Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt

TÓM TẮT

Bài viết khảo sát dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt ở cả ba

miền đất nước về đặc điểm nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật, chỉ ra một số điểm tương

đồng và dị biệt trong những bài hát này ở các địa phương ( với các bối cảnh khác nhau,

như hát quan họ ở Bắc bộ, hát phường vải ở Trung bộ, hò chèo ghe ở Nam bộ). Cuối cùng,

bài viết trình bày vai trò của dạng thức trong tổng thể cuộc hát đối đáp, trong văn hóa

người Việt và trong việc tìm hiểu các văn bản ca dao.

Từ khóa: hát đối đáp, hát kết thúc, dạng thức, bối cảnh, văn hóa truyền thống

ABSTRACT

The paper examines ending songs of the alternating folksongs between boys and girls

in the three regions of Vietnam, about some basic features of its content and artistic

language. This also shows the similarity and difference in ending songs between some

locals (with differrent performance contexts, for example: “quan ho singing” of Northern

people, “phuong vai singing” of Central people, “rowing boat singing” of Southern

people). Finally, it presents the roles of this form toward the alternating folksongs in

general, toward Vietnamese traditional culture and researching the textual versions of folk

poetry.

Keywords: alternating folksongs between boys and girls, ending songs, form, context,

traditional cuture

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 1

Trang 1

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 2

Trang 2

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 3

Trang 3

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 4

Trang 4

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 5

Trang 5

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 6

Trang 6

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 7

Trang 7

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 10300
Bạn đang xem tài liệu "Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt

Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 3(28) - Thaùng 5/2015 
 VỀ DẠNG THỨC HÁT KẾT THÚC 
 TRONG HÁT ĐỐI ĐÁP NAM NỮ NGƯỜI VIỆT 
 NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP(*) 
TÓM TẮT 
 Bài viết khảo sát dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt ở cả ba 
miền đất nước về đặc điểm nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật, chỉ ra một số điểm tương 
đồng và dị biệt trong những bài hát này ở các địa phương ( với các bối cảnh khác nhau, 
như hát quan họ ở Bắc bộ, hát phường vải ở Trung bộ, hò chèo ghe ở Nam bộ). Cuối cùng, 
bài viết trình bày vai trò của dạng thức trong tổng thể cuộc hát đối đáp, trong văn hóa 
người Việt và trong việc tìm hiểu các văn bản ca dao. 
 Từ khóa: hát đối đáp, hát kết thúc, dạng thức, bối cảnh, văn hóa truyền thống 
ABSTRACT 
 The paper examines ending songs of the alternating folksongs between boys and girls 
in the three regions of Vietnam, about some basic features of its content and artistic 
language. This also shows the similarity and difference in ending songs between some 
locals (with differrent performance contexts, for example: “quan ho singing” of Northern 
people, “phuong vai singing” of Central people, “rowing boat singing” of Southern 
people). Finally, it presents the roles of this form toward the alternating folksongs in 
general, toward Vietnamese traditional culture and researching the textual versions of folk 
poetry. 
 Keywords: alternating folksongs between boys and girls, ending songs, form, context, 
traditional cuture 
 1. Hát đối đáp nam nữ là hình thức ca làm vừa hát để giảm nhẹ nỗi vất vả, đồng 
hát dân gian có từ lâu đời tồn tại ở khắp các thời trao đổi tâm tình, thử thách trí tuệ dưới 
vùng miền trên đất nước Việt Nam, còn được dạng một người xướng lên một đoạn chính 
gọi bằng nhiều tên khác như dân ca đối đáp, (hò cái) và xô theo là tiếng ngân nga của số 
đối ca nam nữ, hát đối, hò đối đáp, hát giao đông người (hò con)” [2, tr.599]. Hò có 
duyên, hát huê tình, hát nhân ngãi (*) mặt ở khắp các vùng miền đất nước, nhưng 
 Hiểu theo nghĩa rộng, hát là khái niệm thường được xem là “đặc sản” của Trung 
dùng để gọi chung cho tất cả các hình thức và Nam bộ như hò mái nhì, hò khoan, hò 
diễn xướng lời ca, như hát bộ, hát quan họ, Bến Tre, hò Đồng Tháp Nếu như hò 
hát ví, hát hò, hát lý... Còn xét theo nghĩa thường gắn với các công việc lao động sản 
hẹp, có thể phân biệt giữa hát và hò trong xuất thì hát gắn nhiều hơn với hội hè, đình 
một chừng mực nhất định. Theo Từ điển đám, vui chơi. Hát là diễn xướng có vần có 
văn học, hò là “một loại hình dân ca Việt điệu theo một bản nhạc, ít nhiểu mang tính 
Nam gắn với sản xuất, người lao động vừa chất nghệ thuật khuôn khổ. Trong kho tàng 
 dân ca người Việt, nổi bật có hát quan họ, 
(*)TS, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM 
 14 
hát ví, hát đúm, hát trống quân, hát ghẹo trai gái làm quen nhau, xích lại gần nhau, 
 Tuy có phần khác biệt như vậy, nhưng mặt nhìn mặt, tay nắm tay, trao đổi những 
trong dân gian, sự phân định giữa hát và hò đồ vật kỷ niệm, hứa hẹn gắn kết Ca hát là 
nhiều khi không rõ ràng, dễ nhập nhằng, cơ hội thuận lợi để đôi bên gặp gỡ, tìm hiểu 
lẫn lộn. Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đã nhận xét: và tiến tới hôn nhân. Trong quá trình phát 
