Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội
Cùng với các sắc phong, các thần tích,
thần sắc góp phần tạo nên bức tranh hoàn
chỉnh về các di sản văn hóa lịch sử ở Việt
Nam. Thần tích là sự tích về thần được
thờ tại các làng xã. Thần sắc là những đạo
sắc do nhà nước phong kiến mà người đại
diện là nhà vua ban cho các làng xã trong
việc thờ phụng tại địa phương. Sự tích các
vị thần được các nhà nho văn hay chữ tốt
biên soạn bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm,
những sự kiện lịch sử đan xen chuyện kể
dân gian, tạo sự phong phú và sinh động.
Đây thường là các anh hùng có công đánh
giặc ngoại xâm, người có công khai ấp mở
làng, các vị tổ nghề, có khi là các vị thần
sông, thần biển.
Vào năm 1938, dưới danh nghĩa “Hội
khảo cứu phong tục”, các nhà nghiên cứu
dân tộc học người Pháp và người Việt đã
tiến hành một cuộc tổng điều tra về các vị
thần được thờ phụng ở khắp các làng quê
Việt Nam cùng các tục lệ, nghi lễ thờ
phụng của mỗi làng khắp các vùng Bắc
bộ, Trung bộ đến Nam bộ. Kết quả điều
tra đã thu được báo cáo của các chức sắc
có đủ các bản chép thần tích, các sắc
phong thần và phong tục thờ cúng với
những đặc điểm riêng biệt của mỗi làng,
từ rước xách, lễ vật, đến các kiêng kỵ,.
Nguồn tư liệu đặc biệt này được lưu trữ,
bảo quản thận trọng tại Viện Viễn Đông
bác cổ, sau này được bàn giao lại cho Thư
viện Khoa học xã hội (Thư viện KHXH).∗
Bộ sưu tập đang được lưu trữ và bảo
quản tại Thư viện KHXH hiện có 13.211
cuốn với khoảng 230.000 trang tư liệu
chép tay (Hồ Sĩ Quý, Vương Toàn, 2011)
thống kê gần như đầy đủ danh sách cùng
các sự tích các vị thần được thờ cúng
trong các đình, đền, miếu trên khắp lãnh
thổ Việt Nam từ Bắc bộ vào Nam Trung
bộ, đặc biệt có giá trị cho việc nghiên cứu,
tìm hiểu về phong tục, truyền thống Việt
Nam xưa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ sưu tập thần tích, thần sắc tại thư viện khoa học xã hội
Bộ SƯU TậP THầN TíCH, THầN SắC TạI THƯ VIệN KHOA HọC Xã HộI NGUYễN LÊ PHƯƠNG HOàI (*) I. Giới thiệu chung về bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc tại Th− viện Khoa học xã hội Cùng với các sắc phong, các thần tích, thần sắc góp phần tạo nên bức tranh hoàn chỉnh về các di sản văn hóa lịch sử ở Việt Nam. Thần tích là sự tích về thần đ−ợc thờ tại các làng xã. Thần sắc là những đạo sắc do nhà n−ớc phong kiến mà ng−ời đại diện là nhà vua ban cho các làng xã trong việc thờ phụng tại địa ph−ơng. Sự tích các vị thần đ−ợc các nhà nho văn hay chữ tốt biên soạn bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, những sự kiện lịch sử đan xen chuyện kể dân gian, tạo sự phong phú và sinh động. Đây th−ờng là các anh hùng có công đánh giặc ngoại xâm, ng−ời có công khai ấp mở làng, các vị tổ nghề, có khi là các vị thần sông, thần biển... Vào năm 1938, d−ới danh nghĩa “Hội khảo cứu phong tục”, các nhà nghiên cứu dân tộc học ng−ời Pháp và ng−ời Việt đã tiến hành một cuộc tổng điều tra về các vị thần đ−ợc thờ phụng ở khắp các