Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20

Bài này có mục đích trình bày lịch sử phát triển từ hát bội, nhạc tài tử,

đến cải lương, từ cuối thế kỷ 19 đến các thập niên đầu thế kỷ 20, đặc biệt là

qua các tư liệu bằng tiếng Pháp và hình ảnh còn lại ở nhiều nơi chưa được

khai thác đúng mức. Nhiều người chưa biết là khi hát bội lần đầu tiên diễn ở

Pháp năm 1889 đã gây sự tò mò thích thú từ quần chúng và giới nghệ thuật.

Nhạc sĩ Debussy đã có xem nhạc Gamelan và tuồng hát bội, và âm nhạc

sáng tác sau này của ông có sự ảnh hưởng của nhạc Gamelan Java

và nhạc hát bội Việt Nam.

Nhiều người chưa biết là khi hát bội lần đầu tiên diễn ở Pháp năm 1889 đã

gây sự tò mò thích thú từ quần chúng và giới nghệ thuật. Nhạc sĩ Debussy đã

có xem nhạc Gamelan và tuồng hát bội, và âm nhạc sáng tác sau này của ông

có sự ảnh hưởng của nhạc Gamelan Java và nhạc hát bội Việt Nam.

Các tư liệu về lịch sử nhạc tài tử ở Việt Nam đều ghi là ban nhạc tài tử đầu

tiên do ông Nguyễn Tống Triều thành lập ở Mỹ Tho, sau đó qua Pháp trình

diễn ở hội chợ quốc tế năm 1910 (có tư liệu nói năm 1911).

Nhưng các tài liệu này đều không cho chi tiết gì thêm và cũng không ghi chú

tài liệu tham khảo. Qua sự tìm hiểu về nhạc tài tử qua các hình ảnh tư liệu,

cùng với sự hợp tác nghiên cứu của cô Mai Mỹ Duyên của Đại học Văn hóa.

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 1

Trang 1

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 2

Trang 2

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 3

Trang 3

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 4

Trang 4

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 5

Trang 5

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 6

Trang 6

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 7

Trang 7

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 8

Trang 8

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 9

Trang 9

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 39 trang baonam 45500
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20

Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20
 Hát bội, đàn ca tài tử và sự hình thành cải lương . 
 Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 
 Biên Khảo: Nguyễn Đức Hiệp – Nguyễn Lê Tuyên 
 Giới thiệu 
 Bài này có mục đích trình bày lịch sử phát triển từ hát bội, nhạc tài tử, 
 đến cải lương, từ cuối thế kỷ 19 đến các thập niên đầu thế kỷ 20, đặc biệt là 
 qua các tư liệu bằng tiếng Pháp và hình ảnh còn lại ở nhiều nơi chưa được 
khai thác đúng mức. Nhiều người chưa biết là khi hát bội lần đầu tiên diễn ở 
 Pháp năm 1889 đã gây sự tò mò thích thú từ quần chúng và giới nghệ thuật. 
 Nhạc sĩ Debussy đã có xem nhạc Gamelan và tuồng hát bội, và âm nhạc 
 sáng tác sau này của ông có sự ảnh hưởng của nhạc Gamelan Java 
 và nhạc hát bội Việt Nam. 
 Nhiều người chưa biết là khi hát bội lần đầu tiên diễn ở Pháp năm 1889 đã 
gây sự tò mò thích thú từ quần chúng và giới nghệ thuật. Nhạc sĩ Debussy đã 
có xem nhạc Gamelan và tuồng hát bội, và âm nhạc sáng tác sau này của ông 
có sự ảnh hưởng của nhạc Gamelan Java và nhạc hát bội Việt Nam. 
 Các tư liệu về lịch sử nhạc tài tử ở Việt Nam đều ghi là ban nhạc tài tử đầu 
 tiên do ông Nguyễn Tống Triều thành lập ở Mỹ Tho, sau đó qua Pháp trình 
 diễn ở hội chợ quốc tế năm 1910 (có tư liệu nói năm 1911). 
Nhưng các tài liệu này đều không cho chi tiết gì thêm và cũng không ghi chú 
 tài liệu tham khảo. Qua sự tìm hiểu về nhạc tài tử qua các hình ảnh tư liệu, 
cùng với sự hợp tác nghiên cứu của cô Mai Mỹ Duyên của Đại học Văn hóa. 
 Chúng tôi đã khẳng định được là ban nhạc ông Nguyễn Tống Triều đã qua 
 Pháp dự Hội chợ đấu xảo thuộc địa Marseille vào năm 1906,và tìm lại được 
 chân dung của các nghệ sĩ trong ban này, trong đó có cô Ba Đắc 
 và cô Hai Nhiễu (con ông Triều). Năm 1910 hay năm 1911 
 thật ra không có hội chợ quốc tế nào ở Pháp. 
 Trong lúc tìm hiểu ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống Triều sang Pháp 
 trình diễn vào năm nào, chúng tôi cũng tìm ra được người trách nhiệm ban 
nhạc; và từ đó biết được ông trưởng đoàn người Việt (người Pháp gọi ông là 
“M. Viang”) này không những đã dẫn ban nhạc của ông Nguyễn Tống Triều 
 đến Hội chợ Thuộc địa Marseille năm 1906 mà trước đó cũng đã dẫn một 
 ban nhạc tài tử đến Hội chợ triển lãm thế giới ở Paris năm 1900 (Exposition 
 universelle de Paris), năm khởi đầu thời đại nghệ thuật Belle Époque ở Âu 
 châu. Ban nhạc tài tử này có khả năng rất lớn cũng chính là ban nhạc của 
 ông Nguyễn Tống Triều. Đặc biệt ở Nhà hát Đông Dương “Théâtre 
 Indochinois” ở Hội chợ 1900, người đẹp nổi tiếng ở Âu châu thời đó l à: 
 Cléo de Mérode, đã mặc trang phục Cam Bốt múa với 
 tiếng nhạc của ban nhạc tài tử Việt Nam. 
 Báo chí Pháp đã đề cập nhiều về vũ điệu Cam Bốt do Cléo de Mérode trình 
 diễn ở sân khấu Nhà hát Đông Dương. Cléo Diane de Mérode là người đẹp 
