Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội

Cùng với các sắc phong, các thần tích,

thần sắc góp phần tạo nên bức tranh hoàn

chỉnh về các di sản văn hóa lịch sử ở Việt

Nam. Thần tích là sự tích về thần được

thờ tại các làng xã. Thần sắc là những đạo

sắc do nhà nước phong kiến mà người đại

diện là nhà vua ban cho các làng xã trong

việc thờ phụng tại địa phương. Sự tích các

vị thần được các nhà nho văn hay chữ tốt

biên soạn bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm,

những sự kiện lịch sử đan xen chuyện kể

dân gian, tạo sự phong phú và sinh động.

Đây thường là các anh hùng có công đánh

giặc ngoại xâm, người có công khai ấp mở

làng, các vị tổ nghề, có khi là các vị thần

sông, thần biển.

Vào năm 1938, dưới danh nghĩa “Hội

khảo cứu phong tục”, các nhà nghiên cứu

dân tộc học người Pháp và người Việt đã

tiến hành một cuộc tổng điều tra về các vị

thần được thờ phụng ở khắp các làng quê

Việt Nam cùng các tục lệ, nghi lễ thờ

phụng của mỗi làng khắp các vùng Bắc

bộ, Trung bộ đến Nam bộ. Kết quả điều

tra đã thu được báo cáo của các chức sắc

có đủ các bản chép thần tích, các sắc

phong thần và phong tục thờ cúng với

những đặc điểm riêng biệt của mỗi làng,

từ rước xách, lễ vật, đến các kiêng kỵ,.

Nguồn tư liệu đặc biệt này được lưu trữ,

bảo quản thận trọng tại Viện Viễn Đông

bác cổ, sau này được bàn giao lại cho Thư

viện Khoa học xã hội (Thư viện KHXH).

Bộ sưu tập đang được lưu trữ và bảo

quản tại Thư viện KHXH hiện có 13.211

cuốn với khoảng 230.000 trang tư liệu

chép tay (Hồ Sĩ Quý, Vương Toàn, 2011)

thống kê gần như đầy đủ danh sách cùng

các sự tích các vị thần được thờ cúng

trong các đình, đền, miếu trên khắp lãnh

thổ Việt Nam từ Bắc bộ vào Nam Trung

bộ, đặc biệt có giá trị cho việc nghiên cứu,

tìm hiểu về phong tục, truyền thống Việt

Nam xưa.

 

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội trang 1

Trang 1

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội trang 2

Trang 2

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội trang 3

Trang 3

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội trang 4

Trang 4

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội trang 5

Trang 5

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 17040
Bạn đang xem tài liệu "Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội

Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội
Bộ SƯU TậP THầN TíCH, THầN SắC 
TạI THƯ VIệN KHOA HọC Xã HộI 
NGUYễN LÊ PHƯƠNG HOàI (*) 
I. Giới thiệu chung về bộ s−u tập Thần tích, Thần 
sắc tại Th− viện Khoa học xã hội 
Cùng với các sắc phong, các thần tích, 
thần sắc góp phần tạo nên bức tranh hoàn 
chỉnh về các di sản văn hóa lịch sử ở Việt 
Nam. Thần tích là sự tích về thần đ−ợc 
thờ tại các làng xã. Thần sắc là những đạo 
sắc do nhà n−ớc phong kiến mà ng−ời đại 
diện là nhà vua ban cho các làng xã trong 
việc thờ phụng tại địa ph−ơng. Sự tích các 
vị thần đ−ợc các nhà nho văn hay chữ tốt 
biên soạn bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, 
những sự kiện lịch sử đan xen chuyện kể 
dân gian, tạo sự phong phú và sinh động. 
Đây th−ờng là các anh hùng có công đánh 
giặc ngoại xâm, ng−ời có công khai ấp mở 
làng, các vị tổ nghề, có khi là các vị thần 
sông, thần biển... 
Vào năm 1938, d−ới danh nghĩa “Hội 
khảo cứu phong tục”, các nhà nghiên cứu 
dân tộc học ng−ời Pháp và ng−ời Việt đã 
tiến hành một cuộc tổng điều tra về các vị 
thần đ−ợc thờ phụng ở khắp các làng quê 
Việt Nam cùng các tục lệ, nghi lễ thờ 
phụng của mỗi làng khắp các vùng Bắc 
bộ, Trung bộ đến Nam bộ. Kết quả điều 
tra đã thu đ−ợc báo cáo của các chức sắc 
có đủ các bản chép thần tích, các sắc 
phong thần và phong tục thờ cúng với 
những đặc điểm riêng biệt của mỗi làng, 
từ r−ớc xách, lễ vật, đến các kiêng kỵ,... 
Nguồn t− liệu đặc biệt này đ−ợc l−u trữ, 
bảo quản thận trọng tại Viện Viễn Đông 
bác cổ, sau này đ−ợc bàn giao lại cho Th− 
viện Khoa học xã hội (Th− viện KHXH).∗ 
Bộ s−u tập đang đ−ợc l−u trữ và bảo 
quản tại Th− viện KHXH hiện có 13.211 
cuốn với khoảng 230.000 trang t− liệu 
chép tay (Hồ Sĩ Quý, V−ơng Toàn, 2011) 
thống kê gần nh− đầy đủ danh sách cùng 
các sự tích các vị thần đ−ợc thờ cúng 
trong các đình, đền, miếu trên khắp lãnh 
thổ Việt Nam từ Bắc bộ vào Nam Trung 
bộ, đặc biệt có giá trị cho việc nghiên cứu, 
tìm hiểu về phong tục, truyền thống Việt 
Nam x−a. 
- Về mặt hình thức: Các bản thần 
tích, thần sắc đ−ợc kê khai theo các mẫu 
câu hỏi và trả lời. Trong các bản khai 
thần tích, có làng liệt kê các câu hỏi rồi 
trả lời, có làng trả lời trực tiếp vào toàn bộ 
các câu hỏi. Thần tích phần lớn đ−ợc khai 
bằng chữ Quốc ngữ. Riêng tên địa danh 
làng xã, tên thần đ−ợc khai bằng cả chữ 
Hán và chữ Quốc ngữ. Có những bản thần 
tích, ngoài phần khai bằng chữ Quốc ngữ, 
còn sao chép toàn bộ thần tích bằng chữ 
(∗) ThS., Viện Thông tin KHXH. 
Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc 43 
Hán, Nôm (TTTS 1585(**) - Thần tích, 
thần sắc làng An Biên, tổng Quan, Hải 
Phòng). Có những bản có kê khai cả bằng 
chữ tiếng Pháp theo sau phần khai chữ 
