Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ

Trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, văn học dân tộc thế kỷ XIX, xu thế sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” trong tiếng thơ Nguyễn Công Trứ thể hiện sắc nét qua hệ thống quan điểm chính trị, xã hội và hệ thống thẩm mỹ, chủ đề, chủ điểm. Xu thế sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” thể hiện con người cá nhân Nguyễn Công Trứ. Tiếng thơ bộc lộ tính cách con người Nguyễn Công Trứ. Ông sánh mình với đất rộng sông dài, trở về khép mình trên chiếc nôi quê hương. Vượt qua mọi hệ lụy đời thường, Nguyễn Công Trứ đã góp thêm tiếng nói khẳng định bản ngã con người cá nhân, khẳng định chí hướng lập thân, dấn thân nhập cuộc. Ông là kiểu nhà nho tài tử.

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 1

Trang 1

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 2

Trang 2

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 3

Trang 3

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 4

Trang 4

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 5

Trang 5

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 6

Trang 6

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 7

Trang 7

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 8

Trang 8

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 11/01/2024 2100
Bạn đang xem tài liệu "Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ

Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ
65 
Xu thế sáng tác hướng tâm 
và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ 
Nguyễn Hữu Sơn1 
1 Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: lavson59@yahoo.com 
Nhận ngày 8 tháng 9 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 10 năm 2018. 
Tóm tắt: Trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, văn học dân tộc thế kỷ XIX, xu thế sáng tác “hướng 
tâm” và “ly tâm” trong tiếng thơ Nguyễn Công Trứ thể hiện sắc nét qua hệ thống quan điểm chính 
trị, xã hội và hệ thống thẩm mỹ, chủ đề, chủ điểm. Xu thế sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” thể 
hiện con người cá nhân Nguyễn Công Trứ. Tiếng thơ bộc lộ tính cách con người Nguyễn Công 
Trứ. Ông sánh mình với đất rộng sông dài, trở về khép mình trên chiếc nôi quê hương. Vượt qua 
mọi hệ lụy đời thường, Nguyễn Công Trứ đã góp thêm tiếng nói khẳng định bản ngã con người cá 
nhân, khẳng định chí hướng lập thân, dấn thân nhập cuộc. Ông là kiểu nhà nho tài tử. 
Từ khóa: Nguyễn Công Trứ, hướng tâm, ly tâm, tiếng thơ, xu thế. 
Phân loại ngành: Văn học 
Abstract: In the context of Vietnam’s history, culture and literature in the 19th century, the 
tendencies to write in the hướng tâm manner, or being conventional, traditional, orthodox in regard 
of the contemporary situation, and the manner of being ly tâm, which is opposite to that, in Nguyen 
Cong Tru’s poetry is reflected clearly through his systems of political and social views, and of 
aesthetics and themes. The tendencies express the individual-person of Nguyen Cong Tru. His 
poetry expresses his personality. He compared himself to the vast land and long rivers, returning to 
