triển) cho xã hội. Nó 
thực sự là một mũi nhọn tiên phong của 
thực tiễn xã hội. 
Sự thay đổi có tính cách mạng của 
nền giáo dục đại học Mỹ là nguyên nhân 
trực tiếp tạo ra b−ớc ngoặt cũng có tính 
cách mạng và toàn diện đối với Th− viện 
đại học Mỹ. Không có lĩnh vực nào trong 
toàn bộ hoạt động của Th− viện mà 
không thay đổi căn bản, vì nó buộc phải 
đáp ứng những đòi hỏi mới của những 
ng−ời cần thông tin đông hơn rất nhiều 
và nhu cầu thông tin cũng thay đổi rất 
nhiều. Tr−ớc hết là quy mô của những 
bộ s−u tập trong th− viện. Tr−ớc đó, th− 
viện lớn nhất là th− viện Havard cũng 
chỉ có bộ s−u tập với 5.000 cuốn sách. 
Th− viện Đại học Yale nổi tiếng và xếp 
thứ 2, với 4.000 cuốn. Các tr−ờng khác 
đều có th− viện, nh−ng bộ s−u tập cũng 
chỉ có một vài ngàn cuốn. Tốc độ bổ 
sung trong hơn 100 năm sau Cách mạng 
1776 vẫn còn khá chậm. Thế mà chỉ 
trong thời gian gần 30 năm cuối của thế 
kỷ XIX, các bộ s−u tập đều tăng lên rất 
nhanh, đạt tới quy mô rất đồ sộ vào thời 
đó. Năm 1900, Th− viện Harvard đã có 
976.000 cuốn sách, tiếp đó là Th− viện 
Đại học Columbia với 345.000 cuốn, Th− 
viện Đại học Yale 309.000, Th− viện Đại 
học Chicago 303.000. Các th− viện tuy 
ch−a đạt tới quy mô lớn nh− trên, 
nh−ng cũng đã có các bộ s−u tập trên 
d−ới 50.000 cuốn sách, tức là gấp trên 
d−ới 10 lần quy mô của th− viện lớn 
nhất tr−ớc đó 100 năm. 
Cơ cấu các bộ s−u tập cũng đã có 
thay đổi rất căn bản. Tr−ớc cách mạng 
công nghiệp, sách trong th− viện chủ 
yếu là về triết học, Luật La Mã, Kinh 
thánh, văn học cổ, ngôn ngữ cổ... Nh−ng 
từ nửa cuối thế kỷ XIX, các loại sách về 
các ngành khoa học tự nhiên nh− Vật 
lý, Hóa học, Sinh học, Địa chất, Y học, 
Toán học ngày càng chiếm tỷ lệ cao 
trong cơ cấu sách của các bộ s−u tập. 
Trong cơ cấu bổ sung, những loại sách 
đó cũng có tỷ lệ ngày càng lớn. Những 
chuyến mua sách từ châu Âu ngày càng 
tăng về số l−ợng và quy mô. Chỉ kể 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 8, 2008 36 
riêng chuyến mua sách vào năm 1868 
của Tr−ờng Đại học Vermont, số sách đã 
là 7.000 cuốn. Năm 1887, Th− viện Đại 
học Cornell đ−ợc đích thân Tổng thống Mỹ 
thời đó, ông Andrew White tặng 20.000 
cuốn sách. Đến năm 1891, th− viện lại 
đ−ợc nhận một món quà khổng lồ khác 
của ngài Henry W. Sage với 300.000 USD 
dành vào việc mua sách cho th− viện. 
Chịu ảnh h−ởng của thực tiễn công 
nghiệp hóa, th− viện ngày càng hoàn 
thiện ph−ơng pháp quản lý quan liêu. 