làng quê Việt Nam cùng các tục lệ, nghi lễ thờ phụng của mỗi làng khắp các vùng Bắc bộ, Trung bộ đến Nam bộ. Kết quả điều tra đã thu đ−ợc báo cáo của các chức sắc có đủ các bản chép thần tích, các sắc phong thần và phong tục thờ cúng với những đặc điểm riêng biệt của mỗi làng, từ r−ớc xách, lễ vật, đến các kiêng kỵ,... Nguồn t− liệu đặc biệt này đ−ợc l−u trữ, bảo quản thận trọng tại Viện Viễn Đông bác cổ, sau này đ−ợc bàn giao lại cho Th− viện Khoa học xã hội (Th− viện KHXH).∗ Bộ s−u tập đang đ−ợc l−u trữ và bảo quản tại Th− viện KHXH hiện có 13.211 cuốn với khoảng 230.000 trang t− liệu chép tay (Hồ Sĩ Quý, V−ơng Toàn, 2011) thống kê gần nh− đầy đủ danh sách cùng các sự tích các vị thần đ−ợc thờ cúng trong các đình, đền, miếu trên khắp lãnh thổ Việt Nam từ Bắc bộ vào Nam Trung bộ, đặc biệt có giá trị cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về phong tục, truyền thống Việt Nam x−a. - Về mặt hình thức: Các bản thần tích, thần sắc đ−ợc kê khai theo các mẫu câu hỏi và trả lời. Trong các bản khai thần tích, có làng liệt kê các câu hỏi rồi trả lời, có làng trả lời trực tiếp vào toàn bộ các câu hỏi. Thần tích phần lớn đ−ợc khai bằng chữ Quốc ngữ. Riêng tên địa danh làng xã, tên thần đ−ợc khai bằng cả chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Có những bản thần tích, ngoài phần khai bằng chữ Quốc ngữ, còn sao chép toàn bộ thần tích bằng chữ (∗) ThS., Viện Thông tin KHXH. Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc 43 Hán, Nôm (TTTS 1585(**) - Thần tích, thần sắc làng An Biên, tổng Quan, Hải Phòng). Có những bản có kê khai cả bằng chữ tiếng Pháp theo sau phần khai chữ Quốc ngữ, chữ Hán, Nôm (Bản thần tích làng Hội Sơn, tổng An L−ơng, huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam). Đặc biệt là có nhiều bản, bên cạnh phần khai thần tích còn sao lại toàn bộ sắc phong bằng chữ Hán, Nôm. Thần sắc là những bản sắc phong do các vị vua phong kiến Việt Nam ban, cấp cho các làng nhân dịp lễ mừng thọ vua hay các dịp khánh tiết quan trọng, bản gốc đ−ợc viết trên giấy sắc đặc biệt, có đóng triện của vua. Bản thần sắc gốc là những vật báu đ−ợc các làng l−u trữ nghiêm cẩn, đựng trong các hộp gỗ sơn mài và cất giữ trong hậu cung đình, đền. Nh−ng do nhiều lý do nh− chiến tranh, hoả hoạn,v.v... các bản sắc phong của rất nhiều làng xã Việt Nam bị thất lạc hoặc bị huỷ hoại. Chính vì thế, bản khai thần tích có kèm theo bản sao sắc phong hiện l−u trữ tại Th− viện KHXH là những t− liệu vô cùng quý giá không chỉ đối với các làng xã Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn hoá, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản lý văn hoá trong việc nghiên cứu, xác minh, bảo tồn và khôi phục những di sản văn hoá lịch sử của Việt Nam. Xét về mặt nội dung: Một bản thần tích, thần sắc thông th−ờng mở đầu và kết thúc ngắn gọn. Phần mở đầu nêu tên tuổi và chức sắc của ng−ời khai cùng nguyên do khai bản thần tích, thần sắc. Phần kết thúc là cam kết lời khai chính xác, tên