the cradle of his homeland. Overcoming all the vicissitudes of everyday life, Nguyen Cong Tru 
contributed to the voice asserting the self of man as an individual, and asserting the will to be 
engaged in life. He is the kind of amateur Confucian. 
Keywords: Nguyen Cong Tru, hướng tâm, ly tâm, poetry, tendencies. 
Subject classification: Literature 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
66 
1. Mở đầu 
Khác với phần đông các danh nhân dưới 
thời phong kiến, Nguyễn Công Trứ (1778-
1859) là người thành danh khá muộn. Vốn 
là người thông minh, hiếu học, song sau 
nhiều lần thi trượt, phải đến năm Kỷ Mão 
(1819), khi đã ngoài bốn mươi tuổi, lứa tuổi 
“tứ thập nhi bất hoặc” với từng trải trường 
đời và định hình chí hướng, ông mới thi đậu 
Giải nguyên và được bổ đi làm quan. Điều 
đó cũng có nghĩa rằng, qua suốt bốn chục 
năm sống ở quê nhà, ông đã nghiệm sinh 
sâu sắc đời sống thôn dã, hấp thụ đầy đủ 
truyền thống văn hoá, bản chất và cốt cách 
người dân đất cổ Giang Đình. Trong cuộc 
đời, ông quả là con người lắm tài mà cũng 
nhiều tật. Cái tài của ông bộc lộ ở chỗ, ông 
được thăng thưởng, trọng dùng, từng trị 
nhậm khắp vùng Hải Dương - Quảng Yên, 
Sơn - Hưng - Tuyên, Thừa Thiên, Quảng 
Ngãi, cho đến xứ An Giang - Hà Tiên, từng 
góp công khai khẩn đất hoang hoá ở các 
vùng Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, 
Quảng Yên...; hoặc được làm việc ở Quốc 
sử quán và chủ khảo trường thi; có khi được 
làm việc ở Bộ Binh, Bộ Hình và trực tiếp 
tham gia chiến trận. Còn cái “tật” thực chất 
chính là tài năng, bản lĩnh và cốt cách con 
người ông có nhiều mặt không chịu dung 
hoà với qui phạm lễ giáo phong kiến, 
thường xuyên tiềm tàng vượt lên “vòng 
cương toả”, “vòng danh lợi”... Cái “tật” thể 
hiện ở chỗ, ông từng được thăng thưởng 
đến chức Tổng đốc, Tham tri; rồi có lúc lại 
bị “trảm giam hậu” và bị cách chức, bắt làm 
lính thú lên trấn ở biên thùy Quảng Ngãi. 
Qua hai mươi tám năm làm quan, việc bị 
giáng chức và cách chức tới năm lần đủ 
thấy bản lĩnh con người cá nhân Nguyễn 
Công Trứ cao cường đến như thế nào! Ở 
đây có thể nhận thấy sự tương hợp của hiện 
tượng sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” 
trong đời và thơ Nguyễn Công Trứ. Bài viết 
này phân tích xu thế sáng tác “hướng tâm” 
và “ly tâm” trong thơ Nguyễn Công Trứ. 
2. Xu thế sáng tác hướng tâm 
Xu thế sáng tác “hướng tâm” trong thơ 
Nguyễn Công Trứ thể hiện sắc nét qua hệ 
thống quan điểm chính trị, xã hội và hệ 
thống thẩm mỹ, chủ đề, chủ điểm. 
Nguyễn Công Trứ là người đam mê nhập 
cuộc, sống hết mình với phận vị, công việc. 
Ông nhiệt thành dấn thân bằng hành động, 
bằng kinh nghiệm trường đời, và bằng kết 
quả cụ thể, chứ không phải bằng sự thuyết 
lý tư tưởng và lời tụng ca vương triều 
chung chung. Thậm chí có thể nói, ông đã 
tạo lập những cách hình dung mới về “chí 
nam nhi” (những con người của thời đại 
biết tự tin đánh cược sự nghiệp vào chính 
tài năng của bản thân mình). Đặt trong 
chiều hướng phát triển chung của trào lưu 
nhân đạo đương thời, ta càng thấy rõ rằng, 
Nguyễn Công Trứ không chịu sống khép 
mình trong qui phạm nghĩa vụ, chức năng, 