 mà các họa sĩ nổi tiếng như Toulouse de Lautrec, Georges Jules Victor 
 Clairin, Giovanni Boldini đã vẽ chân dung, Gustav Klimt đã bị quyến rũ 
 và Alexandre Falguière tạc tượng theo chân dung của Cléo. 
 Cũng trong dịp này, nhạc sĩ và nhà dân tộc nhạc học, ông Julien Tiersot 
 (cũng là bạn của nhạc sĩ Debussy) đã quan sát, tiếp cận và phỏng vấn ông 
 trưởng đoàn nhạc tài tử và ghi lại các dụng cụ và âm nhạc tài tử. Julien 
 Tiersot đã viết giới thiệu về nhạc tài tử Việt Nam trên tạp chí 
 âm nhạc thời đó cho giới học thuật và công chúng. 
 Ngoài ra các ký giả, nhà văn như ông Maurice Talmeyr, Arthur Pougin, B. 
 Marcel đã mô tả chi tiết trong tạp chí nghệ thuật “Le Ménestrel” và báo chí 
 về buổi trình diễn điệu vũ “Cam Bốt” của Cléo de Mérode theo 
 tiếng nhạc do ban tài tử Việt Nam trình diễn. 
 Qua kinh nghiệm đã trình diễn trước công chúng ở Hội chợ Marseille 1906 
 (và cũng rất có thể ở Hội chợ Thế giới Paris 1900), ban nhạc tài tử của 
 ôngNguyễn Tống Triều sau khi trở về Mỹ Tho đã tự tin để đến với quần 
 chúng lần đầu ở Khách sạn Minh Tân, và từ đó khởi đầu cho sự lan truyền 
 trình diễn trên sân khấu của nhạc tài tử và “ca ra bộ” ở miền Nam. 
Khi trình bày sự phát triển của nhạc tài tử ở Việt nam trong giai đoạn đầu và 
 ảnh hưởng sau này đến sự hình thành cải lương, chúng tôi cũng nhấn mạnh 
 đến vai trò của ông Nguyễn Phong Cảnh, chủ nhà hàng Cửu Long Giang và 
khách sạn “Phong Cảnh Khách lầu” gần chợ Bến Thành, trong việc nâng đỡ 
 và phổ thông nhạc tài tử đến giới trí thức và quần chúng ở 
 Saigon nói riêng và Nam bộ nói chung. 
 Hát bội trong bối cảnh Nam Kỳ từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 
 Nguồn gốc hát bội (hát tuồng) vẫn chưa rõ ràng. Có hai giả thuyết mà các 
nhà nghiên cứu đã tranh luận: giả thuyết hát bội bắt nguồn từ dân gian và sau 
đó ảnh hưởng hát tuồng từ Trung quốc và giả thuyết hát bội được truyền vào 
 thời Lý-Trần như đã được ghi trong “Vũ Trung tùy bút” của 
 Phạm Đình Hổ và Đại Việt Sử ký toàn thư. 
“Nước Nam ta từ đời nhà Lý, có người đạo sĩ nhà Tống bên Trung Hoa sang 
 dạy dân trong nước múa hát làm trò. Trò tuồng ở nước ta bắt đầu từ đấy. 
 Sau này bọn giáo phường mới bày thêm lối hát 
 Bát đoạn cầm tục âm, gọi lầm là Bắ ... ách” rađời. Năm 1920, 
 ông Trương Văn Thông lập ra gánh Tân Thịnhở đuờng Boresse (nay là 
 đường Yersin). Năm 1921, Vương Có lập ra gánh Tập Ích banvà André 
 Thận lập ra gánh hátThầy Thận(xiếc, chiếu phim câm, ca ra bộ) ở SaĐéc, 
 vào dịp Tết đến Saigon, Mỹ Tho và Phnom Penh trình diễn. Qua năm sau, 
1921, thì thầy Năm Tú (Pierre Châu Văn Tú) mua lại đào kép của gánh thầy 
André Thậnđể lập ra gánh hát Thầy Năm Túở Mỹ Tho và cuối năm gánh này 
 lên Saigon trình diễn ở rạp Moderne(Chợ Lớn) và rạpEden(Saigon). 
 Hãng đĩa Pathésau đó mời gánh Thầy Năm Túthâu đĩa nhạc (23). 
 Năm 1920 cũng là năm bài “Dạcổ Hoài lang”của ông Cao Văn Lầu 