“Làn điệu hát huê tình nghe buồn man triển, hát đối đáp đã dần trở thành một sinh 
mác, nhịp điệu buông lơi, thoải mái. Thoạt hoạt văn nghệ, ở đó, quan hệ nam nữ được 
nghe dễ nhầm lẫn với một số làn điệu hò mở rộng thành nhiều mối quan hệ xã hội 
chèo ghe, vì giữa hai thể loại này không có khác (kết chạ giữa hai làng, bạn bè, người 
ranh giới rõ rệt” [4, tr.110]. dân – chiến sĩ, người dân – quan lại...). 
 Giữa hát ghẹo, hát ví, hát trống quân... Hát đối đáp có sức hấp dẫn đặc biệt. 
và hò chèo ghe, hò giã gạo, hò cấy... có thể Sự tồn tại của hình thức này trên khắp các 
khác nhau trong cách thức trình diễn, làn vùng miền đất nước với số lượng câu hát 
điệu âm nhạc... nhưng về bản chất đều là cực kỳ lớn đã nói lên điều đó. Là lời tự hát 
sinh hoạt đối ca giữa nam và nữ xoay của người lao động, hát đối đáp thu hút 
quanh tâm điểm huê tình. Bài viết này quan được sự chú ý tham gia của nhiều tầng lớp, 
tâm đến điểm chung cốt lõi vừa nêu, đồng ngành nghề, lứa tuổi...trong xã hội. Mỗi 
thời khảo sát các sáng tác trữ tình chủ yếu cuộc hát là một cuộc chơi nhiều thú vị, bất 
từ bình diện ngôn từ nên thiết nghĩ có thể ngờ. Những lời ca buông bắt trò chuyện 
dùng tên gọi hát đối đáp để chỉ chung cho trực tiếp giữa các cá nhân đã tạo một 
tất cả các cách thức diễn xướng đối đáp của không gian thuận lợi cho sự sáng tạo trên 
dân gian, bao gồm cả hát và hò. cái nền của các yếu tố nghệ thuật truyền 
 Theo cách hiểu trên đây về hát đối đáp thống. Sự kết hợp giữa truyền thống với 
thì Bắc Bộ có hát quan họ, hát cò lả, hát ứng tác luôn làm mọi người hào hứng. 
ghẹo, hát trống quân, hát đúm, hát ống  ; Nhiều cô gái đã mê mệt “Em nghe anh bỏ 
Trung Bộ có hát giặm, hát ví, hò khoan, hò giọng trầm; hồn xiêu phách lạc, vàng cầm 
g ... n này”... Có dặn dò chung thủy: áo, quạt, ô, kính. Sắp chia tay nhau, họ 
“Ra về dặn bạn một hai - Bóng mình mình muốn xin, trao chút kỷ vật để làm tin hoặc 
tựa, bóng ai đừng kề”, “Ra về dặn nước xin lại, đòi lại các vật đã trao lúc đầu khi 
với non - Dặn rằng một chữ vuông tròn vào cuộc hát. Trong tài liệu về hát ghẹo 
phu thê”, “Chàng về em dặn nhời Vĩnh Phú có lưu ý về điều này: “Thi hát 
này”, “Chàng về em dặn đôi lời”...Có ghẹo không hát ứng khẩu mà chỉ thi hát các 
nhớ thương, khóc lóc: “Ra về chỉ nhớ với giọng và câu đã có sẵn. Để biết ai hơn ai 
thương”, “Ra về chỉ nhớ anh hoài”, kém, các cụ dùng một cái đóm tre hay một 
“Ra về chín nhớ mười thương”, “Ra về cái lạt dài bẻ gập từng khúc một để làm 
nhớ ngãi nhớ tình”, “Ra về nước mắt dấu. Các cụ gọi là “bẻ cò” Mỗi lần thua, 
như mưa”, “Ra về nước mắt nhỏ thì bên thua phải lấy một thứ trang phục 
hoài”... Có mong muốn táo bạo được như khăn, áo hoặc một thứ đồ vật nào khác 
“về theo”: “Chàng về bỏ thiếp sao đành - để trao cho bên được. Khi hát xong, sắp ra 
Thiếp xin đóng cửa, buông mành thiếp về, bên được sẽ trao trả lại bên thua” [7, 
theo”, “Anh về cho em về cùng”, “Anh tr.155] Còn ở hát đúm Hải Phòng, “Nếu 
về cho em về theo”... Có hẹn hò gặp lại: bên nào chịu thua thì phải để lại “vật làm 
“Nàng về hầu mẹ hầu thầy - Ngày mai lại tin” (khăn, áo, mũ, nón, ô) và như vậy càng 
đến chốn này cùng anh”, “Hẹn ngày ta lại thôi thúc họ gắng tìm ra lời đáp để “chuộc” 
gặp ta - Chắc rằng tình cũ mặn mà lại lại “vật làm tin” đó Đôi khi nam cũng 
hơn” phải bỏ cả ô, mũ, nữ phải bỏ cả nón, khăn 
 Họ chào nhau ra về, cũng lớp lang chịu thua bỏ của chạy lấy người” [3, tr.21] 