tuổi, chữ ký, con dấu và xác nhận của Lý tr−ởng và Chánh hội. Phần nội dung chính dài nhất gồm 3 phần rõ rệt: Sự tích của đức thánh, tôn thần; Sắc của đức thánh, tôn thần và Nghi thức thờ cúng. (**) Kí hiệu kho tại Th− viện KHXH. + Sự tích của đức thánh, tôn thần là phần nội dung sinh động nhất của một bản thần tích kể về sự tích của các đức thánh, tôn thần. 13.211 quyển chép tay trong Bộ s−u tập là 13.211 câu chuyện sự tích đức thánh, tôn thần khác nhau đ−ợc thờ phụng ở 13.211 làng. Khảo sát cho thấy, nhiều bản thần tích có lối kể sự tích đức thánh, tôn thần của địa ph−ơng gần giống nhau ở lối kể chuyện rất dài. Một số bản thần tích lại mở đầu ngắn gọn một vài câu, đi thẳng vào nội dung sự tích. Văn bản cho biết các vị là linh khí của trời đất tạo ra, th−ờng đ−ợc viết với văn phong nh−: “Ngày x−a, Vua Hùng V−ơng nguyên là Thánh Tổ n−ớc Nam, mở vận dựng cơ đồ hơn 2000 năm; Hùng V−ơng dựng n−ớc, thanh sơn vạn dặm, tạo móng nền cung điện đế đô; một dải bích thủy, mở đạo Thánh đế minh v−ơng, giúp dân cứu vật, thống lĩnh 15 bộ; gọi là Triệu Tổ đất Bách Việt vậy. Có câu thơ rằng: Mở mang Nam Việt từ Kinh D−ơng Nhất thống sơn hà m−ời tám vua M−ời tám đời truyền thiên cổ tại ức niên h−ơng hỏa, ức niên thơm Lại nói: Thời đó, cơ đồ họ Hùng đến lúc mạt vận; ý trời cáo chung, thời đại nhà Hùng chấm dứt. Trải các triều đại Đông Tây Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, L−ơng lần l−ợt lên ngôi ngự triều trung. Khi đó, vào thời Tiền Lý, có ng−ời ở Thái Bình, họ Lý, tên húy là Bí. Có tài văn võ thao l−ợc, làm quan đến chức L−ơng Giám ở châu Cửu Đức. Cùng thời có viên quan Thích sử tên là Tiêu T−, cai quản ở Giao Châu rất hà khắc với dân chúng; quan quân nhà L−ơng d−ơng oai tàn bạo khắp Cửu Châu. Vì thế, Lý Bí mới khởi binh ở Cửu Đức, với ý chí cứu dân chúng thoát khỏi lầm than. Phía Bắc thì đánh đuổi Tiêu T−, phía Nam lập quyền ở đất Lâm ấp. Một hôm, 44 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2013 nhà vua tiến binh đi đến đạo Hải D−ơng (X−a có tên là Hồng Châu), thuộc huyện Cẩm Giàng, phủ Th−ợng Hồng đến đầu trại Bình Lãng bèn cho t−ớng sĩ nghỉ lại trú quân. Thấy địa thế đất trại sơn thủy bao quanh, thế rồng hổ ngồi chầu; núi không cao mà ao hồ thuận tiện, nhà vua cho đó là nơi phong quang thắng cảnh. Bèn lập tức truyền lệnh cho t−ớng sĩ cùng phụ lão nhân dân trại dựng đồn lũy, để sau này chống lại giặc L−ơng. Cuối canh 3 đêm hôm ấy, nhà vua mơ màng bỗng thấy mộng báo có 3 vị nam nhân, áo mũ chỉnh tề tiến đến tr−ớc mặt mà x−ng rằng: “Ta vốn là Đô Thiên, một ng−ời là Tả Kiên Thần Đại Đô, một ng−ời là Hữu Kiên Thần Đại Đức. Ta phụng mệnh Thiên đình, vì ta vốn trông coi trời Nam; nên tự nguyện đến âm phù lập công diệt giặc”. Nói xong, thét lên một tiếng rồi nhảy lên l−ng ngựa, chạy đến xứ Mạn Đông thì bỗng thấy một áng mây vàng, trông nh− hình một dải lụa đỏ từ trên trời soi thẳng xuống xứ ấy, rồi thấy 3 vị nam nhân theo áng mây bay thẳng lên không trung mà hóa đi. Một lúc