 (Sáu Lầu) sáng tác ở Bạc Liêu. Bài “vọng cổ” này sau đó được phổ biến 
 trong các gánh “cải cách” đánh dấu sự ra đời của nghệ thuật 
 sân khấu mới gọi là Cải Lương. 
 Nghệ thuật sân khấu mới, Cải Lương, đượcưa chuộng và phổ biến rộng rãi 
 trong quần chúng. Các ban cải lương mọc ra như nấm ở Saigon-Chợ Lớn. 
Năm 1925, ông Nguyễn Ngọc Cương (thân phụ của nghệ sĩ Kim Cương) lập 
ra gánh cải lương Phước Cương. Và năm 1926, Trần Đắc Nghĩa lập ra gánh 
 cải lương Trần Đắc, Nguyễn Văn Đẩu lập gánh “Nghĩa Hiệp Ban”và ông 
 Sáu Ngọ (vua cờ bạc) lập ra gánh “Nam Hưng ban”ở Chợ Lớn (23). 
 Theo Trần Quang Hải (3) về nguồn gốc của từ“cải lương”thì 
 " Danh từ « cải lương » có lẽ rút từ câu: Cải biến kỳ sự, Sử ích tự thiên 
 lương " Có nghĩa là đổi những gì cũ còn lại ra thành những gì mới và hay. 
 Danh từ cải lương được xuất hiện đầu tiên trên bảng hiệu của gánh Tân 
 Thịnh của ông Trương Văn Thông vào năm 1920. Sân khấu được trang 
 hoàng đẹp đẽ,có màn nhung, có tranh cảnh, và hát bài La Madelon 
 bằng tiếng Việt trước khi kéo màn." 
 Theo Tuấn Giang trích trong “Lịch sử sân khấu Việt nam”thì lại khác 
 “Ban Tân Thịnh đến năm 1920 mới ra đời, sáng tác hai 
 câu thơ treo trước cửa rạp: 
 Cải lương ca hát theo tiến bộ 
 Lương truyền tuồng tích sánh văn minh." 
Và Tuấn Giang đã phân tích thì thực ra từ “cải lương”đã có từ năm 1918 do 
 ông Năm Tú dùng cho tên gánh hát của mình. Ông Năm Tú là người áp 
 dụng thương hiệu từ “cải lương” để gọi gánh hát của mình “Ban hát cải 
lương Châu Văn Tú”,và nghiêm cấm các ban khác khôngđược dùng thương 
 hiệu cải lương của ông (5). Và hơn nữa, từ “cải lương” cũng đãđược dùng 
trong báo chí, sách vở của các nhà văn vào nhiều năm trước đó để nói vềtriết 
 lý chính sách cải lương (reformist) theo tư tưởng triết học phương Tây. 
 Ông Năm Tú chỉdùng lại từ đã được dùng phổ thông trong 
 giới trí thức có học thời đó. 
 “Đào kép gánh Thầy Thận mới nhập vô Gánh Thầy Năm Tú (tên thật là 
 Châu văn Tú) ở Mỹ Tho. Đây là một gánh hát đại quy mô, có soạn giả 
 Trương Duy Toản (tác giả vở Kim Vân Kiều), có họa sĩTrần Ngọc Điều vẽ 
phông sơn thủy. Danh tiếng gánh hát vang tới Saigon. Đoàn hát lên diễn tại 
 rạp hát bóng Moderne ở vùng TânĐịnh. Hãng dĩa Pathé của Phápđã sản 
 xuất rất nhiều dĩa hát 78 vòng. Nhờ vậy tiếng tăm của gánh Thầy 
 Năm Tú vang dội khắp ba miền Nam Trung Bắc. 
 Sự hình thành gánh Thầy Năm Tú đánh dấu sự chào đời sân khấu 
 cải lương và có tầm vóc quốc gia hơn là địa phương. 
Lần lượt các gánh khác được lập ra một cách mau chóng: Văn Hí Ban ởChợ 
Lớn, Tập Ích Ban ở Thốt Nốt, Nghĩa Đồng Ban, Tân Thịnh. Gánh Nam Đồng 
 Ban với nữ nghệ sĩ Năm Phỉ nổi tiếng trong vở “Tham phú phụ bần”. 
 Gánh Tái Đồng Ban ở Mỹ Tho với các nghệ sĩ nổi tiếng như 
 Phùng Há, Năm Châu, Ba Du. " (3) 
Sau này gánh hát Tân Thịnh do ông Năm Thông lên Saigon lập ra năm 1920 
 gọi là “Đoàn hát cải lương Tân Thịnh”.Lúc này từ cải lương không còn vi 