trình tự, không bỏ sót ai - chu đáo như khi Các bài hát về khăn, nón, áo... khá dài, 
mới gặp nhau: “Canh khuya nguyệt lặn sao miêu tả tỉ mỉ về vật dụng và xen vào đó 
tà - Giã ơn tất cả khách quan trong ngoài - những liên tưởng về tình duyên. Những đồ 
Có lòng chiếu cố hôm nay - Đã mãn cuộc vật này thường được hình dung là rất đẹp, 
này xin bạn nghỉ ngơi”, “Bây giờ trăng rất quý: “Nón này nón bạc nón vàng - Nón 
đã xế tà - Mình gần mình ở, ta xa ta về - này anh để treo ngang trong nhà”, 
Anh em đi ngủ kẻo khuya - Tôi xin tạm biệt “Khăn em nua ở tỉnh Đông - Chạy tàu em 
đi về đường xa” xuống Hải Phòng mua kim - Chạy tàu 
 Lời hát từ giã thường vẽ lại thời điểm xuống tỉnh Hưng Yên - Mua con chỉ thắm 
chia tay, đó là lúc cuối ngày: mặt trời đã kết duyên cùng chàng”...Bài hát xin và 
gác non đoài, mặt giời đã tối hôm rồi, mặt tặng kỷ vật thì lời rất thiết tha, tình tứ:
giời hết ánh nắng rồi hoặc khi rạng sáng: “Chàng để ô lại em ghì - Người không đi 
 17 
lại của thì còn đây”, “Quạt này em quạt trong các ngày hội, là một phần quan trọng 
đương vừa - Chàng mà muốn lấy em đưa trong nghi thức thờ cúng, tế tự. Mỗi hành 
cho chàng - Quạt này cúc bạc nhài vàng - động, lời nói, câu hát quan họ là một phần 
Quạt này chỉ quyết với chàng, chàng ơi!”, thiêng, là thể hiện mối quan hệ thần linh - 
“Chàng về em chẳng dám nài – Áo trong người tế tự, và giữa đôi dân. Các liền anh, 
chàng mặc, áo ngoài em xin” Còn bài liền chị đi hát đều có ý thức rằng họ đang 
hát đòi lại vật dụng để ra về thì nhiều câu đại diện cho làng mình đi làm lễ ăn chạ với 
lý lẽ trước sau nhằm thuyết phục phái kia làng bạn. Lời hát có thể tác động đến thánh 
rằng việc trả lại là cần thiết, hợp lý. Họ thần, góp phần tạo ra cuộc sống tốt đẹp
thường nói về đường sá xa xôi (phải có hơn, nên họ luôn chú ý trau dồi ngôn ngữ, 
nón, ô che mưa nắng), sợ bạn bè cười chê phong cách trình diễn, nghệ thuật hát... 
(vì đi có về không), vật dụng do cha mẹ Nhóm nhỏ hát quan họ được tổ chức chặt 
mua (nên phải đem về kẻo cha mẹ mong): chẽ, có quy định kỹ càng về mọi mặt sinh 
“Sáng đi chúng bạn anh đông - Giờ về ô hoạt, có luyện tập công phu... Trước khi 
mất bạn trông bạn cười – Trước sau có bấy cuộc hát bắt đầu, bên mời hát phải đón 
nhiêu lời – Lấy công lấy của anh thời đền quan họ bạn ở cổng làng, cùng đến đình để 
sau – Xin em cầm tạm khẩu giầu – Trả ô hát chúc rồi mới về nhà, mời cơm, nước, 
anh lại kẻo lâu bạn chờ”, “Nón này trầu... Trong không khí như vậy, những câu 
chàng cho em xin -... Nón này của mẹ của hát vang lên vừa trang trọng, vừa ấm áp 
thầy - Cho em chơi hội cầm tay đội đầu...” nghĩa tình. Cũng như ở các dạng thức khác 
 Lời hát thuộc chặng kết thúc cũng có trước đó, dạng hát kết thúc của quan họ 
những đặc điểm ngôn ngữ dễ nhận dạng. gồm nhiều lời với phong cách mượt mà, 
Các công thức mở đầu như “Anh về...”, trau chuốt: “Người về bỏ bạn sao đành - 
“Chàng về...”, “Ra về...” được lặp lại Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng - 
thường xuyên. Chỉ riêng trong hát phường Người về bỏ vắng phòng không - Người về 
vải đã có đến 90 lời bắt đầu bằng “Ra em vẫn nay trông mai chờ...”, “Người về 
về...”, hơn 30 lời “Anh về...”. Những từ em những khóc thầm – Bên song, vạt áo 
ngữ được láy đi láy lại: ra về, xin về, đừng ướt đầm như mưa...”...Trong một số trường 
về, sao vội về, về chi, về răng được mà về, hợp, câu hát thể hiện tình yêu lứa đôi thắm 