sau, nhà vua tỉnh dậy biết đó là mộng báo Thiên Thần giáng xuống ứng mộng; lúc đó là ngày mùng 9 tháng Giêng. Sáng sớm hôm sau, nhìn ra ngoài đã thấy quân L−ơng bao vây tứ phía trùng trùng điệp điệp. Nhà vua hô hào quân sĩ t−ớng lĩnh xông ra đánh trả phá tan vòng vây, lại bắt đ−ợc Đại t−ớng giặc, thu đ−ợc vô số khí giới. Nhà vua mới nghiệm ra đó là do thần âm phù trợ giúp quân t−ớng ta mà thắng đ−ợc giặc L−ơng vậy. Thắng lợi lớn, nhà vua lập tức truyền cho phụ lão nhân dân trại Bình Lãng cấm không đ−ợc vào nơi đất thiêng, lập đàn tràng bái tạ thần. Nhà vua phán bảo rằng, phụ lão nhân dân trại lập miếu đồn thờ cúng một vị chính là Đô Thiên, còn 2 vị Tả Hữu kiên thần phối thờ theo” (Thần tích xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải D−ơng). Những bản thần tích khác lại mở đầu ngắn gọn một vài câu, đi thẳng vào nội dung sự tích. Ví dụ nh− bản Thần tích ở xã Tiêu Xá, huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh (TTTS 2459/60) ghi: “Tại sao Thần tích các việc nh− sau này. Duyên khi bấy giờ đời Hùng V−ơng hầu hết n−ớc Nam vận suy, núi sông về cả Tùy Đ−ờng Nam Bắc mới chia bờ cõi. Vua Ngô Tôn Quyền ở Hoan Châu lên ngôi đóng kinh đô ở Loa thành cả n−ớc đều x−ng là vua hiền vậy. N−ớc nhà tr−ớc là Châu ái bây giờ đổi là Thanh Hóa, có một ông bộ tr−ởng họ Nguyễn húy Trang, lấy vợ cùng làng họ Trần, húy Ngoạn. Ông bộ tr−ởng vốn dòng hào phú mà lòng l−ơng thiện, không hung ác gì cả. Nguyễn ông tuổi ngoài năm m−ơi, Trần bà tuổi ngoài bốn m−ơi mà ch−a có con trai, ông bà bấy giờ bàn với nhau rằng hai ta già mà con trai ch−a có phải đi xa tìm nơi danh lam thắng cảnh cầu tự. Bấy giờ chuẩn bị t−ơng lễ vật đi một ngày đến núi Tam Đảo, chùa Tây Thiên cầu tự. Ông bà nằm ở chùa ấy ba đêm, nghiệm mộng đoán ba đêm, không thấy mộng mị gì cả mới từ cáo thầy chùa xin về. Đi một ngày ông bà về đến phủ Thuận An, huyện Gia Bình, làng Tiêu Xá, Bến đò thôn. Đêm hôm ứng chập tối ông bà ngủ đỗ ở nhà hàng bến đò ấy. Đến nửa đêm chợt thấy ông lão tiên mình mặc hoàng bào, ngồi trên đám mây thẳng xuống tr−ớc mặt Nguyễn ông mà đứng, tay cầm ba cái trứng cho Nguyễn ông, lại đọc bốn câu thơ rằng: Tam noãn thần long phó Nguyễn gia T−ớng hồi vi bảo kế sơn hà. Thiên niên tr−ờng tại thiên giang chử. Tiêu Xá chi tân phúc nhật gia. Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc 45 (Đại ý bốn câu thơ ấy là giải thích ý nghĩa ba cái trứng). Đọc xong, liền bay lên trên đi mất” (Thần tích, thần sắc xã Tiêu Xá, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, 1938, tr. 660-661). + Sắc của đức thánh, tôn thần kê khai đầy đủ và chi tiết (chiếm phần lớn bản thần tích, thần sắc) từ thành phần xuất thân, quê h−ơng bản quán, công tích giúp dân giúp n−ớc đến đầy đủ các sắc đ−ợc phong của đức thánh, tôn thần. Ví dụ: “Nhà vua nghe tin tôn thần đã hóa liền sai quan quân trở về nơi ông hóa làm lễ tế tự, xin cho lập miếu để thờ tự ông. Đồng ý cho các khu Đĩnh Tú, Th−ợng Khê, Thái Khê thuộc trại Nghĩa Bang đ−ợc làm