phận vị mà đã vươn tới ý thức sâu sắc về cá 
nhân, về quyền được bày tỏ chí hướng và ca 
vui giữa cuộc đời trần thế. Tất cả những 
điều đó tạo nên hình ảnh một Nguyễn Công 
Trứ ngất ngưởng, thị tài và đa tình, vừa sắc 
nét vừa đa diện. Về điều này, Biện Minh 
Điền nh ...  cái “ý tưởng mạnh mẽ, 
từ điệu rắn rỏi” thì e có sự hẹp hòi, và đồng 
thời hạ thấp và thu hẹp giá trị thi ca của ông 
lại vậy” [1]. 
Khác với nhiều nho sĩ trước đây và sau 
này, trong chiều hướng “ly tâm”, Nguyễn 
Công Trứ hầu như không một lần nào phản 
tư, phản tỉnh, công kích, châm biếm và phê 
 Nguyễn Hữu Sơn 
69 
phán nhà vua cũng như triều đình. Chẳng 
hạn, Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) trong 
Cung oán ngâm khúc đã chỉ rõ nhân vật nhà 
vua như sau: “Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ”, 
“Trên chín bệ mặt trời gang tấc”, “Đuốc 
vương giả chí công là thế”, “Chẳng soi cho 
đến khóe âm nhai”, “Trên chín bệ có hay 
chăng nhẽ”, “Khách quần thoa mà để lạnh 
lùng”. Hồ Xuân Hương (1772-?) không 
ngợi ca vua sáng tôi hiền, không coi anh 
hùng, vua, chúa là người phi thường (“Chúa 
dấu vua yêu một cái này”); không coi họ là 
người không thể không bị khuất phục trước 
hình ảnh khiêm nhường của cô thiếu nữ ngủ 
ngày (“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/Đi 
thì cũng dở ở không xong”). Thậm chí còn 
coi họ là người phải và chịu ơn mưa móc 
nữa (“Mát mặt anh hùng khi tắt gió/Che đầu 
quân tử lúc sa mưa”). Chung quy đó là cách 
hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân 
Hương, biểu hiện một cách nhìn nhất quán, 
cái nhìn thông tục, cái nhìn biến dạng. Điều 
đó khiến cho toàn bộ đối tượng phải bộc lộ 
bản chất theo đúng chiều hướng quan niệm 
nghệ thuật của nhà thơ [5]. Còn với Cao Bá 
Quát (1808-1854) thì thật táo bạo. Ông dám 
ngụ ý phê phán, chỉ rõ kẻ quyền thế phải 
chịu trách nhiệm về cảnh trăm dân khổ cực, 
từ đó bộc lộ nỗi bức xúc và nguyện ý đang 
ngày càng hiện hình sắc nét hơn. Ông viết: 
“Xích nhật hành hà đạo/Thương sinh thân 
kỳ hồi” (Đối vũ), “Mặt trời đã lẩn đi đằng 
nào/Để dân đen than thở mãi” (Nhìn mưa). 
Có thể thấy, Cao Bá Quát luôn luôn ta thán, 
luôn bày tỏ sự bất bình của mình với cả trời 
đất, mây gió, sông núi, cỏ cây. Trong một ý 
nghĩa nào đó, xét đến cùng, cuộc khởi loạn 
“châu chấu” Sơn Tây (1853) như một cách 
trả lời, một lần trả lời, một câu trả lời tận độ 
để ông vĩnh viễn không còn phải băn khoăn 
vương vấn nữa [7]. 
Nguyễn Công Trứ nhiều lần tỏ thái độ 
phê phán nhà vua và vương triều. Tuy 
nhiên, ông thường qui nguyên nhân của 
hiện tượng tiêu cực cho tạo hóa, cơ tạo, vận 
số, thời cuộc. Những nguyên do có phần 
“bất khả tri” kiểu này được Nguyễn Công 
Trứ viện dẫn vừa để giải tỏa, bao biện cho 
những hy vọng chưa thành, vừa để an ủi, 
động viên cho những ước nguyện còn ở 
phía trước. Ông viết: “Đi lại chẳng qua thời 
với mệnh/Cũng đừng thức mắc, chớ lo 
lường”, (Khuyên người đời), “Thôi hẵng 
đợi trời bình trị đã/Gặp thời vỗ cánh sẽ ra 
danh” (Vinh nhục). “Cùng đạt có riêng chi 
mệnh số/Hành tàng nào hẹn với văn 
chương/Đường công danh sau trước cũng là 
thường/Con tạo hóa sao dường ghen ghét 
mãi” (Có chí thì nên). 