sao đành, bao giờ cho quên, ở lại đây, dặn thiết, đậm sâu: “...Trách ai trải chiếu 
chàng, dặn nàng, hẹn ngày...và nhiều cung không nằm – Để em trằn trọc một mình sao 
bậc của nhớ, thương, khóc... đang...”, “Người về thưa bác mẹ thầy – Rồi 
 4. Tương tự như các hình thức diễn ra mở lịch định ngày kết duyên...”... nhưng 
xướng văn nghệ dân gian khác, hát đối đáp được dùng như lời từ tạ giữa đôi dân, giữa 
là những sự kiện giao tiếp nghệ thuật trực hai quan họ bạn đã kết nghĩa và xem nhau 
tiếp trong nhóm nhỏ [6, tr.218]. Vì là giao như anh em một nhà. Đặng Văn Lung có 
tiếp trực tiếp, vì là nhóm nhỏ..., tức rất cụ nhận xét rất hay rằng: “...Phát triển dòng 
thể, đa dạng, linh hoạt, nên ở từng địa ngôn ngữ mang tính thiêng của hội hè, 
phương, dạng kết thúc trong sinh hoạt trữ người quan họ tạo ra một thế giới thăng 
tình này cũng có những sắc màu phong phú hoa đặc biệt so với các dân ca khác, với trai 
khác nhau. thanh gái lịch các nơi khác.”[1, tr.138]. 
 Hát quan họ thường được diễn xướng Hát phường vải ở Nghệ Tĩnh không 
 18 
gắn với lễ hội, với các nghi thức thờ cúng, Chặng kết thúc trong hát phường vải với số 
tế tự hay với tục kết chạ. Đây là sinh hoạt lượng lớn lời ca mang lại cho người tiếp 
văn nghệ của những người lao động làm nhận cái nhìn đầy đủ hơn về tâm hồn
nghề kéo vải, thường diễn ra từ sau mùa phong phú và sự tinh tế, tài hoa của người 
thu hoạch bông cho đến tháng tám, tháng dân xứ Nghệ, như Xuân Diệu đã có lần 
chín hàng năm. Quay xa kéo vải là công nhận xét “chỉ riêng một chuyện ra về, đã
việc của phụ nữ cho nên khi đối đáp, các bao nhiêu trùng trùng điệp điệp của hai tấm 
cô thường vừa làm việc vừa ca hát, còn các lòng lưu luyến nhau: “Nửa về nửa muốn ở 
chàng trai đến hát thì không làm gì, chỉ đây...”, “Nghe tin anh dóng dả ra về...”, rồi 
đứng hoặc ngồi để cất giọng mà thôi. Một thế là nối tiếp nhau tất cả tám mươi câu “ra 
cuộc hát đúng thủ tục “thường kéo dài hai về”, có lẽ là của hàng vạn, hàng ức đôi trai 
ba, bốn có khi năm, sáu đêm mới đủ mọi gái của núi Hồng, sông Lam tiễn biệt nhau 
chặng bước” [8, tr.49], nhưng trong thực tế trong năm, sáu, bảy, tám trăm năm...Tầng 
sinh hoạt linh động hơn nhiều. Trai gái hát tầng lớp lớp không dứt ra được.” [dẫn theo 
với nhau để trao đổi tình cảm, đua tài đua 8, tr.83] Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các 
trí, kết bạn, kết đôi trong không khí vui từ ngữ địa phương cũng góp phần tạo nên 
tươi, sôi nổi. nét duyên cho câu hát tiễn: “Anh về em nỏ 
 Nếu như khi bắt đầu gặp nhau đã có (không) chi đưa, Quan sơn nghìn dặm, em 
những lời tha thiết như: “Dừng xa khoan chưa hết lời”, “Anh về cho em về theo, Đói 
kéo ơi phường, Hình như có khách viễn no có chắc (nhau), giàu nghèo đủ đôi”, 
phương đến nhà”, “Em đang kéo vải giữa “May mô đâu may, khéo mô đâu khéo, Cơn 
sân, Thấy chàng quân tử mười phần nhớ (cây) cỏ héo gặp trộ (trận) mưa rào, Mối 
thương”, “Chào chàng nho sĩ vài lời, Gọi tình duyên hội ngộ, Liễu với đào ta kháp 
là phường vải nhởi chơi theo mùa”... rồi (gặp) nhau”, “Anh về răng (sao) đứt anh 
khi xe kết “Bốn mùa xuân hạ thu đông, ơi...”... 
Thiếp ngồi kéo vải chỉ trông bóng chàng”, Với Nam Bộ, diễn tiến một cuộc hát 
“Một niềm chỉ quyết lấy o, Khéo bông khéo thường không có nhiều nghi thức, thủ tục 
vải, khéo lo việc nhà”, “Hỡi người dệt vải đơn giản hơn vì phần nhiều dân gian hát hò 