Quốc ngữ, chữ Hán, Nôm (Bản thần tích 
làng Hội Sơn, tổng An L−ơng, huyện Duy 
Xuyên tỉnh Quảng Nam). Đặc biệt là có 
nhiều bản, bên cạnh phần khai thần tích 
còn sao lại toàn bộ sắc phong bằng chữ 
Hán, Nôm. Thần sắc là những bản sắc 
phong do các vị vua phong kiến Việt Nam 
ban, cấp cho các làng nhân dịp lễ mừng thọ 
vua hay các dịp khánh tiết quan trọng, bản 
gốc đ−ợc viết trên giấy sắc đặc biệt, có đóng 
triện của vua. Bản thần sắc gốc là những 
vật báu đ−ợc các làng l−u trữ nghiêm cẩn, 
đựng trong các hộp gỗ sơn mài và cất giữ 
trong hậu cung đình, đền. Nh−ng do nhiều 
lý do nh− chiến tranh, hoả hoạn,v.v... các 
bản sắc phong của rất nhiều làng xã Việt 
Nam bị thất lạc hoặc bị huỷ hoại. Chính vì 
thế, bản khai thần tích có kèm theo bản 
sao sắc phong hiện l−u trữ tại Th− viện 
KHXH là những t− liệu vô cùng quý giá 
không chỉ đối với các làng xã Việt Nam, các 
nhà nghiên cứu văn hoá, mà còn có ý nghĩa 
quan trọng đối với các nhà quản lý văn hoá 
trong việc nghiên cứu, xác minh, bảo tồn 
và khôi phục những di sản văn hoá lịch sử 
của Việt Nam. 
Xét về mặt nội dung: Một bản thần 
tích, thần sắc thông th−ờng mở đầu và kết 
thúc ngắn gọn. Phần mở đầu nêu tên tuổi 
và chức sắc của ng−ời khai cùng nguyên 
do khai bản thần tích, thần sắc. Phần kết 
thúc là cam kết lời khai chính xác, tên 
tuổi, chữ ký, con dấu và xác nhận của Lý 
tr−ởng và Chánh hội. Phần nội dung 
chính dài nhất gồm 3 phần rõ rệt: Sự tích 
của đức thánh, tôn thần; Sắc của đức 
thánh, tôn thần và Nghi thức thờ cúng. 
(**) Kí hiệu kho tại Th− viện KHXH. 
+ Sự tích của đức thánh, tôn thần là 
phần nội dung sinh động nhất của một 
bản thần tích kể về sự tích của các đức 
thánh, tôn thần. 13.211 quyển chép tay 
trong Bộ s−u tập là 13.211 câu chuyện sự 
tích đức thánh, tôn thần khác nhau đ−ợc 
thờ phụng ở 13.211 làng. Khảo sát cho 
thấy, nhiều bản thần tích có lối kể sự 
tích đức thánh, tôn thần của địa ph−ơng 
gần giống nhau ở lối kể chuyện rất dài. 
Một số bản thần tích lại mở đầu ngắn 
gọn một vài câu, đi thẳng vào nội dung 
sự tích. Văn bản cho biết các vị là linh 
khí của trời đất tạo ra, th−ờng đ−ợc viết 
với văn phong nh−: 
“Ngày x−a, Vua Hùng V−ơng nguyên 
là Thánh Tổ n−ớc Nam, mở vận dựng cơ 
đồ hơn 2000 năm; Hùng V−ơng dựng 
n−ớc, thanh sơn vạn dặm, tạo móng nền 
cung điện đế đô; một dải bích thủy, mở 
đạo Thánh đế minh v−ơng, giúp dân cứu 
vật, thống lĩnh 15 bộ; gọi là Triệu Tổ đất 
Bách Việt vậy. Có câu thơ rằng: 
Mở mang Nam Việt từ Kinh D−ơng 
Nhất thống sơn hà m−ời tám vua 
M−ời tám đời truyền thiên cổ tại 
ức niên h−ơng hỏa, ức niên thơm 
Lại nói: Thời đó, cơ đồ họ Hùng đến 
lúc mạt vận; ý trời cáo chung, thời đại nhà 
Hùng chấm dứt. Trải các triều đại Đông 
Tây Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, L−ơng lần 