 phạm bản quyền, nên ông Năm Thông đã dùng để chỉtên gọi chung 
 cho ngành sân khấu mới (5). 
 Đến cuối thập kỷ 1920 thì cải lương thay thế hát bội truyền thống ở vịtrí 
 chính trong nghệ thuật trình diễn sân khấu miền Nam. Năm 1929, đểchuẩn 
 bị cho triển lãm Hội chợthuộc địa quốc tế (Exposition Coloniale 
internationale de Paris) năm 1931 ở Paris, một ủy ban do thành phố Saigon 
 thành lập để phối hợp tổ chức cho gian hàng Nam kỳ, đã chọn ông Gruet, 
 kiến trúc sư thành phố thiết kế, và chọn chùa“Bà Lụa” chùa làng Phú 
 Cường ở Thủ Dầu Một là đại diện kiến trúc Nam Kỳ. 
 Ngoài ra để thu hút sự chú ý người xem, ngoài Hát bội, Ủy ban cũng chọn 
 nghệ thuật sân khấu mới (Théâtre modern, théâtre reformé, hay théâtre 
 rénové)“Cải Lương”đưa ra trình diễn ở Hội chợ thuộc địa năm 1931 (16). 
 Như vậy từ khi hát bội được coi là nghệ thuật sân khấu chính đại diện cho 
 Nam kỳ ở hội chợ thế giới Paris 1889, và sau đó là nhạc tài tử và hát bội ở 
Hội chợ thế giới Paris 1900, Hội chợ thuộcđịa Marseille 1906, 1922 cho đến 
 sân khấu Cải Lương ở hội chợ Paris vào năm 1931 thì sự tiến hóa của sân 
 khấu nghệ thuật hát bội đi đến hình thành sân khấu Cải Lương đã hoàn tất. 
 Nếu Hát bội mang đến, gợi cho người xem qua các tuồng các lý tưởng, 
đạođức cao cả ca tụng đức hạnh anh hùng, lòng ái quốc, sự trung thành, can 
 đảm thì Cải lương thêm vào đó yếu tố tình yêu, tình cảm, hoàn cảnh xã 
hội: đau buồn hay khôi hài phảnảnh đời sống thực tại của xã hội người xem. 
 Vì thế ta không lạ gì tại sao cải lương đã trở thành phổ thông và được 
 ưa chuộng trong khắp các tầng lớp xã hội Nam kỳ lúc đó. 
 Khác với gánh cải lương của thầy Năm Tú thuộc dòng cải lương tuồng cổ, 
 thì gánh Đồng Bào Namcủa cô Tư Sự là dòng cải lương tân thời với những 
 sựviệc gần với đời sống của người dân, cải lương đềtài cuộc sống mới. 
 Người soạn giả viết nhiều cho đoàn cải lương Đồng Bào Nam 
 là Nguyễn Phong Sắc. Tác giả Nguyễn Phong Sắc, người đầu tiên có 
 hướng đổi mới sân khấu cải lương, khai sinh ra hình thức cải lương 
 đương đại, lên tiếng bệnh vực phụ nữ (5) 
 Trong thập niên 1920, cải lương phát triển rộng rãi và nhiều ban cải 
 lươngđược thành lập ở Saigon và các tỉnh. Các gánh cải lươngđi nhiều nơi 
trình diễn ở miền Nam. Như câu chuyên dưới đây về cô đào cải lương, gánh 
 cô có đi xuống Cần Thơ trình diễn. Trên báo “L’Ère nouvelle” (Nhựt Tân 
báo)số ngày 25/2/1929 có câu truyện vềmột cô đào Cải Lương do một người 
 Pháp tên là Bernardoni kể:đó là câu chuyên bi thương về mối tình và 
 cuộc đời của Thi-Hai với một thầy giáo. 
Và vở kịch mô phỏng kịch hài phương Tây“Vì nghĩa quên nhà”của soạn giả 
 Lê Quang Liêm và Hồ Biểu Chánh ngày 12-9-1917 (sau khi diễn 
 ởrạp Edenngày 11-9-1917). Vở tuồng này, cải tiến hát bộ với kịch phỏng 
 theo cách diễn kịch của phương Tây và nhạc tài tử ca ra bộ, 
 đánh dấu sự ra đời của Cải Lương. 