Ngay từ khi còn khuất thân “bạch diện 
thư sinh”, Nguyễn Công Trứ đã tự tin, vượt 
lên hoàn cảnh, vượt lên cảnh ngộ đời 
thường, và trở thành nhà thơ số một vinh 
danh phận nghèo, cảnh nghèo, nhà nghèo, 
tết nghèo. Nếu như Nguyễn Trãi, Nguyễn 
Bỉnh Khiêm thường gắn cái nghèo với đạo 
lý, phẩm chất thanh sạch, lối sống thanh 
cao; Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương 
thường chịu trận trong cái nghèo, hoà nhập 
với cái nghèo, bỡn cợt “vị nghệ thuật” với 
cái nghèo, thì Nguyễn Công Trứ lại nhấn 
mạnh cái nghèo của nhà nho, cái nghèo có 
chí hướng. Ông viết: “Cơ tạo có đi thời có 
lại/Vạch vôi lấy đó mãi ru mà” (Thế tình 
đối với cảnh nghèo). Ông nhấn mạnh tâm 
thức mở đường, “vượt thoát” cái nghèo với 
loạt bài Vịnh cảnh nghèo, Than cảnh nghèo, 
Phận anh nghèo, Vui cảnh nghèo, Tự thuật, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
70 
Thế tình đối với cảnh nghèo, Quân tử cố 
cùng, Đồng tiền không quý Ông tếu táo, 
trổ tài phê phán cái nghèo liên quan đến 
thua bạc, nợ tổ tôm. Trong xu thế “ly tâm”, 
Nguyễn Công Trứ đặc biệt nhạy cảm với 
cái nợ, gánh nợ và tạo nên diễn ngôn riêng 
biệt, đặc sắc. Ông không bận tâm nhiều về 
sự nợ trong cái nghèo, mà đau đáu cảm 
nhận gánh nợ danh phận, nợ công danh, nợ 
chí hướng và nợ cả chí tang bồng, nợ phong 
lưu, nợ tình, nợ tài, nợ thời gian 
Với Nguyễn Công Trứ, cái nợ trước hết 
là cái nợ công danh, nợ chí nam nhi, chí 
làm trai. Ông viết: “Tài bộ thế mà công 
danh thế/Nợ làm giai quyết sẽ giả xong” 
(Trần ai ai dễ biết ai), “Tang bồng hồ thỉ 
nam nhi trái/Cái công danh là cái nợ nần” 
(Trên vì nước dưới vì nhà). 
Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh “tang 
bồng” gắn với “hành lạc”, ưu tiên cho 
“hành lạc”, lấy hành lạc làm một thước đo 
quan trọng cho chí “tang bồng”, gánh “nợ 
tang bồng”. Ông viết: “Nợ tang bồng hẹn 
khách thiếu niên/Cuộc hành lạc vẫy vùng 
cho phỉ chí/Xe Thang, Văn nhất đán tao 
phùng/Bao nhiêu nợ tang bồng đem giả 
hết”(Cầm kỳ thi tửu). 
Nguyễn Công Trứ xác định gánh nợ 
công danh mang chí bốn phương, đặt ra 
mục tiêu, mục đích vẫy vùng giữa nhân 
gian. Ông viết: “Đã hay đường cái thời ra 
thế/Sạch nợ tang bồng mới kể người” (Tình 
cảnh làm quan), “Đố kỵ sá chi con tạo/Nợ 
tang bồng quyết giả cho xong” (Chí nam 
nhi), “Hỏi thư kiếm có hay chăng nhẽ/Nợ 
tang bồng giả đặng lúc này chăng/Ra tay 
chữa lệch cho bằng” (Đi quân thứ). 
Ông tính sổ kết toán cho chí nam nhi, nợ 
tang bồng, đường hoạn lộ và thỏa nguyện 
với chính mình. Ông viết: “Nợ sách đèn 
đem nghiên bút giả xong/Cầu xe ngựa lúc 
đi về mới tỏ”(Nợ tang bồng), “Vòng trời 
đất dọc ngang ngang dọc/Nợ tang bồng vay 
giả giả vay/Đường mây rộng thênh thênh cử 
bộ/Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo” 
(Chí khí anh hùng). 
Thế nhưng, Nguyễn Công Trứ lại phân 
biệt ra gánh nợ công danh cùng nợ phong 
lưu với tất cả những biến thể gắn với “duyên 
tri ngộ”, “phong tình”. Ông viết: “Nợ phong 
lưu ai nỡ chối không/Duyên tri ngộ nên đeo 
đẳng mãi” (Tài tình), “Thời nhân bất thức dư 
tâm lạc/ Mượn phong tình mà giả nợ phong 
lưu” (Nhàn nhân với quý nhân). 
Ông tiếp tục tính sổ giả - vay; và lại thấy 