l−ợt lên ngôi ngự triều trung. Khi đó, vào 
thời Tiền Lý, có ng−ời ở Thái Bình, họ Lý, 
tên húy là Bí. Có tài văn võ thao l−ợc, làm 
quan đến chức L−ơng Giám ở châu Cửu 
Đức. Cùng thời có viên quan Thích sử tên 
là Tiêu T−, cai quản ở Giao Châu rất hà 
khắc với dân chúng; quan quân nhà 
L−ơng d−ơng oai tàn bạo khắp Cửu Châu. 
Vì thế, Lý Bí mới khởi binh ở Cửu Đức, với 
ý chí cứu dân chúng thoát khỏi lầm than. 
Phía Bắc thì đánh đuổi Tiêu T−, phía 
Nam lập quyền ở đất Lâm ấp. Một hôm, 
44 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2013 
nhà vua tiến binh đi đến đạo Hải D−ơng 
(X−a có tên là Hồng Châu), thuộc huyện 
Cẩm Giàng, phủ Th−ợng Hồng đến đầu 
trại Bình Lãng bèn cho t−ớng sĩ nghỉ lại 
trú quân. Thấy địa thế đất trại sơn thủy 
bao quanh, thế rồng hổ ngồi chầu; núi 
không cao mà ao hồ thuận tiện, nhà vua 
cho đó là nơi phong quang thắng cảnh. 
Bèn lập tức truyền lệnh cho t−ớng sĩ cùng 
phụ lão nhân dân trại dựng đồn lũy, để 
sau này chống lại giặc L−ơng. Cuối canh 3 
đêm hôm ấy, nhà vua mơ màng bỗng thấy 
mộng báo có 3 vị nam nhân, áo mũ chỉnh 
tề tiến đến tr−ớc mặt mà x−ng rằng: “Ta 
vốn là Đô Thiên, một ng−ời là Tả Kiên 
Thần Đại Đô, một ng−ời là Hữu Kiên 
Thần Đại Đức. Ta phụng mệnh Thiên 
đình, vì ta vốn trông coi trời Nam; nên tự 
nguyện đến âm phù lập công diệt giặc”. 
Nói xong, thét lên một tiếng rồi nhảy lên 
l−ng ngựa, chạy đến xứ Mạn Đông thì 
bỗng thấy một áng mây vàng, trông nh− 
hình một dải lụa đỏ từ trên trời soi thẳng 
xuống xứ ấy, rồi thấy 3 vị nam nhân theo 
áng mây bay thẳng lên không trung mà 
hóa đi. Một lúc sau, nhà vua tỉnh dậy biết 
đó là mộng báo Thiên Thần giáng xuống 
ứng mộng; lúc đó là ngày mùng 9 tháng 
Giêng. Sáng sớm hôm sau, nhìn ra ngoài 
đã thấy quân L−ơng bao vây tứ phía 
trùng trùng điệp điệp. Nhà vua hô hào 
quân sĩ t−ớng lĩnh xông ra đánh trả phá 
tan vòng vây, lại bắt đ−ợc Đại t−ớng giặc, 
thu đ−ợc vô số khí giới. Nhà vua mới 
nghiệm ra đó là do thần âm phù trợ giúp 
quân t−ớng ta mà thắng đ−ợc giặc L−ơng 
vậy. Thắng lợi lớn, nhà vua lập tức truyền 
cho phụ lão nhân dân trại Bình Lãng cấm 
không đ−ợc vào nơi đất thiêng, lập đàn 
tràng bái tạ thần. Nhà vua phán bảo 
rằng, phụ lão nhân dân trại lập miếu đồn 
thờ cúng một vị chính là Đô Thiên, còn 2 
vị Tả Hữu kiên thần phối thờ theo” (Thần 
tích xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng, 
tỉnh Hải D−ơng). 
Những bản thần tích khác lại mở đầu 
ngắn gọn một vài câu, đi thẳng vào nội 
dung sự tích. Ví dụ nh− bản Thần tích ở 
xã Tiêu Xá, huyện Gia Bình tỉnh Bắc 
Ninh (TTTS 2459/60) ghi: 
“Tại sao Thần tích các việc nh− sau này. 
Duyên khi bấy giờ đời Hùng V−ơng 
hầu hết n−ớc Nam vận suy, núi sông về cả 
Tùy Đ−ờng Nam Bắc mới chia bờ cõi. Vua 