 Tổng luận 
 Trong bài này chúng tôi đã trình bày các khía cạnh mới trong lịch sử sân 
 khấu hát bội, nhạc tài tử và cải lương mà nhiều tác giảchưa để ý đến. 
 Hát bộiđã gây kinh ngạc và thích thú cho công chúng Pháp năm 1889 và đã 
 có ảnh hưởng đến một vài sáng tác của nhạc sĩ Debussy. Các hình ảnh các 
 diễn viên hát bội năm 1889 ở Paris mà hiện nay còn lưu trữ được có thể 
 được coi là những hình ảnh sớm nhất về nghệ thuật sân khấu hát bội ở 
 Saigon và Nam Kỳ. Chỉ có giámđốc và soạn giả tuồng hát bội là được biết, 
 ông Nguyễn Ngọc Trụ, còn các diễn viên khác hiện chưa được biết rõ. 
 Một vài chi tiết chúng tôi đã tìm ra là ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống 
 Triều đã qua Pháp trình diễn ở Marseille năm 1906 chứ không phải năm 
 1910, và rất có thể ban nhạc này cũng chính là ban nhạc tài tử do ông 
 “Viang” hướng dẫnđã đến Paris năm 1900 và có trình diễn với cô 
 Cléo de Mérode trong vở múa hát “La Bague enchantée”. 
Các hình ảnh của ban nhạc tài tử Nguyễn Tống Triều cũng đãđược trình bày 
 trong bài. Chúng tôi cũng đề cập đến khung cảnh xã hội, kinh tế trong thời 
 kỳ đầu phát triển cải lương vào thập niên 1920 và vai trò của ông 
 Nguyễn Phong Cảnh trong thuở ban đầu của lịch sử nhạc tài tử. 
 Hy vọng bàiđã đóng góp một vài khía cạnh mới trong sự nghiên cứu về 
 lịch sử hát bội, nhạc tài tửvà cải lương ở miền nam từcuối 
 thế kỷ 19 đến đầu thếkỷ 20. 
 Chú thích: 
(1)Đây chính là đàn cò(“violon à deux cordes”),còn đàn Huyền được dịch là 
 “harpe à une seule corde”,đàn kìm là “le Kim” hay “guitar à quatre 
 cordes”,đàn tranh (“guitar à seize cordes”). 
 (2)Theo giáo sư Hue Tam Ho Tai trên Vietnam Study Group (VSG)mailing 
list (9/10/2012) cho tác giả biết, thì các vua Đường đều có họLý và nhân vật 
 vua trong tuồng “Roi du Duong”là Đường Minh Hoàng. 
 (3)Chúng tôi nhận được sự giúpđỡ của cô Mai Mỹ Duyên đãđi xuống Mỹ 
 Tho tìm hậu duệ của ông Nguyễn Tống Triều để biết thêm thông tin nhưng 
không thành công. Cô cho biết là hình ông Nguyễn Tống Triều có trong sách 
 của ông Trần Văn Khải và khẳng địnhđược hình trong sách giống nhưhình 
 ông Triều trong tấm hình này. 
 (4)Theo B. Marcel (27) thì truyện “La Bague enchantée”là dựa vào câu 
 chuyện truyền thuyết “Vorvong và Sauvirong”do Ausguste Pavie đầu tiên 
 dịch từ tiếng Khmer ra tiếng Pháp. Pavie là nhà thám hiểm và ngoại giao đã 
 nhiều lần thám hiểm Cam Bốt, Lào và sông Mekong trong các công tác của 
phái bộ Pavie (“Missions Pavie”)do thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de 
 Vilers trao cho ông Pavie lãnh đạo thám hiểm các vùng ở lưu vực sông 
 Mekong 
 (5)Ange Michel Filippini là thống đốc Nam Kỳnăm 1886-1887. Ông khuyến 
khích phát triển thương mại giữa Pháp và Nam Kỳ, Cam Bốt trong giai đoạn 
 đầu khi Pháp thiết lập thuộc địa ở Đông Dương. 
(6)Sabourain là chủ đồn điền cà phê và cao su ở Nam Kỳ đầu thếkỷ 20. Theo 