rằng mình đã thấu hiểu qui luật, đã dám dấn 
thân nhập cuộc, đã lãi lớn trong cuộc chơi 
trên cõi nhân gian. Ông viết: “Nợ phong lưu 
dan díu mấy mươi lần/Thú thi tửu lại chen 
chân gánh vác” (Chơi xuân kẻo hết xuân đi - 
II), “Cõi trần thế nhân sinh là khách cả/Nợ 
phong lưu kẻ giả có người vay” (Nợ phong 
lưu - Cõi trần thế), “Nợ phong lưu tính đã 
lãi rồi/Ngàn vàng chác lấy trận cười” (Nợ 
phong lưu - Nhân sinh thất thập). 
 Trong gánh nợ phong lưu, Nguyễn 
Công Trứ đặt cược vào gánh nợ tình, chấp 
nhận sự trả giá, thua thiệt, rủi may, đan kết 
hạnh ngộ và đắng cay, có say và có tỉnh, có 
được và có mất, có duyên và có nợ. Ông 
viết: “Nợ nhà tình vay một trả mười/Duyên 
hội ngộ cũng lừa ba lọc bảy” (Trong trần 
mấy mặt làng chơi), “Đa tình là nợ/Mắc míu 
vào đố gỡ cho ra” (Chữ tình), “Trong trần 
thế duyên duyên nợ nợ/Duyên cũng đành mà 
nợ cũng đành” (Tuổi già cưới hầu). 
Nguyễn Công Trứ ý thức trên tất cả là 
gánh nợ làm người, gánh nợ sống giữa cõi 
đời, trong thời gian trăm năm hư ảo. Ông 
viết: “Người thế, giả nợ đời là thế/Của đồng 
 Nguyễn Hữu Sơn 
71 
lần thiên hạ tiêu chung” (Gánh trung hiếu), 
“Đã sinh ra ở trong phù thế/Nợ trần ai quyết 
sẽ tính xong” (Có chí thì nên). 
Vậy là, trong chiều hướng “ly tâm”, dù 
đặt cược vào lý tưởng lập thân, gánh nợ chí 
nam nhi “tang bồng hồ thỉ” hay phong lưu, 
thì trước sau Nguyễn Công Trứ vẫn giữ 
phận vị trong vòng cương tỏa, trong qui 
phạm bậc quân tử tài bộ. Ông viết: “Ông 
Hy Văn tài bộ đã vào lồng” (Ngất ngưởng). 
Tương đồng với nhiều nhà nho khác, 
Nguyễn Công Trứ cũng có nhiều bài thơ 
phê phán gay gắt, trực diện tỏ bày thái độ 
với cách gọi miệt thị những “thằng có của”, 
“đứa không nhà”; trực diện chỉ trích luôn cả 
“thói đảo điên khủng khỉnh”; thậm chí còn 
đưa vào thơ ngay cả tiếng mắng đổng đầu 
đường “Đù mẹ nhân tình”. Nhưng chủ yếu 
ông vẫn dừng lại ở việc phê phán nhân tình 
thế thái, hành vi đạo lý, nếp sống, quan hệ 
dân sự thường ngày. Đi xa hơn, Nguyễn 
Công Trứ bày tỏ sâu sắc mối quan hệ hành - 
tàng và điều này tiếp tục là một minh chứng 
cho tâm thế sáng tác “ly tâm”. Ban đầu, ông 
tự ý thức, tự phản tỉnh về chữ danh. Ông 
viết: “Lại mang lấy lợi danh vinh 
nhục/Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan” (Chơi 
xuân kẻo hết xuân đi - I). 
Rồi ông cân đong, đo đếm và ngộ ra 
rằng, cái “nhàn” có khi còn hơn cái “danh”, 
thậm chí thấy ghê sợ mà chối bỏ cái 
“danh”, tìm đến cái “nhàn”. Ông viết: “Thái 
bình vũ trụ càng thong thả/Chẳng lợi danh 
chi lại hóa hay” (Thú ruộng vườn), “Chẳng 
lợi danh chi lại hóa hay/Chẳng ai phiền lụy 
chẳng ai rầy” (Thú ẩn dật), “Đem thân thế 
nương miền toàn thạch/Trốn đường danh 
mua lấy cuộc nhàn”(Con tạo ghét ghen). 
Thì hóa ra “danh” cũng phải mua, mà 
“nhàn” cũng phải mua; có lúc mua “danh”; 
có lúc mua “nhàn”; có lúc đổi nhàn lấy 
“danh”; có lúc đổi “danh” lấy “nhàn”. Ông 
viết: “Chen chúc lợi danh đà chán ngắt/Cúc 
tùng phong nguyệt mới vui sao/Đám phồn 
hoa trót bước chân vào/Sực nghĩ lại giật 
mình bao kể xiết” (Thoát vòng danh lợi), 
“Khi lang miếu đã đành công danh ấy/Lúc 
yên hà khước thị xuất nhân gian/Hành tàng 
bất nhị kỳ quan/Cõi đời mở mặt giang sơn 