Ngô Tôn Quyền ở Hoan Châu lên ngôi 
đóng kinh đô ở Loa thành cả n−ớc đều 
x−ng là vua hiền vậy. N−ớc nhà tr−ớc là 
Châu ái bây giờ đổi là Thanh Hóa, có một 
ông bộ tr−ởng họ Nguyễn húy Trang, lấy 
vợ cùng làng họ Trần, húy Ngoạn. Ông bộ 
tr−ởng vốn dòng hào phú mà lòng l−ơng 
thiện, không hung ác gì cả. Nguyễn ông 
tuổi ngoài năm m−ơi, Trần bà tuổi ngoài 
bốn m−ơi mà ch−a có con trai, ông bà bấy 
giờ bàn với nhau rằng hai ta già mà con 
trai ch−a có phải đi xa tìm nơi danh lam 
thắng cảnh cầu tự. Bấy giờ chuẩn bị t−ơng 
lễ vật đi một ngày đến núi Tam Đảo, chùa 
Tây Thiên cầu tự. Ông bà nằm ở chùa ấy 
ba đêm, nghiệm mộng đoán ba đêm, 
không thấy mộng mị gì cả mới từ cáo thầy 
chùa xin về. Đi một ngày ông bà về đến 
phủ Thuận An, huyện Gia Bình, làng 
Tiêu Xá, Bến đò thôn. Đêm hôm ứng chập 
tối ông bà ngủ đỗ ở nhà hàng bến đò ấy. 
Đến nửa đêm chợt thấy ông lão tiên mình 
mặc hoàng bào, ngồi trên đám mây thẳng 
xuống tr−ớc mặt Nguyễn ông mà đứng, 
tay cầm ba cái trứng cho Nguyễn ông, lại 
đọc bốn câu thơ rằng: 
Tam noãn thần long phó Nguyễn gia 
T−ớng hồi vi bảo kế sơn hà. 
Thiên niên tr−ờng tại thiên giang chử. 
Tiêu Xá chi tân phúc nhật gia. 
Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc 45 
(Đại ý bốn câu thơ ấy là giải thích ý 
nghĩa ba cái trứng). Đọc xong, liền bay lên 
trên đi mất” (Thần tích, thần sắc xã Tiêu 
Xá, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, 1938, 
tr. 660-661). 
+ Sắc của đức thánh, tôn thần kê khai 
đầy đủ và chi tiết (chiếm phần lớn bản 
thần tích, thần sắc) từ thành phần xuất 
thân, quê h−ơng bản quán, công tích giúp 
dân giúp n−ớc đến đầy đủ các sắc đ−ợc 
phong của đức thánh, tôn thần. 
Ví dụ: 
“Nhà vua nghe tin tôn thần đã hóa liền 
sai quan quân trở về nơi ông hóa làm lễ tế 
tự, xin cho lập miếu để thờ tự ông. Đồng ý 
cho các khu Đĩnh Tú, Th−ợng Khê, Thái 
Khê thuộc trại Nghĩa Bang đ−ợc làm nơi hộ 
nhi sở tại để thờ phụng. 
Sắc phong thần hiệu là Trung á đại 
v−ơng. Các sắc phục vàng, đỏ ngày lễ đều 
cấm. 
Tặng phong Ngài là Hùng kiệt Trác vĩ 
Hộ quốc An dân Đại v−ơng. Cho phép các 
khu Đĩnh Tú, Th−ợng Khê, Thái Khê 
thuộc trại Nghĩa Bang đều đ−ợc r−ớc mỹ 
tự về cho dân lập miếu để thờ phụng ông. 
Đến thời vua Đinh Tiên Hoàng, hàng 
năm cứ tuần đầu tháng Giêng là xa giá 
nhà vua hành lễ để biểu d−ơng sự linh 
thiêng của Đại v−ơng. Bởi lẽ tr−ớc đấy 
vua Đinh khi đang ở chùa bị giặc vây hãm 
mà ông đã giải vây đ−ợc. Từ đó đặt thành 
lệ th−ờng vậy. 
Lại nói, từ đấy trở về sau này đều 
thấy rất hiển ứng nên trải nhiều đời đều 
đ−ợc các bậc đế v−ơng gia phong mỹ tự. 
Thời Trần Thái Tông giặc Nguyên đến 
xâm chiếm kinh thành bị bao vây, Trần 
Quốc Tuấn đã cầu đảo bách thần ở các 
đền, khi qua một vị thần này đã đ−ợc hiển 
ứng âm phù và đánh dẹp đ−ợc giặc Ô Mã 