 Niên giám Đông Dương 1908 thì ông bà Mme et M. Sabourain ở sốnhà 21 
đường Filippini làm nghềnhân viên phục vụ (huissier), sau này ông trở thành 
 chủ đồn điền cà phê và cao su, rất giàu có. Lúc này chợ Saigon (còn gọi là 
chợ Mới hay chợ Bến Thành ngày nay) chưa xây. Sau này khi chợ xây xong 
năm 1914, đường hai bên hông chợMới được thành lập (vàđường song song 
 với Filippini ngang hông chợ được đặt tên làđường Sabourain) và đường 
 Batavia không còn (đường Batavia nằmở vị trí quảng trường Quách Thị 
 Trang ngày nay, nối với Boulevard Bonnard). Ông Gustave Sabourain đã 
đến Nam Kỳ từ cuối thế kỷ 19. G, Sabourain là hội viên và là thư ký của Hội 
 tam điểm (Loge maçonnique,“Reveil de l’Orient”),có trụ sở ở số 17 rue 
d’Espagne (theo “Annuarie de Indochine française”,năm 1897) sau này dời 
 đến số 38 rue Taberd (Nguyễn Du ngày nay). 
 Đường Sabourain trở thành nơi có cửa hàng buôn bán tấp nập cho đến ngày 
 nay. Trong thập niên 1920, nhà in Tin-Đức thư-xã ở số 37-38-39, Rue 
 Sabourain đã xuất bản nhiều sách tiểu thuyết như tiểu thuyết lịch sử của 
Phạm Minh Kiên, Tần Dân Tử là những tác phẩm của thuở ban đầu trong 
 văn học quốc ngữ Việt Nam và sau này các truyện Tàu nhưThủy Hử,Tam 
 quốc diễn nghĩa,Nhạc phi diễn nghĩavà các sách Pháp về kinh tế,khoa học, 
 báo cáo của các cơquan chính phủ trong các thập niên 1930, 1940, 1950. 
Cũng trên đường này có nhà sách nhà xuất bản Tủsách "Học làm người"của 
 ông Phạm văn Tươi, số 16 Sabourain khoảng năm 1949-1950 (trước đó là 
 nhà sách Nguyễn Khánh Đàm) 
 (7)Theo tự vị Phalangsa-Annam (Lexique Franco-Annamite)của Ravier và 
Dronet xuất bản năm 1903 (15) thì từ “amateur” được dịch là “Kẻ thích sự gì 
 riêng”. Điều này có nghĩa là từ tiếng Pháp “amateur”ở thời điểm đầu thế 
 kỷ20 không có nghĩa là “kẻ không chuyên nghiệp”. 
 Tài Liệu Tham khảo 
 1. Pierre Nicolas, Notices sur l'Indo-Chine, Cochinchine, Cambodge, 
 Annam, Tonkin, Laos, Kouang-Tchéou-Ouan / publiées à l'occasion 
 de l'Exposition Universelle de 1900 sous la direction de M. Pierre 
 Nicolas (18..-19.. ; commissaire de l'Indo-Chine), impr. de Alcan-
 Lévy (Paris), 1900 
 2. Exposition universelle de 1900. Publications de la Commission 
 chargée de préparer la participation du ministère des colonies. Les 
 Colonies françaises, A. Challamel (Paris), 1900-1901. 
 3. Trần Quang Hải, Nguồn gốc cải 
 lương, 
 goc-cai-luong.html(vào link ngày 22/11/2012) 
 4. Vương Hồng Sển, Hồi ký 50 năm mê hát, Năm mươi năm cải 
 lương, Nxb Trẻ, 2007. 
 5. Tuấn Giang, Ca nhạc và sân khấu cải lương, NXB Văn hoá dân tộc 
 1997. 
 6. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí 
 Minh, 1991 
 7. Vương Hồng Sển, Sàigòn Tạp pín lù, Nxb Văn Hóa, 1997 
 8. Trần Văn Khê, Hồi ký Trần Văn Khê tập 2 – Đất khách quê người, 
 Nxb Trẻ, 2001. 
 9. L’Ère Nouvelle, Mardi 7 Septembre 1926, Première Année, No. 7., 