lanh tay, Mắt trông lúng liếng lòng say lấy khi đang lao động cày cấy, gặt hái, chèo 
lòng”, “Hỡi người kéo vải quay vành, Có thuyền, giã gạo... Nếu chỉ là một cuộc tao 
về dưới Liệu với anh thì về”... thì ở chặng ngộ tình cờ trên sông nước thì thời gian ca 
cuối, lúc hát tiễn cũng không kém phần hát sẽ bị hạn chế, và số lượng dạng thức 
mãnh liệt “Em đang kéo vải dựa thềm, cũng như số lời hát được sử dụng lúc này 
Chàng về chăn ấm gối êm sao đành?”, hiển nhiên là ít ỏi. Còn trong những cuộc 
“Xếp xa quay lại em tề, Gửi thầy với mẹ hát dài hơi hơn, qua các tài liệu khảo sát- 
mà về theo anh.”... Trong câu hát, có khá số lượng dạng thức và lời hát có nhiều hơn, 
nhiều từ ngữ gắn với nghề kéo vải. Công nhưng cũng không phong phú, bài bản như 
việc lao động đi vào lời ca thật tự nhiên, ở Bắc và Trung Bộ. Có thể tính chất công 
nhẹ nhàng mà cũng thật đẹp đẽ, lãng mạn. việc, đặc điểm môi trường lao động và giao 
Có những câu hát chải chuốt, điêu luyện, tiếp, tính cách con người địa phương, mục 
có những câu mộc mạc, giản dị... nhưng đích ca hát...đã chi phối sinh hoạt trữ tình 
nhìn chung loại sau vẫn chiếm phần hơn. và dẫn đến đặc điểm này. Cũng có thể do 
 19 
thực tế sưu tầm còn hạn chế, ghi chép văn luyến thương, tiếc nhớ... Hát kết thúc giúp 
bản còn rời rạc... nên người tiếp nhận chưa đôi bên cùng cảm thấy đẹp lòng, đỡ bị hụt 
tiếp cận được với hát đối đáp Nam Bộ ở hẫng khi buộc phải xa cách những người 
dạng đầy đủ và sống động như đã từng tồn bạn hát nhiều khi rất tâm đầu ý hợp với 
tại trước kia. Các công thức quen thuộc mình. Cuộc hát, đồng thời cũng là cuộc 
“Anh về...”, “Ra về...”... được sử dụng giao tiếp, rõ ràng đã đảm bảo được những 
không nhiều, mà phổ biến là cách đặt lời, nghi thức xã giao cần thiết. 
dùng chữ ít theo khuôn khổ: “Hai hàng lụy Dạng thức hát kết thúc còn là biểu hiện 
nhỏ ròng ròng, Chồng nam vợ bắc đau sinh động của những nét đẹp trong văn hóa 
lòng trời ôi, Còn một đêm nay nữa mai giao tiếp người Việt. Đó là những lời lẽ 
thôi, Giã từ em ở lại, anh hồi cố hương”, lịch sự, trang trọng, thân thiện, hiếu 
“Đất Châu Thành anh ở, Xứ Cần Thơ nọ khách..., là thái độ trọng tình (tình nghĩa, 
em về, Bấy lâu sông cận biển kề, Phân chia tình yêu quý hơn mọi thứ của cải, vật chất 
mai trước (trúc) dầm dề hột châu”... Ngôn trên đời; được ca hát với nhau rồi kết thành 
ngữ giao đối thường mang nhiều chất khẩu gia thất hay kết bạn... là ước mơ hạnh phúc 
ngữ, dân dã: “Ghe anh lui về Gia Định, Em mà mọi cuộc hát đều hướng đến), trọng nữ 
nhớ anh em thọ bịnh liền, Không tin anh (nữ được nhiều “ưu tiên” trong cuộc hát, 
hỏi lại xóm giềng đều hay”, “Anh về ở bển được tự do bộc lộ tâm tư tình cảm về mọi 
an bài, Cơm cháo qua ít bữa vài ngày em vấn đề trong xã hội, luôn có ứng đối nhạy 
ghé thăm”... bén, thông minh, số lượng lời hát giã biệt 
 Như vậy, ùngc là chia tay, dặn dò, bịn của nữ không thấp hơn của nam...), trọng 
rịn... nhưng câu hát giã biệt trong quan họ văn (ưa thích ca hát đối đáp, không muốn 
Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ Tĩnh, hò dừng cuộc hát, người hát giỏi được đánh 
cấy, hò chèo ghe Nam Bộ... được hình giá cao....)... Dạng thức này ít nhiều đã góp 
thành và diễn xướng trong những bối cảnh phần ổn định, duy trì, củng cố những điểm 
khác nhau. Đối đáp khi hội hè, nghi lễ, vui trội trong văn hóa giao tiếp cộng đồng, 