Nhi. Vua Thái Tông đã ban phong mỹ tự 
là Linh ứng Anh triết Đ−ơng lộ Hiển hựu 
Đại v−ơng. 
Đến thời Lê Thái Tổ, khởi nghĩa đánh 
giặc Liễu Thăng nhà Minh, đất n−ớc bình 
yên. Vua Thái Tổ gia phong mỹ tự là một 
vị đại v−ơng Phổ tế C−ơng nghị Anh linh. 
Sắc ban cho khu Đĩnh Tú, khu Th−ợng 
Khê, khu Thái Khê trại Nghĩa Bang trùng 
tu miếu điện để thờ phụng ngài. Thật tốt 
đẹp lắm thay” (Nguyễn Tá Nhí và Nguyễn 
Văn Thịnh, 2010, tr. 9). 
+ Nghi thức thờ cúng kê khai trả lời 
đầy đủ cho hàng loạt câu hỏi về các nghi 
thức, cách thức, những quy định, những 
điều cấm kỵ,... trong việc thờ cúng. Có 
những bản thần tích thần sắc kê thẳng 
nội dung câu trả lời, có những bản lại liệt 
kê các câu hỏi phía trên và trả lời ngay 
phía d−ới. Nghi thức thờ cúng cơ bản đ−ợc 
mô tả thông qua các câu hỏi nh− sau: 
Thờ Ngài thì thờ bằng gì? 
Thờ ngài những nơi nào? 
Những nơi ấy sửa sang thế nào? 
Nơi ấy cấm những gì? 
Sự giao hiếu thế nào? 
Trong làng tế lễ Ngài nh− thế nào? 
Ngày lễ nào theo với sự tích? 
Ngày lễ nào theo với thời tiết? 
Lễ vật trong những ngày ấy thì dùng 
những thứ gì? 
Những lễ vật ấy thì ai phải sửa và 
tiền thì trích ra từ đâu? 
Khi tế lễ xong thì lễ vật ấy phân phát 
thế nào? 
Nếu ng−ời nào phạm lỗi thì phải vạ 
thế nào? 
Thay đổi về việc cúng tế? 
Trong mấy năm gần đây thì việc cúng 
tế có gì thay đổi không? 
46 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2013 
Thay đổi lễ vật cúng tế (tr−ớc cúng gì, 
nay cúng gì và ngày nay có gia giảm gì 
không?). 
Lễ vật tr−ớc phân phát cho ai, ngày 
nay phân phát cho ai, cách phân phát ấy 
có thay đổi gì không? 
Số ng−ời dự lễ tế có thay đổi gì không? 
Sự trai giới có thay đổi gì không? 
Sự kiêng kị các hèm thần có thay đổi 
gì không? 
Có thể thấy, mỗi cuốn thần tích, thần 
sắc cung cấp thông tin về tín ng−ỡng, 
phong tục, tập quán,... của một địa 
ph−ơng. Cả Bộ s−u tập là nguồn t− liệu có 
giá trị tham khảo lớn để các địa ph−ơng 
xây dựng quy −ớc làng văn hóa, phong 
trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, 
nghi lễ thờ cúng cũng nh− căn cứ để khôi 
phục lại đình miếu. Bộ s−u tập cũng là 
nguồn t− liệu quý cho các nhà nghiên cứu 
văn hóa, sử học, dân tộc học,... tìm hiểu, 
nghiên cứu về lịch sử, truyền thống, văn 
hóa, tín ng−ỡng... làng xã, vùng miền Việt 
Nam. Do vậy, Bộ s−u tập đã thu hút rất 
nhiều độc giả là các cá nhân, địa ph−ơng, 
các nhà nghiên cứu đến tìm kiếm và khai 
thác. 
II. Thực trạng công tác quản lý, bảo quản và khai 
thác Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc tại Th− viện 
Khoa học xã hội 
Trong những năm qua, với chức năng 
và nhiệm vụ của mình, Th− viện KHXH 
đã không ngừng chú trọng quản lý, bảo 
quản và khai thác nguồn t− liệu này. 