nơi hộ nhi sở tại để thờ phụng. Sắc phong thần hiệu là Trung á đại v−ơng. Các sắc phục vàng, đỏ ngày lễ đều cấm. Tặng phong Ngài là Hùng kiệt Trác vĩ Hộ quốc An dân Đại v−ơng. Cho phép các khu Đĩnh Tú, Th−ợng Khê, Thái Khê thuộc trại Nghĩa Bang đều đ−ợc r−ớc mỹ tự về cho dân lập miếu để thờ phụng ông. Đến thời vua Đinh Tiên Hoàng, hàng năm cứ tuần đầu tháng Giêng là xa giá nhà vua hành lễ để biểu d−ơng sự linh thiêng của Đại v−ơng. Bởi lẽ tr−ớc đấy vua Đinh khi đang ở chùa bị giặc vây hãm mà ông đã giải vây đ−ợc. Từ đó đặt thành lệ th−ờng vậy. Lại nói, từ đấy trở về sau này đều thấy rất hiển ứng nên trải nhiều đời đều đ−ợc các bậc đế v−ơng gia phong mỹ tự. Thời Trần Thái Tông giặc Nguyên đến xâm chiếm kinh thành bị bao vây, Trần Quốc Tuấn đã cầu đảo bách thần ở các đền, khi qua một vị thần này đã đ−ợc hiển ứng âm phù và đánh dẹp đ−ợc giặc Ô Mã Nhi. Vua Thái Tông đã ban phong mỹ tự là Linh ứng Anh triết Đ−ơng lộ Hiển hựu Đại v−ơng. Đến thời Lê Thái Tổ, khởi nghĩa đánh giặc Liễu Thăng nhà Minh, đất n−ớc bình yên. Vua Thái Tổ gia phong mỹ tự là một vị đại v−ơng Phổ tế C−ơng nghị Anh linh. Sắc ban cho khu Đĩnh Tú, khu Th−ợng Khê, khu Thái Khê trại Nghĩa Bang trùng tu miếu điện để thờ phụng ngài. Thật tốt đẹp lắm thay” (Nguyễn Tá Nhí và Nguyễn Văn Thịnh, 2010, tr. 9). + Nghi thức thờ cúng kê khai trả lời đầy đủ cho hàng loạt câu hỏi về các nghi thức, cách thức, những quy định, những điều cấm kỵ,... trong việc thờ cúng. Có những bản thần tích thần sắc kê thẳng nội dung câu trả lời, có những bản lại liệt kê các câu hỏi phía trên và trả lời ngay phía d−ới. Nghi thức thờ cúng cơ bản đ−ợc mô tả thông qua các câu hỏi nh− sau: Thờ Ngài thì thờ bằng gì? Thờ ngài những nơi nào? Những nơi ấy sửa sang thế nào? Nơi ấy cấm những gì? Sự giao hiếu thế nào? Trong làng tế lễ Ngài nh− thế nào? Ngày lễ nào theo với sự tích? Ngày lễ nào theo với thời tiết? Lễ vật trong những ngày ấy thì dùng những thứ gì? Những lễ vật ấy thì ai phải sửa và tiền thì trích ra từ đâu? Khi tế lễ xong thì lễ vật ấy phân phát thế nào? Nếu ng−ời nào phạm lỗi thì phải vạ thế nào? Thay đổi về việc cúng tế? Trong mấy năm gần đây thì việc cúng tế có gì thay đổi không? 46 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2013 Thay đổi lễ vật cúng tế (tr−ớc cúng gì, nay cúng gì và ngày nay có gia giảm gì không?). Lễ vật tr−ớc phân phát cho ai, ngày nay phân phát cho ai, cách phân phát ấy có thay đổi gì không? Số ng−ời dự lễ tế có thay đổi gì không? Sự trai giới có thay đổi gì không? Sự kiêng kị các hèm thần có thay đổi gì không? Có thể thấy, mỗi cuốn thần tích, thần sắc cung cấp thông tin về tín ng−ỡng, phong tục, tập quán,... của một địa ph−ơng. Cả Bộ s−u tập là nguồn t− liệu có giá trị tham khảo lớn để các địa ph−ơng xây dựng quy −ớc làng văn hóa, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nghi lễ thờ cúng cũng nh− căn cứ để khôi phục lại đình miếu. Bộ s−u tập cũng là nguồn t− liệu quý cho các nhà nghiên cứu văn hóa, sử học, dân