thái hoà”(Hành tàng). 
Nguyễn Công Trứ ngộ ra rằng, cái 
“danh” kia chỉ là lâm thời, tạm thời, nhất 
thời, chỉ có ý nghĩa khi đang hành đạo; còn 
cái “nhàn” mới vững bền mãi mãi. Cái 
“danh” gắn với đám người thế gian, thế 
tình, với cõi nhân vi, chốn thị thành xa mã. 
Trong khi đó cái “nhàn” lại tồn tại với tạo 
hóa, vũ trụ, đất trời, thế giới tự nhiên, thiên 
nhiên thanh sạch, phong hoa tuyết nguyệt, 
trăng trong gió mát, mây bay gió thổi, núi 
rộng sông dài muôn thuở. Qui chiếu mối 
quan hệ hành - tàng, danh - nhàn với những 
sắc thái khác, Biện Minh Điền nhấn mạnh: 
“Có thể nói, hơn ai hết, Nguyễn Công 
Trứ hành đạo thì hành đạo đến nơi đến 
chốn, nhưng mặt khác, hành lạc thì hành 
lạc cũng đến mức tối đa, nói ngôn chí, ngôn 
chí đến tận cùng, cổ vũ hành lạc thì cổ vũ 
đến mức tột đỉnh. Con người này không 
chấp nhận dạng lưng chừng, nửa vời, mà 
dám chấp nhận tất cả mọi đối cực ở phía 
đỉnh điểm của nó. Ngoài cá tính mạnh mẽ, 
ngang tàng của Nguyễn Công Trứ, còn có 
sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó có 
sự tham gia của yếu tố loại hình nhà nho ở 
trong ông” [2]. 
Sau khi đã hồi tỉnh về cái “danh”, 
Nguyễn Công Trứ chuyển hóa chí nguyện 
hành đạo theo nhiều nẻo đường khác nhau. 
Trong hồi tỉnh đó có ám ảnh của đạo tu 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
72 
tiên, muốn thoát ly cõi trần; có sự nhập 
cuộc hiện sinh với tất cả những sự bất cần, 
ngất ngưởng “thú ăn chơi”, “xa mã thị 
thành”, “bầu rượu túi thơ”; có ý muốn lui 
về nơi non xanh cảnh vắng (“giang sơn 
phong nguyệt”, “Cầm hạc tiêu dao”, “Mây 
về ngàn Hống”); thêm nữa, có những thú 
đàn địch, ca lâu, tổ tôm, rượu nồng và gái 
đẹp (với những Tương tư, Trách tình nhân, 
Bỡn tình nhân, Bỡn cô đào già, Duyên gặp 
gỡ, Ca tự biệt, Một ngày là nghĩa, Lời thiếp 
tự tình). Trên tất cả, khi thoát vòng danh 
lợi, hầu như Nguyễn Công Trứ đã trở thành 
một ông ngất ngưởng siêu cá nhân cá thể, 
vừa là thế này vừa là thế kia, vừa không là 
thế này mà cũng chẳng là thế kia. Ông viết: 
“Đô môn giải tố chi niên/Đạc ngựa bò vàng 
đeo ngất ngưởng/Kìa núi nọ phau phau mây 
trắng/Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi/Gót 
tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/Bụt cũng 
nực cười ông ngất ngưởng/Được mất dương 
dương người tái thượng/Khen chê phơi phới 
ngọn đông phong/Khi ca, khi tửu, khi cắc, 
khi tùng/Không Phật, không tiên, không 
vướng tục”(Ngất ngưởng). 
Tuy nhiên, con người tung phá dọc 
ngang trời đất ấy trước sau cũng chỉ là tung 
phá với chính mình, tung phá đến hết mình. 
Điều đó nào đâu có hại đến ai, chưa động 
chạm đến đấng bậc bề trên. Vậy nên, con 
người ngất ngưởng siêu cá thể cá nhân 
Nguyễn Công Trứ lại đi đến mấy câu kết 
hướng tâm về những tấm gương danh thần, 
danh nho và dung hòa, giới hạn sự ngất 
ngưởng trong phép tắc qui phạm, phải đạo. 
Ông viết: “Chẳng Hàn, Nhạc cũng phường 
Mai Phúc/Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ 
chung/Đời ai ngất ngưởng như ông”. 
Có điều thật lạ, một nhà nho tài tử, 
phóng dật, ngang tàng, ngất ngưởng như 
Nguyễn Công Trứ lại có nhiều câu thơ nói 
về Phật giáo, nhiều ý thơ biểu lộ sâu sắc 