chơi, lao động... có những cách thức không đem đến cho mọi người những bài học 
trùng lắp. Ở mỗi nhóm nhỏ, địa điểm và ngôn giao sinh động, hấp dẫn trên nhiều 
thời điểm tụ họp, môi trường sinh hoạt, phương diện. Khi tham gia cuộc hát, người 
cách thức tổ chức, cơ cấu nhóm hát, bài ta tiếp nhận những cái hay và hành xử theo 
bản sử dụng, trang phục, ngôn ngữ giao các khuôn mẫu đó. 
tiếp...đều có những nét riêng, tạo nên Dạng thức hát kết thúc cũng cho thấy 
phong cách độc đáo cho cuộc hát đối đáp ở sinh hoạt đối ca có quy ước, thể thức, 
từng nơi. truyền thống sáng tác và thưởng thức riêng. 
 5. Cùng với các dạng thức khác (hát Có những yếu tố liên quan đến lề lối, bối 
mở đầu, hát thử tài, hát xe kết), hát kết thúc cảnh, nội dung diễn xướng đã in dấu trên 
góp phần tạo cho chỉnh thể cuộc hát được ngôn từ của lời hát. Khi những lời này 
toàn vẹn, đầy đặn, phong phú. Gặp gỡ rồi được cố định bằng văn tự, tách rời đời sống 
chia tay, yêu thương rồi tiễn biệt...những sinh động đã từng gắn bó hữu cơ, các dấu 
lời hát ở chặng cuối này phù hợp với tâm ấn trên có thể trở nên có ích trong việc giúp 
lý tiếp nhận của cả người hát lẫn người người đọc hiểu đúng, rõ, sâu về tác phẩm 
nghe, khép lại một cuộc hát với nhiều (xác định bối cảnh, xác định hệ thống lời 
 20 
hát mà văn bản đơn lẻ kia là một thành tố trong tình hình không ít tuyển tập sưu tầm 
phụ thuộc, từ đó nhờ hệ thống mà hiểu về thể loại này hiện nay còn chưa chú ý 
thành tố và ngược lại). Sự hiểu biết về các nhiều đến việc sắp xếp các lời theo tiến 
dạng thức hát đối đáp nói chung, hát kết trình cuộc hát hay cung cấp những tình 
thúc nói riêng thật sự cần thiết để người huống thật cụ thể cho các văn bản đối ca. 
đọc “giải mã” hiệu quả các lời hát dân gian 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Văn Lung (2005), Lễ hội và nhân sinh, Nxb. Đại học Quốc gia, Thành phố 
 Hồ Chí Minh. 
2. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên) 
 (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh. 
3. Giang Thu - Traàn Saûn - Phạm Thị Huyền (2003), Tìm hiểu hội mở mặt Thủy Nguyên, 
 hội hát đúm Hải Phòng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
4. Lư Nhất Vũ - Lê Giang - Nguyễn Văn Hoa (1985), Dân ca Kiên Giang, Sở Văn hóa –
 Thông tin Kiên Giang xb. 
5. Mã Giang Lân - Nguyễn Đình Bưu (1976), Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty văn hóa 
 Hà Bắc xb. 
6. Ngô Đức Thịnh - Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới - một số 
 công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
7. Ngô Quang Nam – Xuân Thiêm (đồng chủ biên), (1986) , Văn hóa dân gian vùng đất 
 Tổ, Sở Văn hóa thông tin Vĩnh Phú xb. 
8. Ninh Viết Giao (2002), Hát phường vải, Nxb. Văn hóa – Thông tin và Trung tâm 
 Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 
9. Sông Thao – Đặng Văn Lung (2007), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 4, 
 quyển 2, Dân ca, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
10. Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, Nxb. Khoa học xã hội, 
 Hà Nội. 
11. Triều Nguyên (1997), Hò đối đáp nam nữ Thừa Thiên – Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 
 * Ngày nhận bài: 24/1/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015. 
 21 

File đính kèm:

  • pdfve_dang_thuc_hat_ket_thuc_trong_hat_doi_dap_nam_nu_nguoi_vie.pdf