tộc học,... tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, truyền thống, văn hóa, tín ng−ỡng... làng xã, vùng miền Việt Nam. Do vậy, Bộ s−u tập đã thu hút rất nhiều độc giả là các cá nhân, địa ph−ơng, các nhà nghiên cứu đến tìm kiếm và khai thác. II. Thực trạng công tác quản lý, bảo quản và khai thác Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc tại Th− viện Khoa học xã hội Trong những năm qua, với chức năng và nhiệm vụ của mình, Th− viện KHXH đã không ngừng chú trọng quản lý, bảo quản và khai thác nguồn t− liệu này. Về công tác quản lý và bảo quản: Bộ s−u tập hiện đang đ−ợc l−u trữ và sắp xếp theo đơn vị địa danh là tổng. Trong mỗi đơn vị bảo quản, t− liệu lại đ−ợc chia theo đơn vị địa danh nhỏ hơn (cấp huyện) rồi đến cấp nhỏ hơn nữa. Những t− liệu cùng về một làng, thôn đ−ợc tập hợp lại trong từng tập. Bộ s−u tập tuy đ−ợc l−u trữ, bảo quản và phục chế cẩn thận nh−ng không thể tránh khỏi sự xuống cấp và hủy hoại theo thời gian. Khảo sát sơ bộ của chúng tôi cho thấy, các bản thần tích, thần sắc đ−ợc viết tay trên giấy nhìn chung vẫn giữ đ−ợc nguyên bản nh−ng màu giấy đã ố vàng, giòn, nên màu mực chữ không còn đ−ợc sắc nét, số liệu kiểm kê cho thấy, 30% bị giòn, dễ rách nát; 24% bị ố vàng, giấy đã chuyển màu, mờ chữ do độ axít quá cao; 10% bị nấm mốc (Nguyễn Thị Minh Trung, Trần Thị Kiều Nga và Nguyễn Lê Ph−ơng Hoài, 2011, tr.3). Tình trạng này xuất phát từ một số nguyên nhân nh− thiếu diện tích và điều kiện bảo quản phù hợp, sự phá hoại của nấm mốc, côn trùng và sự lão hóa của giấy. Chất liệu giấy của Bộ s−u tập đ−ợc sản xuất theo công nghệ cũ, sử dụng nhiều hóa chất nh− sufit để làm bột có pha thêm một hàm l−ợng bột gỗ nhất định. Khi độ axit tăng làm cho giấy nhanh chóng bị ố vàng, giòn. Sự tiếp xúc trực tiếp của con ng−ời cũng là nguyên nhân gây h− hại tài liệu. Hiện nay, nhằm bảo quản tốt nhất tình trạng vật lý của Bộ s−u tập, Th− viện KHXH không phục vụ bản gốc, nh−ng qua hơn nửa thế kỷ, Bộ s−u tập đã phục vụ hàng ngàn l−ợt ng−ời nghiên cứu, sử dụng. Kỹ thuật đọc và ý thức bảo vệ tài liệu của độc giả đã gây nhiều h− hại cho Bộ s−u tập. Việc nhân sao tài liệu phục vụ độc giả cũng là tác nhân gây nên tình trạng rách, giòn, mờ chữ, rách bìa của tài liệu. Quá trình thay đổi địa điểm l−u trữ, bảo quản Bộ s−u tập (trong chiến tranh và di chuyển trụ sở Th− viện KHXH) cũng khiến tài liệu bị ảnh h−ởng. Về công tác tổ chức khai thác: Để bảo quản lâu dài và có điều kiện phục vụ rộng rãi nhu cầu nghiên cứu và khai thác kho t− liệu quý hiếm này, Th− viện KHXH đã biên soạn th− mục Thần tích, thần sắc Việt Nam; Xây dựng cơ sở dữ liệu Bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc 47 th− mục Thần tích thần sắc; chuyển tài liệu sang dạng ảnh kỹ thuật số. Qua đó, các cá nhân, tổ chức có nhu cầu tra cứu có thể tra tìm, khai thác thông tin trên mạng LAN của Th− viện KHXH. III. Một số đề xuất cho công tác quản lý, bảo quản để khai thác và phát huy các giá trị bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc Giữ gìn và phát huy giá trị bộ s−u tập Thần tích, Thần sắc là việc làm rất cần thiết của Th− viện KHXH nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu và bạn đọc khai thác đ−ợc những thông tin, t− liệu quý báu về lịch sử, truyền thống, tập quán, văn hóa làng xã Việt Nam và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của Th− viện KHXH. Để làm tốt công tác tổ chức quản lý, bảo quản, đồng thời tổ chức tốt, hiệu quả công tác khai thác bộ s−u tập, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau: - Bộ s−u tập cần đ−ợc tổ chức trong không gian rộng, có giá l−u trữ chuyên biệt phù hợp cũng nh− trang bị những thiết bị tạo vi khí hậu tốt. Các bản thần tích, thần sắc đ−ợc đặt vào lớp giấy khử axit tr−ớc khi đóng gói vào các hộp bảo quản. - Th−ờng xuyên kiểm tra, phát hiện những h− hỏng để kịp thời tu bổ, phục chế hoặc làm bản sao bảo hiểm. Nếu có dấu hiệu long, bong trang, cần gia cố bằng các kỹ thuật chuyên biệt, có chất liệu phù hợp với t− liệu. Cần hợp tác với những trung tâm sinh hóa chuyên biệt trong những tr−ờng hợp cần thiết. - Xây dựng quy định, quy trình cụ thể trong cách thức tiếp cận tài liệu của độc giả cũng nh− cách thức, kỹ thuật trong bảo quản tài liệu. - Đối với bản số của Bộ s−u tập, cần nghiên cứu cơ chế an ninh mạng nhằm bảo tồn tốt nhất các biểu ghi cũng nh− các tài liệu số hóa. - Thần tích thần sắc là dạng t− liệu chép tay bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Trải qua thời gian, chữ viết đã phai mờ khiến cho việc đọc, phiên âm, dịch nghĩa gặp nhiều khó khăn, thậm chí dẫn đến đọc sai, dịch sai. Do vậy, Th− viện KHXH nên cho đánh máy lại phần chữ viết tay, dịch ra tiếng Việt phần chữ Hán, tiến tới xuất bản để phục vụ đông đảo các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý cũng nh− các cá nhân, tổ chức quan tâm TàI LIệU THAM KHảO 1. Trần Thái Bình, Ngô Thế Long, (2009), Th− viện Viễn Đông bác cổ: Giai đoạn 1898 – 1957, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Nguyễn Tiến Hiển, Kiều Văn Hốt (2005), Tổ chức và bảo quản tài liệu, Nxb. Tr−ờng đại học Văn hoá Hà Nội, Hà Nội. 3. Nguyễn Tá Nhí, Nguyễn Văn Thịnh (2010), Tuyển tập thần tích, Nxb. Hà Nội, Hà Nội. 4. Hồ Sĩ Quý, V−ơng Toàn (chủ biên) (2011), Th− viện Khoa học xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Minh Trung, Trần Thị Kiều Nga, Nguyễn Lê Ph−ơng Hoài (2011), “Khảo sát sơ bộ, đề xuất ph−ơng án xây dựng hồ sơ đăng ký di sản t− liệu với một bộ s−u tập cổ, quý, hiếm tại th− viện Khoa học xã hội”, Báo cáo đề tài cấp cơ sở, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Thần tích, thần sắc xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải D−ơng (1938) hiện đang l−u trữ tại Th− viện Khoa học xã hội. 7. Thần tích, thần sắc xã Tiêu Xá, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (1938) hiện đang l−u trữ tại Th− viện Khoa học xã hội.
File đính kèm:
- bo_suu_tap_than_tich_than_sac_tai_thu_vien_khoa_hoc_xa_hoi.pdf