cảm quan Phật giáo; thậm chí có cả bài thơ 
Vịnh Phật thật sự sâu sắc. Về điều này, 
chúng tôi từng xác định: “Cuộc đời nhà 
Nho Nguyễn Công Trứ là cả một sự nối tiếp 
những tháng năm dấn thân, nhập cuộc 
không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, trên từng 
chặng đường đời và đến cuối cuộc đời, ông 
vẫn phải nhìn lại, tính đếm lại, tổng kết lại 
tháng năm quá khứ. Chính những thời khắc 
đó đã cho phép ông có được cách đánh giá, 
hình dung về cõi đời và kiếp người thông 
kênh với quan niệm Phật giáo. Nguyễn 
Công Trứ căn bản là nhà Nho hành đạo 
nhưng hiện tượng “dĩ Nho nhập Thích” ở 
ông càng soi sáng thêm giá trị nhân văn và 
chiều sâu minh triết Phật giáo, khả năng 
hòa giải, dung nạp của Phật giáo đối với các 
nguồn tư tưởng khác” [8]. 
4. Kết luận 
Xu thế sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” 
tạo thành những đối cực trong tiếng thơ 
Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, mọi sự “ly 
tâm” ở Nguyễn Công Trứ tuy tưởng đi đến 
tận cùng mọi gam độ con người cá nhân cá 
thể, nhưng thực chất lại là việc trổ ra những 
cánh cửa tự do khác nhau mà hầu như 
không đi ngược, không động chạm, phản 
bác, công kích, công phá vào thể chế Nho 
giáo chính thống. Vậy nên sự “ly tâm” ở 
đây là có điều kiện, có chiều hướng và giới 
hạn nhất định. Điều này chứng tỏ rằng, kiểu 
tác gia văn học, nhà nho hành đạo Nguyễn 
Công Trứ trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, 
văn học dân tộc thế kỷ XIX có sự khác biệt 
 Nguyễn Hữu Sơn 
73 
với những kiểu tác gia Nguyễn Du, Hồ 
Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn 
Khuyến, Tú Xương... 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Duy Diễn (1953), Luận đề về Nguyễn 
Công Trứ, Nxb Thăng Long, Hà Nội. 
[2] Biện Minh Điền (2009), “Sự thống nhất những 
đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn 
Công Trứ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3. 
[3] Đoàn Tử Huyến (Chủ biên) (2008), Nguyễn Công 
Trứ trong dòng lịch sử, Nxb Nghệ An, Trung 
tâm văn hóa ngôn ngữ Đông - Tây, Nghệ An. 
[4] Nguyễn Lộc (1999), “Nguyễn Công Trứ”, Văn 
học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế 
kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[5] Nguyễn Hữu Sơn (1991), “Tâm lý sáng tạo 
 trong thơ Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Nghiên 
 cứu Văn học, số 2. 
[6] Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Nguyễn Công Trứ - 
Phải có danh gì với núi sông”, Tạp chí Văn 
hóa Nghệ thuật, số 10. 
[7] Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cao Bá Quát và 
những suy tưởng trong thơ”, Tạp chí Nghiên 
cứu Văn học, số 2. 
[8] Nguyễn Hữu Sơn (2009), “Nhà nho Nguyễn 
Công Trứ với Phật giáo”, Tạp chí Nghiên cứu 
Văn học, số 3. 
[9] Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy 
Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn 
Tân Xb, Hà Nội. 
[10] Nguyễn Công Trứ (2008), “Đi thi tự vịnh”, 
Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Nxb 
Nghệ An, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông - 
Tây, Nghệ An. 

File đính kèm:

  • pdfxu_the_sang_tac_huong_tam_va_ly_tam_trong_tho_nguyen_cong_tr.pdf