Ph−ơng thức này khi đó có tác dụng tập 
trung hoạt động th− viện theo một t− 
t−ởng thống nhất, nhằm nhanh chóng 
tăng c−ờng quy mô và năng lực phục vụ 
của th− viện. Trong chế độ quan liêu 
đó, tất cả các bộ phận của th− viện đều 
răm rắp tuân thủ những mệnh lệnh 
của ban lãnh đạo, không tính tới những 
đặc thù của bộ phận và phong cách cá 
nhân của ng−ời phục vụ. Nó làm cho 
th− viện có đầy đủ sức mạnh bứt phá 
khỏi những khó khăn cụ thể, h−ớng tới 
việc thực hiện những mục tiêu chiến 
l−ợc: Nhanh chóng tr−ởng thành và 
h−ớng vào chuẩn hóa. Từ ngày ấy, cơ 
cấu tổ chức của th− viện đã đạt tới hình 
thức khá hoàn thiện, với sơ đồ tổ chức 
khái l−ợc sau đây: 
Chính nhờ sức ép ngày càng lớn từ 
số l−ợng to lớn của các bộ s−u tập và 
khối l−ợng công việc phục vụ, tần số 
m−ợn - trả của sách báo ngày càng tăng, 
một cuộc cách mạng trong phân loại t− 
liệu nói riêng và nghiệp vụ th− viện nói 
chung đã diễn ra, gắn liền với tên tuổi 
của nhà th− viện học nổi tiếng Melvil 
Dewey. Những t− t−ởng và hoạt động 
của Dewey trong lĩnh vực th− viện có 
tính cách mạng, kể từ những thao tác 
t−ởng nh− bình th−ờng, nh− thời gian 
mở cửa th− viện đ−ợc tăng lên từ 10 đến 
84 giờ trong một tuần, cho sinh viên 
đ−ợc lấy sách trên giá sách, phát minh 
hệ thống thẻ để định vị tài liệu, thuyết 
trình về sử dụng th− viện, lập một khu 
vực riêng trong th− viện để dành cho 
việc thảo luận, đặt hòm th− để độc giả 
góp ý cho th− viện... cho đến bảng phân 
loại DDC nổi tiếng của ông. Tr−ớc 
Dewey, sách trong th− viện đ−ợc phân 
loại theo vị trí cố định, hiểu theo ý 
nghĩa vật lý, tức là vị trí của sách trên 
giá sách. Vị trí này không thể giữ 
nguyên từ tòa nhà này sang tòa nhà 
khác, và càng khó khăn hơn mỗi khi 
phải bổ sung. Sau khi nghiên cứu tình 
Giám đốc 
Bổ sung Phân loại Đăng ký Tra cứu M−ợn liên TV L−u thông 
Phó GĐ kỹ thuật nghiệp vụ Phó GĐ công tác phục vụ 
B−ớc ngoặt 1876 của Th− viện... 37 
hình ở hơn 50 th− viện, Dewey đã sáng 
tạo ra hệ thống phân loại thập phân. 
Theo ph−ơng pháp này, sách đ−ợc sắp 
xếp theo chủ đề. Ví dụ, lấy số 2 để phân 
loại tất cả các sách thuộc khoa học xã 
hội, 2.3 là sách về kinh tế học, 2.3.5. là 
sách về kinh tế đối ngoại... và cứ nh− 
vậy mà phân loại chi tiết hơn. Cuốn 
sách "Phân loại và chỉ loại đề mục cho 
công tác biên mục và sắp xếp sách của 
một th− viện" của ông chỉ có 42 trang 
nh−ng đã thực sự tạo nên một b−ớc 
ngoặt căn bản trong nghiệp vụ th− viện. 
Năm 1876 đ−ợc kể tới nh− một b−ớc 
ngoặt căn bản còn vì một lý do quan 
trọng khác, đó là sự ra đời của Hiệp hội 
các Th− viện Mỹ (ALA). Chính Melvil 
Dewey là ng−ời sáng lập hiệp hội này, 
và là chủ tịch của tổ chức đó nhiều năm. 
Tr−ớc hết, nó khẳng định Th− viện là 
một nghề quan trọng trong xã hội Mỹ, 
thông qua đó, nó cũng khẳng định tinh 
thần coi trọng tri thức, coi trọng sách 
của ng−ời Mỹ, và cũng có nghĩa ng−ời 
Mỹ coi tri thức, trí tuệ là chỗ dựa, động 
lực hết sức quan trọng đối với sự nghiệp 
phát triển quốc gia. Sau ALA, những tổ 
chức nghề nghiệp th− viện lần l−ợt ra 
đời nh− Hội Th− viện đại học Mỹ, Hội 
Th− viện nghiên cứu Mỹ... Những tạp 
chí nghiệp vụ cũng đ−ợc xuất bản, phản 
ánh hoạt động th− viện th−ờng kỳ trong 
toàn quốc, phổ biến nghiệp vụ, giúp cho 
các hoạt động trao đổi tài liệu, thông 
tin, hoạt động hỗ trợ nhau giữa các th− 
viện, đào tạo nghiệp vụ... Có thể nói, từ 
cái mốc 1876 trở đi, hoạt động th− viện 
ở Mỹ luôn luôn đứng đầu thế giới cả về 
quy mô, công nghệ, nghiệp vụ và tác 
động ngày càng tích cực hơn vào lĩnh 
vực đào tạo bậc cao ở n−ớc này. Công 
cuộc công nghiệp hóa của Mỹ càng phát 
triển thì giáo dục Mỹ nói chung và giáo 
dục bậc cao Mỹ nói riêng càng đ−ợc hiện 
đại hóa. Tính hiện đại này không chỉ 
đ−ợc bộc lộ qua bản chất duy lý có 
khuynh h−ớng cực đoan hóa nh− ở châu 
Âu, mà qua biểu hiện cao hơn, đó là tính 
thực tiễn. Chính thực tiễn công nghiệp 
hóa, bắt nguồn từ đòi hỏi nâng cao năng 
suất lao động, nâng cao chất l−ợng hàng 
hóa, hạ giá thành sản phẩm là mệnh 
lệnh tối cao của thực tiễn kinh tế thị 
tr−ờng. Mệnh lệnh này ở một xã hội nh− 
xã hội Mỹ bao giờ cũng nghiêm khắc 
hơn, khẩn thiết hơn, bởi nó là chuyện 
sống còn đối với mỗi nhà sản xuất. 
