Xây dựng cơ sở dữ liệu các bài bản âm nhạc cung đình Huế - phần nhã nhạc
Khái niệm cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu (CSDL) là một ngân hàng thông tin lưu trữ dưới dạng văn
bản (Text), số liệu (Number), biểu bảng số liệu (Table) được lưu trữ trên máy
tính, sắp xếp theo một trật tự nhất định, có một chương trình quản lý, cập nhật
và khai thác thông tin theo mục đích của người sử dụng.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 1995, tập 1, trang 618
có nêu: “Cơ sở dữ liệu là tập hợp các bản “ghi” hoặc “tệp” có quan hệ lôgic với
nhau được lưu trữ trên máy tính. Một cơ sở dữ liệu (CSDL) thường là cách tổ
chức bằng phương tiện tin học hệ thống thông tin của một đối tượng thực tế nào
đó. Việc tổ chức, hoàn thiện cũng như khai thác một CSDL, được thực hiện bởi
một chương trình đặc biệt, được gọi là hệ quản trị CSDL”.
CSDL được tạo ra để giải quyết các vấn đề với các hệ thống hướng tệp
mà trong đó dữ liệu được sắp xếp, tìm kiếm dễ dàng, nhanh chóng, chính xác,
cho phép dễ chia sẻ tài nguyên với nhiều người cùng sử dụng và an toàn. Đối
với những dữ liệu có biến động, CSDL còn có chức năng bổ sung và cập nhật
thông tin.
Tuy được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau, nhưng khái niệm CSDL
tập trung vào 3 vấn đề chính: Lưu trữ thông tin; khai thác, chia sẻ thông tin;
và bổ sung, cập nhật thông tin.
Vậy, CSDL các bài bản âm nhạc cung đình Huế được hiểu là một hệ quản
trị CSDL, bao hàm các nội dung và chức năng: lưu trữ toàn bộ những thông
tin cơ bản về số lượng, tính chất của các bài bản âm nhạc cung đình Huế; có
chương trình quản lý, lưu trữ, bổ sung, cập nhật và khai thác thông tin.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng cơ sở dữ liệu các bài bản âm nhạc cung đình Huế - phần nhã nhạc
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 87 KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG XÂY DỰNG CƠ SỞ DỮ LIỆU CÁC BÀI BẢN ÂM NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ - PHẦN NHÃ NHẠC Phan Thanh Hải, Trương Trọng Bình* 1. Khái niệm cơ sở dữ liệu Cơ sở dữ liệu (CSDL) là một ngân hàng thông tin lưu trữ dưới dạng văn bản (Text), số liệu (Number), biểu bảng số liệu (Table) được lưu trữ trên máy tính, sắp xếp theo một trật tự nhất định, có một chương trình quản lý, cập nhật và khai thác thông tin theo mục đích của người sử dụng. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 1995, tập 1, trang 618 có nêu: “Cơ sở dữ liệu là tập hợp các bản “ghi” hoặc “tệp” có quan hệ lôgic với nhau được lưu trữ trên máy tính. Một cơ sở dữ liệu (CSDL) thường là cách tổ chức bằng phương tiện tin học hệ thống thông tin của một đối tượng thực tế nào đó. Việc tổ chức, hoàn thiện cũng như khai thác một CSDL, được thực hiện bởi một chương trình đặc biệt, được gọi là hệ quản trị CSDL”. CSDL được tạo ra để giải quyết các vấn đề với các hệ thống hướng tệp mà trong đó dữ liệu được sắp xếp, tìm kiếm dễ dàng, nhanh chóng, chính xác, cho phép dễ chia sẻ tài nguyên với nhiều người cùng sử dụng và an toàn. Đối với những dữ liệu có biến động, CSDL còn có chức năng bổ sung và cập nhật thông tin. Tuy được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau, nhưng khái niệm CSDL tập trung vào 3 vấn đề chính: Lưu trữ thông tin; khai thác, chia sẻ thông tin; và bổ sung, cập nhật thông tin. Vậy, CSDL các bài bản âm nhạc cung đình Huế được hiểu là một hệ quản trị CSDL, bao hàm các nội dung và chức năng: lưu trữ toàn bộ những thông tin cơ bản về số lượng, tính chất của các bài bản âm nhạc cung đình Huế; có chương trình quản lý, lưu trữ, bổ sung, cập nhật và khai thác thông tin. 2. Kết quả khảo sát, thu thập thông tin Sau khi chế độ quân chủ triều Nguyễn sụp đổ, Nhã nhạc – Âm nhạc cung đình Huế cũng mất đi môi trường diễn xướng, các nghệ nhân cung đình quay về với quê hương mình, bài bản nghệ thuật cung đình Huế cũng vì thế theo chân các nghệ nhân hòa nhập vào dân gian. Âm nhạc cung đình là một loại hình nghệ thuật đa dạng, khi điều tra khảo sát không chỉ đơn thuần dựa trên các bài bản âm nhạc mà còn phải căn cứ trên nhiều yếu tố như: người biểu diễn (nhạc công), loại nhạc cụ và các bài bản. Việc khảo sát toàn diện cần phải có phương pháp tổ chức hợp lý, tránh * Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. Đề tài được sự hỗ trợ của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế. 88 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 trùng lặp và khai thác đầy đủ trên nhiều phương diện. Phân nhóm hình thức thông tin để khảo sát thu thập thông tin là một trong những giải pháp cần thiết để tránh những sai sót. a. Phân nhóm thông tin Căn cứ vào lý do trên, chúng tôi tiến hành phân nhóm khi khai thác các bài bản: - Nhóm 1: Nhóm nghệ nhân Nhóm nghệ nhân được khai thác đa dạng từ 2 nguồn: + Các nghệ sĩ đang làm việc tại Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế. + Các nghệ nhân hoạt động tự do. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan nên chúng tôi không thể khai thác thông tin của tất cả các nghệ nhân, nghệ sĩ đã và đang biểu diễn các bài bản âm nhạc cung đình mà chỉ chọn những nghệ nhân, nghệ sĩ tiêu biểu, có uy tín, có kinh nghiệm để tiến hành điều tra thu thập thông tin - Nhóm 2: Nhóm bài bản + Bài bản Đại nhạc + Bài bản Tiểu nhạc b. Kết quả thu thập Sau một thời gian điều tra thực hiện, kết quả thu được như sau: - Nhóm 1: + Nhóm nghệ sĩ đang làm việc tại Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế: khảo sát thu thập thông tin được 5/14 nghệ sĩ. + Nhóm nghệ nhân hoạt động nghệ thuật tự do: khảo sát thu thập thông tin được 9/14 nghệ nhân. - Nhóm 2: Số lượng bài bản Đại nhạc là: 32/49 bài. Số lượng bài bản Tiểu nhạc là: 17/49 bài. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên chắc chắn có một số bài bản đang lan tỏa ngoài dân gian chưa được khai thác hết, chúng tôi sẽ cố gắng bổ sung, cập nhật khi có điều kiện trong những lần tới. c. Một số đặc điểm chính rút ra - Nhóm nghệ nhân, nghệ sĩ + Đặc điểm về cơ cấu Các nghệ nhân, nghệ sĩ mà chúng tôi khai thác có 14 người. Nhóm nghệ nhân, nghệ sĩ này hiện đang hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật và biểu diễn thường xuyên những bài bản âm nhạc cung đình này. Tr ... äp cho thế hệ kế cận chỉ mang tính qua loa, không chuẩn mực, và nếu sự việc này kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác sẽ dẫn 94 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 đến di sản Nhã nhạc cung đình Huế sẽ bị phá hỏng. Như vậy, chúng ta phải thực hiện các biện pháp ngăn ngừa đối với tất cả các hành vi xâm phạm và làm biến tướng các giá trị di sản của Nhã nhạc cung đình Huế, trong đó định hướng cho nghệ nhân Nhã nhạc, các nhạc công trình diễn loại hình nghệ thuật này hiểu được giá trị chuẩn mực của các bài bản Nhã nhạc mà họ chính là người đang trực tiếp nắm giữ là điều rất quan trọng. Cần lập ra hội đồng khoa học để thẩm định công tác kiểm kê, sưu tầm, nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để lưu trữ lâu dài các bài bản Nhã nhạc cung đình Huế. Ngoài ra, những bài bản chưa được nghiên cứu cần phải được đưa vào chiến lược bảo tồn. Như vậy, để xây dựng hệ thống quản lý như đã đề cập, chúng ta cần có một sự “định chuẩn” trong công tác quản lý những bài bản Nhã nhạc đã được nghiên cứu và lập hồ sơ khoa học. Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản của Nhã nhạc cung đình Huế. Trong đó, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về Nhã nhạc cung đình Huế trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của thông tin và truyền thông. Đẩy mạnh việc thể chế hóa quan điểm trong việc nhận thức về các giá trị di sản của Nhã nhạc. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về quyền tác giả, quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Ngoài ra, cần tăng cường công tác thanh tra trong việc trình diễn tuyên truyền về các giá trị di sản của Nhã nhạc cung đình Huế, gắn trách nhiệm cá nhân và tổ chức vào việc bảo tồn và quản lý các bài bản Nhã nhạc. Di sản văn hóa phi vật thể (trong đó có Nhã nhạc cung đình Huế) là tài sản quý giá không thể tái sinh, không thể thay thế nhưng rất dễ bị mai một và biến dạng vì nhiều yếu tố khác nhau như: môi trường diễn xướng thay đổi, không có trách nhiệm đối với việc truyền dạy, thiếu chuyên nghiệp, không quản lý bảo tồn đúng những chuẩn mực khoa học v.v Trong những vấn đề này, nhạc công là người trực tiếp trình diễn các bài bản Nhã nhạc, do đó các cấp quản lý phải biết hướng cho họ đến sự hiểu biết tầm quan trọng của các giá trị này, tránh sự biến tướng khi trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người được coi là trung tâm của quá trình phát triển, việc giữ gìn di sản văn hóa của Nhã nhạc cung đình Huế phải được gắn với con người và cộng đồng cư dân địa phương (với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản văn hóa), coi việc đáp ứng nhu cầu thưởng thức của đông đảo công chúng trong xã hội là mục tiêu hoạt động. Do đó, việc xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ quản lý Nhã nhạc cung đình Huế là điều cần thiết. Bởi vì, những nhân tố này sẽ phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của cơ quan, tổ chức đang trực tiếp quản lý, gìn giữ các giá trị di sản văn hóa của Nhã nhạc. Ngăn chặn hiệu quả việc “tự chuyển hóa” làm biến tướng hệ thống các bài bản nằm trong hệ thống Nhã nhạc cung đình Huế. c. Cung cấp thông tin Di sản văn hóa là sản phẩm của những điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế và chính trị cụ thể qua nhiều thời kỳ lịch sử. Vì thế, mối liên hệ của người quản lý các bài bản Nhã nhạc sau khi được nghiên cứu, chuẩn hóa và người có nhu Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 95 cầu tìm hiểu thông tin cần phải xác định hai yếu tố chính, đó là tính nguyên gốc và tính chân xác lịch sử của các bài bản Nhã nhạc. Tính nguyên gốc gắn bó với những bộ phận cấu thành làm nên các giá trị của từng bài bản nằm trong hệ thống Nhã nhạc ngay từ lúc sơ khai của nó. Còn tính chân xác lịch sử lại gắn với những dấu ấn sáng tạo được hình thành trong quá trình tồn tại của nó (các chất liệu làm nên sản phẩm, kỹ thuật trình diễn, môi trường diễn xướng, chức năng và ý nghĩa...). Như vậy, yếu tố nguyên gốc và yếu tố chân xác lịch sử sẽ quyết định các mặt giá trị của các bài bản Nhã nhạc cung đình Huế. Nhu cầu khai thác và sử dụng các giá trị di sản của Nhã nhạc sẽ mang tính hiệu quả cao, nếu người cung cấp và người được cung cấp có chung mục đích tích cực trong việc bảo tồn tính nguyên vẹn của loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, ngoài những thông tin dữ liệu được công bố đến với cộng đồng, những thông tin mang tính “bảo quản” chưa công bố, thì đối tượng được cung cấp bao gồm những tổ chức, cá nhân phải thông qua và được sự đồng ý của hội đồng khoa học hoặc cấp quản lý cao nhất của đơn vị đang quản lý thông tin, lúc đó thông tin mới được cung cấp. Để cung cấp thông tin cho các nhà nghiên cứu, các nhạc công trực tiếp biểu diễn các bài bản Nhã nhạc tìm hiểu nhằm nâng cao nghề nghiệp, chúng ta cần có một quy trình thực hiện, trong đó việc soạn ra một chương trình, một phần mềm quản lý các bài bản đã được nghiên cứu chuẩn hóa là cần thiết, thể hiện rõ tính chuyên nghiệp trong quá trình cung cấp và quản lý thông tin. Khi cung cấp thông tin cho các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân trình diễn Nhã nhạc cần phải báo cáo cho cấp quản lý cao nhất của cơ quan chủ quản các thông tin. Bởi vì, đơn vị chủ quản khi cung cấp thông tin cũng cần biết được mục đích sử dụng của người sử dụng thông tin vừa được cung cấp. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc cung cấp thông tin cũng là một hình thức quảng bá các giá trị di sản đến với công chúng, với cộng đồng. Đây là việc làm hợp lý để nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ và gìn giữ các bài bản Nhã nhạc cung đình tránh bị tam sao thất bản. Trong Luật Bảo vệ di sản văn hóa (chương II, điều 14, mục 5) quy định rõ: - Ngăn chặn hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hóa. Như vậy, đối với các bài bản Nhã nhạc cung đình Huế cũng nghiêm cấm những hành vi làm sai lệch các giá trị di sản khi được cung cấp. d. Cập nhật thông tin Các bài bản Nhã nhạc cung đình Huế được sưu tầm, nghiên cứu và định chuẩn sau đó đưa vào cơ sở dữ liệu là một công trình khoa học được hội đồng khoa học thẩm định theo đúng quy trình. Do đó, việc những cá nhân cập nhật thông tin từ cơ sơ dữ liệu phải có trách nhiệm tuân thủ các yêu cầu của đơn vị quản lý thông tin. - Quản trị tin tức, bài viết Tư liệu Nhã nhạc được cập nhật ở phần mềm desktop, website chỉ dùng để trình diễn tư liệu và quản trị tin tức, bài viết. 96 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 Đăng nhập vào phần quản trị Do mục đích bảo mật nên trên trang web đã ẩn nút login (đăng nhập), nếu nút login không hiển thị có thể gõ trực tiếp địa chỉ “/admin” hay “/login.aspx” vào sau địa chỉ trang chủ. Ví dụ: địa chỉ trang chủ là thì gõ thêm http:// nhanhac.no-ip.org/admin hoặc Lưu ý: Tài khoản người dùng này phải được cấp quyền chỉnh sửa tin bài (xem ở phần dưới), ngay người quản trị website nếu chưa phân quyền quản lý tin bài cho chính mình thì cũng chỉ được xem chứ không sửa được nội dung bài viết. Thêm bài viết mới Sau khi đăng nhập sẽ xuất hiện mục Quản trị tin bài, chọn phần Quản trị tin tức sẽ mở ra danh sách tin bài, chọn “Thêm mới”, hoặc nhấn nút sửa một bài đã có. Trong cửa sổ soạn thảo tin bài lần lượt nhập các mục thông thường phải có là: Chuyên mục, Tiêu đề, Ảnh đại diện (sẽ hiện ra ở danh sách tin bài ở trang chủ), Tóm tắt, Nội dung. Phân quyền quản trị tin tức, bài viết - Đăng nhập với quyền admin (cấp quản trị đầy đủ nhất), trong menu Users chọn Manage Users và thêm tài khoản người dùng mới. - Vào menu Quản trị tin bài à Quản trị chuyên mục à Phân quyền, sẽ thấy danh sách 3 nhóm người dùng với 3 cấp độ: User1: Có quyền cập nhật thông tin và hiệu chỉnh các bản tin do chính mình cập nhật. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 97 User2: Toàn quyền hiệu chỉnh thông tin do nhóm User1 tạo lập. User3: Duyệt để cho phép đăng tải thông tin. - Ở mỗi nhóm, chọn người dùng và nhấn nút “>” để đưa người dùng vào nhóm có quyền tương ứng ở cột bên phải. 98 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 - Nếu muốn xóa bỏ người dùng ra khỏi nhóm thì chọn tên người đó trong danh sách ở cột bên phải rồi nhấn nút “>” hay “<<” để thêm hoặc xóa toàn bộ người dùng của nhóm. - Người nắm giữ mật khẩu quản trị hệ thống cơ sở dữ liệu sau khi nhận được tệp văn bản có sự kiểm duyệt của hội đồng khoa học về những bài bản Nhã nhạc cung đình Huế, có trách nhiệm đưa lên hệ thống cơ sở dữ liệu. 4. Kết luận Do những đặc thù về lịch sử và địa lý, từ lâu, Huế đã là nơi giao thoa của nhiều luồng văn hóa, là một trung tâm nghệ thuật với nhiều ngành, nghề truyền thống. Đặc biệt, từ khi Kim Long-Phú Xuân được chọn làm thủ phủ của Đàng Trong (1636-1775), rồi sau đó trở thành kinh đô của cả nước dưới triều Nguyễn (1802-1945), văn hóa Huế càng có nhiều điều kiện hội tụ và tỏa sáng. Chính phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và văn hóa nơi đây đã tạo nên các loại hình nghệ thuật đặc sắc bao gồm: Nhã nhạc, múa cung đình và tuồng cung đình. Trong đó, Nhã nhạc cung đình Huế là một giá trị di sản đã được UNESCO công nhận là “Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”. Có thể nói, trong các sản phẩm của nghệ thuật diễn xướng cung đình, thì Nhã nhạc chính là sản phẩm cung đình độc đáo do các nghệ nhân, nghệ sĩ tài giỏi khắp cả nước hội tụ về đây và làm nên những tinh hoa nghệ thuật dùng để biểu diễn trong chốn hoàng cung. Năm 1945, khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, Nhã nhạc cũng bị mất đi vị trí chức năng xã hội, môi trường diễn xướng nguyên thủy, lâm vào tình trạng suy thoái và có nguy cơ thất truyền. Với sự hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trong và ngoài nước, Nhã nhạc đang dần được phục hồi và phát huy những giá trị đặc sắc, góp phần quan trọng vào quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Do đó, việc xây dựng Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 99 cơ sở dữ liệu về Nhã nhạc nhằm nghiên cứu bảo tồn, quản lý, cung cấp thông tin và cập nhật thông tin để phục vụ cho cộng đồng là một vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Sau một thời gian sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá và phân tích các bài bản Nhã nhạc, đưa nó trở về gần với sự “chuẩn mực” có thể, nhóm nghiên cứu cũng đã song song xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu để lưu trữ, tránh làm biến tướng dẫn đến tam sao thất bản những bài bản Nhã nhạc đã được nghiên cứu. Đây là tín hiệu vui cho tất cả những ai quan tâm đến những giá trị di sản quý báu của Nhã nhạc cung đình Huế. Theo đó, phần mềm được xây dựng nhằm quản trị kho cơ sở dữ liệu về Nhã nhạc cung đình Huế; chứa nhiều tư liệu được số hóa dưới nhiều định dạng và các nhóm đối tượng gồm tư liệu Nhã nhạc, nghệ nhân, nhạc cụ phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau. P T H - T T B TÓM TẮT Âm nhạc cung đình Huế bao gồm các thể loại như nhạc múa cung đình, nhạc tuồng cung đình và Nhã nhạc, trong đó Nhã nhạc đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Do đặc điểm dễ bị biến tướng trong quá trình truyền nghề và hoạt động biểu diễn, việc tìm ra giải pháp bảo tồn và quản lý các bài bản Nhã nhạc đã được sưu tầm, nghiên cứu và chuẩn hóa là một vấn đề nan giải. Sau một thời gian sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá và phân tích các bài bản Nhã nhạc, đưa nó về gần với sự “chuẩn mực” có thể, các tác giả đã xây dựng một cơ sở dữ liệu các bài bản Nhã nhạc cung đình Huế. Theo đó, phần mềm được xây dựng nhằm quản lý kho cơ sở dữ liệu về Nhã nhạc cung đình Huế; chứa nhiều tư liệu được số hóa dưới nhiều định dạng và các nhóm đối tượng gồm tư liệu Nhã nhạc, nghệ nhân, nhạc cụ...; có chương trình quản lý, lưu trữ, bổ sung, cập nhật và khai thác thông tin... ABSTRACT BUILDING DATABASE OF HUẾ ROYAL COURT MUSIC - COURT RITUAL MUSIC (NHÃ NHẠC) Huế royal court music includes various music genres such as court dance, royal classical opera, and court ritual music (Nhã nhạc), in which court ritual music was recognized as Intangible Cultural Heritage of Humanity by UNESCO. Due to transformable features in the process of instruction and performance activities, it is necessary to find solutions to the conservation and management of all kinds of collected, studied and standardized court music. After a period of collecting, doing research, evaluating and analyzing ceremonial music and bringing it closer to the “standardization”, the authors have built a database of all kinds of Huế royal court music. Accordingly, the software designed to manage the database repository of Huế royal court music contains digitized documents of various formats and object groups, including documents of court ritual music, musicians and musical instruments, together with programs of information management, storage, supplement, update and exploitation.
File đính kèm:
- xay_dung_co_so_du_lieu_cac_bai_ban_am_nhac_cung_dinh_hue_pha.pdf