Về công tác quản lý và bảo quản: 
Bộ s−u tập hiện đang đ−ợc l−u trữ và sắp 
xếp theo đơn vị địa danh là tổng. Trong 
mỗi đơn vị bảo quản, t− liệu lại đ−ợc chia 
theo đơn vị địa danh nhỏ hơn (cấp huyện) 
rồi đến cấp nhỏ hơn nữa. Những t− liệu 
cùng về một làng, thôn đ−ợc tập hợp lại 
trong từng tập. Bộ s−u tập tuy đ−ợc l−u 
trữ, bảo quản và phục chế cẩn thận nh−ng 
không thể tránh khỏi sự xuống cấp và hủy 
hoại theo thời gian. Khảo sát sơ bộ của 
chúng tôi cho thấy, các bản thần tích, thần 
sắc đ−ợc viết tay trên giấy nhìn chung vẫn 
giữ đ−ợc nguyên bản nh−ng màu giấy đã ố 
vàng, giòn, nên màu mực chữ không còn 
đ−ợc sắc nét, số liệu kiểm kê cho thấy, 30% 
bị giòn, dễ rách nát; 24% bị ố vàng, giấy đã 
chuyển màu, mờ chữ do độ axít quá cao; 
10% bị nấm mốc (Nguyễn Thị Minh Trung, 
Trần Thị Kiều Nga và Nguyễn Lê Ph−ơng 
Hoài, 2011, tr.3). Tình trạng này xuất phát 
từ một số nguyên nhân nh− thiếu diện tích 
và điều kiện bảo quản phù hợp, sự phá 
hoại của nấm mốc, côn trùng và sự lão hóa 
của giấy. Chất liệu giấy của Bộ s−u tập 
đ−ợc sản xuất theo công nghệ cũ, sử dụng 
nhiều hóa chất nh− sufit để làm bột có pha 
thêm một hàm l−ợng bột gỗ nhất định. Khi 
độ axit tăng làm cho giấy nhanh chóng bị ố 
vàng, giòn. 
Sự tiếp xúc trực tiếp của con ng−ời 
cũng là nguyên nhân gây h− hại tài liệu. 
Hiện nay, nhằm bảo quản tốt nhất tình 
trạng vật lý của Bộ s−u tập, Th− viện 
KHXH không phục vụ bản gốc, nh−ng qua 
hơn nửa thế kỷ, Bộ s−u tập đã phục vụ 
hàng ngàn l−ợt ng−ời nghiên cứu, sử dụng. 
Kỹ thuật đọc và ý thức bảo vệ tài liệu của 
độc giả đã gây nhiều h− hại cho Bộ s−u 
tập. Việc nhân sao tài liệu phục vụ độc giả 
cũng là tác nhân gây nên tình trạng rách, 
giòn, mờ chữ, rách bìa của tài liệu. Quá 
trình thay đổi địa điểm l−u trữ, bảo quản 
Bộ s−u tập (trong chiến tranh và di chuyển 
trụ sở Th− viện KHXH) cũng khiến tài liệu 
bị ảnh h−ởng. 
Về công tác tổ chức khai thác: Để 
bảo quản lâu dài và có điều kiện phục vụ 
rộng rãi nhu cầu nghiên cứu và khai thác 
kho t− liệu quý hiếm này, Th− viện 
KHXH đã biên soạn th− mục Thần tích, 
thần sắc Việt Nam; Xây dựng cơ sở dữ liệu 
Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc 47 
th− mục Thần tích thần sắc; chuyển tài 
liệu sang dạng ảnh kỹ thuật số. Qua đó, 
các cá nhân, tổ chức có nhu cầu tra cứu có 
thể tra tìm, khai thác thông tin trên mạng 
LAN của Th− viện KHXH. 
III. Một số đề xuất cho công tác quản lý, bảo quản 
để khai thác và phát huy các giá trị bộ s−u tập 
Thần tích, Thần sắc 
Giữ gìn và phát huy giá trị bộ s−u tập 
Thần tích, Thần sắc là việc làm rất cần 
thiết của Th− viện KHXH nhằm giúp cho 
các nhà nghiên cứu và bạn đọc khai thác 
đ−ợc những thông tin, t− liệu quý báu về 
lịch sử, truyền thống, tập quán, văn hóa 
làng xã Việt Nam và phát triển, nâng cao 