 112 rue d’Espagne, Saigon. 
 10. Saigon news, Straits Times Weekly Issue, 5 October 1887, Page 12 
 11. Annuaire de l'Indo-Chine française, 1re partie: Cochinchine et 
 Cambodge, 1897. 
12. Émile Blavet, Le Theatre annammite, in “La vie parisienne : (1889); 
 préface d'Abel Peyrouton”,P. Ollendorff (Paris), 1890, pp. 158-162 
 13. Arthur Pougin, Le théâtre à l'Exposition universelle de 1889: notes 
 et descriptions, histoire et souvenirs. Fischbacher, Paris, 1890., pp. 
 89-99 
 14. Ravier (Cố Khánh), Donier (Cố Ân) (Missionaries apostoliques au 
 Tonkin occidental), Lexique Franco-Annamite – Tự vị Phalangsa – 
 Annam, Kẻ Sở, Imprimerie de la mission, 1903. 
 15. L'Eveil économique de l'Indochine, Bulletin hebdomadaire, Hanoi 
 04/09/1927 (Année 11, No. 534), p. 16. 
 16. Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, 
 avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, 
 Challamel aîné (Paris), 1869. 
 17. Henri Latour, Le Journal de la Jeunesse, Nouveau recueil 
 hebdomadaire illustré, 1889, Deuxième semestre, Librairie Hachette 
 et Cie., Paris, 1889, pp. 94-96. 
 18. Annegret Fauser, Musical Encounters at the 1889 Paris World's 
 Fair, University of Rochester Press, NY, 2005. 
 19. Julien Tiersot, Notes d’ethnographie musicale, Libraire 
 Fischbachee, Paris, 1906. 
 20. Schmitz, M. D., 1995. Oriental influences in the piano music of 
 Claude Achille Debussy. Ann Arbor: University of Arizona Press. 
 21. Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, 
 L' Indo-Chine 1906, publié sous les auspices du Gouvernement 
 général de l'Indo-Chine, 1906. 
 22. Benedictus, Les musiques bizarres à l’Exposition, recueillies et 
 transcrites, G. Hartmann et Cie, Paris, 1889. 
 23. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Mộc bảnkhắc năm Chính Hòa thứ 18 
 (1697), Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội - 
 Hà Nội 1993. 
 24. Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, 
 Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon Gia Định xưa, Nxb Tp Hồ 
 Chí Minh, 1996. 
 25. Maurice Talmeyr, La cité du sang: tableaux du siècle passé, Perrin 
 (Paris), 1901. 
 26. Schmitz, M. D., 1995. Oriental influences in the piano music of 
 Claude Achille Debussy. Ann Arbor: University of Arizona Press. 
27. Arthur Pougin, Le théâtre et les spectacles à l’exposition universelle 
 de 1900 (suite), Le Ménestrel, 24 fe’vrier 1901, Paris, pp. 60-61. 
 28. B. Marcel, Les Théatres à l’Exposition, Le Passe-Temps et Le 
 Parterre Reunis, 28e année, No. 35, Dimanche 2 Septembre 1900, 
 pp. 3-6. 
 29. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Dictionaire Annamite, Đại Nam Quốc âm 
 Tự vị, Saigon, Imprimerie Rey, Curiol& Cie, 4 rue d’Adran, 1895. 
 NewEditor : Giòng Bách Việt 

File đính kèm:

  • pdfhat_boi_dan_ca_tai_tu_va_su_hinh_thanh_cai_luong_tu_cuoi_the.pdf