Ng−ời ta có thể nhận ra một hiệu 
ứng dây chuyền từ quy mô quốc gia của 
Mỹ trong hệ thống toàn cầu nửa cuối 
thế kỷ XIX cho đến sự phát triển nhảy 
vọt của ngành Th− viện đại học Mỹ. Tây 
Âu, sau này là cả Nhật Bản, luôn luôn 
là đối thủ cạnh tranh ngang ngửa với 
Mỹ. N−ớc Mỹ bị buộc phải chiếm lấy và 
duy trì vị trí hàng đầu trong hệ thống t− 
bản chủ nghĩa, đặc biệt là trong giai 
đoạn Đế quốc chủ nghĩa. Phải trở thành 
và duy trì th−ờng xuyên vai trò nền 
kinh tế công nghiệp hàng đầu, đó là lựa 
chọn duy nhất. Muốn vậy thì phải có 
một đội ngũ các nhà khoa học và công 
nghệ hàng đầu thế giới, và đội ngũ này 
lại phải luôn luôn đ−ợc tái tạo ra. 
Không bỏ qua con đ−ờng rút chất xám 
từ các n−ớc khác, n−ớc Mỹ vẫn nhận ra 
rằng đào tạo bậc cao là giải pháp chiến 
l−ợc. Đó phải là một nền đào tạo bậc cao 
tiên tiến, hiện đại, tự biến đổi và phát 
triển không ngừng. Ph−ơng thức "tự do" 
đặc thù của Mỹ đã tỏ ra là một liều 
thuốc công hiệu. Tự do sáng tạo của 
hàng triệu chuyên gia đã trở thành một 
nguồn tài nguyên vô giá của n−ớc Mỹ. 
Nó làm cho nghiên cứu khoa học trở 
thành một bộ phận hữu cơ của công 
nghệ đào tạo, và năng động sáng tạo trở 
thành một chất tố có tính bản chất 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 8, 2008 38 
trong công nghệ đó. Đến l−ợt mình, công 
việc nghiên cứu khoa học lại đòi hỏi một 
cơ sở không thể thiếu, điều kiện nhất 
định phải có, đó là tri thức, thông tin, 
một hệ thống tri thức thông tin sống 
động, đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu 
nghiên cứu nh− một dạng nguyên liệu 
tinh của nền sản xuất tinh thần gắn 
liền với sản xuất xã hội. Vì vậy, nghề 
th− viện ở Mỹ mới có vai trò quan trọng 
đến thế. B−ớc ngoặt 1876 chính là điểm 
khởi phát ngoạn mục, thời điểm bắt đầu 
quá trình phát triển cho đến nay còn 
đang tiếp tục của n−ớc Mỹ, trong đó, 
ngành Th− viện ngày càng phát triển, 
hoàn thiện và đứng đầu thế giới xét về 
tất cả các khía cạnh của nó. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Huy Ch−ơng. Th− viện Đại 
học Mỹ - một số cải cách chủ yếu 
nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao 
chất l−ợng đào tạo. Tạp chí Khoa 
học, Khoa học Xã hội, 1999, T.XV (4), 
tr. 1-6. 
2. Brubacher J. S. Higher education in 
Transition: History of American 
colleges and university, 1636-1976. 
New York: Harper and Row, 1976. 
3. Budd John. The Academic Library, 
Colorado: Libraries Unlimited, Inc., 
1998. 
4. DeVinney Gemma. Academic 
Librarians and Academic Freedom 
in the United States: A history and 
analysis. Libri, Vol 36 (1), pp. 24-39, 
1986. 
5. Edelman Hendrik, Marvin Tatum G. 
Jr. The Development of Collections 
in American University Libraries, 
College and Research Libraries, 
1976. 
6. Forest James, Kinser Kevin. Higher 
Education in the United State: an 
Encyclopedia. New York: ABC-
CLIO, 2002. 
7. Hamlin Arthur T.. The University 
Library in the United States : its 
origins and development. 
Philadenphia: University of 
Pennsylvania Press, 1981. 
8. 
links.html 
9. Jones Jr., Plummer Alston. The 
History and Development of 
Libraries in American Higher 
Education. College & Research 
Libraries News Vol.5 (7), pp. 561-
564, 1989. 
10. Kent Allen, Lancour Harold. College 
Libraries. Encyclopedia of Library 
and Information Science, Vol.5, pp. 
269-281, 1971. 
11. McMullen Haynes. American 
Libraries before 1876. Greenwood 
Press (6), pp. 104-113, 2001. 
12. Shores Louis. Origins of the 
American College Library 1638-
1800. New York: Barnes &Noble, 
Inc.,1935. 
13. The History of Academic Libraries in 
the United States, 
mbolin/weiner.htm 
14. Sharon Gray Weiner. The History of 
Academic Libraries in the United 
States: a Review of the Literature. 
Library Philosophy and Practice Vol. 
7 (2), 2005. 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_ngoat_1876_cua_thu_vien_dai_hoc_my.pdf