hiệu quả hoạt động của Th− viện KHXH. 
Để làm tốt công tác tổ chức quản lý, bảo 
quản, đồng thời tổ chức tốt, hiệu quả công 
tác khai thác bộ s−u tập, chúng tôi đề 
xuất một số giải pháp sau: 
- Bộ s−u tập cần đ−ợc tổ chức trong 
không gian rộng, có giá l−u trữ chuyên biệt 
phù hợp cũng nh− trang bị những thiết bị tạo 
vi khí hậu tốt. Các bản thần tích, thần sắc 
đ−ợc đặt vào lớp giấy khử axit tr−ớc khi 
đóng gói vào các hộp bảo quản. 
 - Th−ờng xuyên kiểm tra, phát hiện 
những h− hỏng để kịp thời tu bổ, phục chế 
hoặc làm bản sao bảo hiểm. Nếu có dấu 
hiệu long, bong trang, cần gia cố bằng các 
kỹ thuật chuyên biệt, có chất liệu phù hợp 
với t− liệu. Cần hợp tác với những trung 
tâm sinh hóa chuyên biệt trong những 
tr−ờng hợp cần thiết. 
- Xây dựng quy định, quy trình cụ thể 
trong cách thức tiếp cận tài liệu của độc 
giả cũng nh− cách thức, kỹ thuật trong 
bảo quản tài liệu. 
- Đối với bản số của Bộ s−u tập, cần 
nghiên cứu cơ chế an ninh mạng nhằm 
bảo tồn tốt nhất các biểu ghi cũng nh− các 
tài liệu số hóa. 
- Thần tích thần sắc là dạng t− liệu 
chép tay bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm. 
Trải qua thời gian, chữ viết đã phai mờ 
khiến cho việc đọc, phiên âm, dịch nghĩa 
gặp nhiều khó khăn, thậm chí dẫn đến 
đọc sai, dịch sai. Do vậy, Th− viện KHXH 
nên cho đánh máy lại phần chữ viết tay, 
dịch ra tiếng Việt phần chữ Hán, tiến tới 
xuất bản để phục vụ đông đảo các nhà 
nghiên cứu, các nhà quản lý cũng nh− các 
cá nhân, tổ chức quan tâm  
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Trần Thái Bình, Ngô Thế Long, 
(2009), Th− viện Viễn Đông bác cổ: 
Giai đoạn 1898 – 1957, Nxb. Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
2. Nguyễn Tiến Hiển, Kiều Văn Hốt 
(2005), Tổ chức và bảo quản tài liệu, 
Nxb. Tr−ờng đại học Văn hoá Hà Nội, 
Hà Nội. 
3. Nguyễn Tá Nhí, Nguyễn Văn Thịnh 
(2010), Tuyển tập thần tích, Nxb. Hà 
Nội, Hà Nội. 
4. Hồ Sĩ Quý, V−ơng Toàn (chủ biên) 
(2011), Th− viện Khoa học xã hội, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
5. Nguyễn Thị Minh Trung, Trần Thị 
Kiều Nga, Nguyễn Lê Ph−ơng Hoài 
(2011), “Khảo sát sơ bộ, đề xuất 
ph−ơng án xây dựng hồ sơ đăng ký di 
sản t− liệu với một bộ s−u tập cổ, quý, 
hiếm tại th− viện Khoa học xã hội”, 
Báo cáo đề tài cấp cơ sở, Viện Thông 
tin Khoa học xã hội, Hà Nội. 
6. Thần tích, thần sắc xã Bình Lãng, 
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải D−ơng 
(1938) hiện đang l−u trữ tại Th− viện 
Khoa học xã hội. 
7. Thần tích, thần sắc xã Tiêu Xá, huyện 
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (1938) hiện 
đang l−u trữ tại Th− viện Khoa học xã 
hội. 

File đính kèm:

  • pdfbo_suu_tap_than_tich_than_sac_tai_thu_vien_khoa_hoc_xa_hoi.pdf