U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng là bệnh lý hiếm gặp khi phát hiện nhiều khối u tế bào

cơ trơn nằm rải rác trong khoang bụng. Đây là bệnh lý ít gặp. Chúng tôi xin báo cáo một ca bệnh U xơ tử

cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng xảy ra sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung. Bệnh nhân 42 tuổi,

có 2 con. Năm 2015 được mổ nội soi bóc u xơ tử cung. Năm 2020 đi khám bệnh vì đau bụng hạ vị. Siêu

âm và chụp cộng hưởng từ tiểu khung nghĩ tới u xơ tử cung tái phát. Bệnh nhân được chỉ định mổ cắt tử

cung. Mở bụng thấy tử cung bình thường, sát sừng trái tử cung dính vào thành bụng ở vị trí chọc trocart cũ

có vài nhân xơ nhỏ 1-2cm. Trong bụng có nhiều khối u không liên tục với tử cung ở các vị trí sau phúc mạc

thành bụng sát trực tràng và trước bàng quang. Kết quả giải phẫu bệnh là các khối u cơ nhẵn lành tính. Đây

là một trường hợp được nhận định là u xơ ký sinh ở phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ

tử cung có lấy bệnh phẩm bằng máy nghiền. Trường hợp này hiếm gặp. Khi lấy u xơ khỏi bụng bằng máy

nghiền, những mảnh nhỏ của khối u đã phát tán ra ổ phúc mạc, ký sinh dưới phúc mạc thành bụng và phát

triển thành những khối u to, được phát hiện sau 65 tháng. Khối u xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành

bụng thường phát triển không có triệu chứng. Sau phẫu thuật nội soi bóc u có sử dụng máy nghiền bệnh

phẩm, khuyến cáo bệnh nhân phải khám phụ khoa định kỳ trong thời gian dài để phát hiện sớm bệnh lý này.

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm trang 1

Trang 1

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm trang 2

Trang 2

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm trang 3

Trang 3

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm trang 4

Trang 4

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm trang 5

Trang 5

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 3980
Bạn đang xem tài liệu "U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm

U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
188 TCNCYH 140 (4) - 2021
U XƠ TỬ CUNG KÝ SINH VÀO PHÚC MẠC THÀNH BỤNG SAU 
PHẪU THUẬT NỘI SOI BÓC U XƠ TỬ CUNG CÓ DÙNG 
MÁY NGHIỀN BỆNH PHẨM
Đặng Thị Hồng Thiện, Ngô Toàn Anh , Nguyễn Bảo Giang
Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Từ khóa: U xơ tử cung, u xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng, phẫu thuật nội soi bóc u xơ 
tử cung, máy nghiền bệnh phẩm. 
U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng là bệnh lý hiếm gặp khi phát hiện nhiều khối u tế bào 
cơ trơn nằm rải rác trong khoang bụng. Đây là bệnh lý ít gặp. Chúng tôi xin báo cáo một ca bệnh U xơ tử 
cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng xảy ra sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung. Bệnh nhân 42 tuổi, 
có 2 con. Năm 2015 được mổ nội soi bóc u xơ tử cung. Năm 2020 đi khám bệnh vì đau bụng hạ vị. Siêu 
âm và chụp cộng hưởng từ tiểu khung nghĩ tới u xơ tử cung tái phát. Bệnh nhân được chỉ định mổ cắt tử 
cung. Mở bụng thấy tử cung bình thường, sát sừng trái tử cung dính vào thành bụng ở vị trí chọc trocart cũ 
có vài nhân xơ nhỏ 1-2cm. Trong bụng có nhiều khối u không liên tục với tử cung ở các vị trí sau phúc mạc 
thành bụng sát trực tràng và trước bàng quang. Kết quả giải phẫu bệnh là các khối u cơ nhẵn lành tính. Đây 
là một trường hợp được nhận định là u xơ ký sinh ở phúc mạc thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ 
tử cung có lấy bệnh phẩm bằng máy nghiền. Trường hợp này hiếm gặp. Khi lấy u xơ khỏi bụng bằng máy 
nghiền, những mảnh nhỏ của khối u đã phát tán ra ổ phúc mạc, ký sinh dưới phúc mạc thành bụng và phát 
triển thành những khối u to, được phát hiện sau 65 tháng. Khối u xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành 
bụng thường phát triển không có triệu chứng. Sau phẫu thuật nội soi bóc u có sử dụng máy nghiền bệnh 
phẩm, khuyến cáo bệnh nhân phải khám phụ khoa định kỳ trong thời gian dài để phát hiện sớm bệnh lý này.
Tác giả liên hệ: Ngô Toàn Anh
Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Email: ngotoananh85@gmail.com
Ngày nhận: 25/03/2021
Ngày được chấp nhận: 12/04/2021
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành 
bụng là một bệnh lý hiếm gặp và được mô tả lần 
đầu tiên bởi Willson and Peale vào năm 1952.1 
Cho đến hiện tại, trong y văn chỉ mô tả được 
khoảng hơn 200 ca bệnh và ở dưới dạng báo 
cáo các ca bệnh riêng biệt do tỷ lệ hiện mắc và 
tỷ lệ mới mắc rất thấp. Nghiên cứu tổng hợp lớn 
nhất là của tác giả Lete và cộng sự được thực 
hiện tại Tây Ban Nha tổng kết điều trị 274 bệnh 
nhân trong 103 nghiên cứu.2 Tuy nhiên, chưa 
có kết luận chính xác về cơ chế bệnh sinh của 
u xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc cũng như 
cách thức điều trị có hiệu quả với bệnh lý này. 
U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng 
thường không có triệu chứng lâm sàng. Triệu 
chứng thực thể thường không rõ ràng vì khối u 
có thể phát triển ở những vị trí khó có thể thăm 
khám tới mà chỉ có thể phát hiện bằng siêu âm 
hoặc chụp cộng hưởng từ.2 Các thức điều trị 
thường là phẫu thuật bóc u và gửi kết quả giải 
phẫu bệnh là khối u cơ trơn giống với u xơ tử 
cung thì chẩn đoán là u xơ tử cung ký sinh. 
Phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung sử dụng 
máy nghiền khối u (Morcellator) để cắt nhỏ 
bệnh phẩm và lấy khối u ra khỏi bụng là một 
giải pháp tiên tiến giúp phẫu thuật nội soi bóc 
u xơ thành công với can thiệp tối thiểu vào ổ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
189TCNCYH 140 (4) - 2021
bụng.3 Gần đây, nhiều trường hợp báo cáo ca 
bệnh đều sử dụng biện pháp này để lấy khối u 
ra khỏi cơ thể người bệnh và ca bệnh có khối u 
kích thước lớn nhất 34 cm được phẫu thuật nội 
soi do tác giả Yoshino và cộng sự báo cáo năm 
2020.4 Tuy nhiên, việc sử dụng máy nghiền khối 
u này có nguy cơ làm phát tán những mảnh 
mô của khối u vào ổ bụng, những mảnh mô 
này có thể ký sinh vào phúc mạc thành bụng 
và phát triển thành các khối u xơ trong ổ bụng. 
Dưới đây chúng tôi xin được trình bày ca u xơ 
tử cung ký sinh vào phúc mạc thành bụng được 
mổ bằng phương pháp phẫu thuật nội soi có sử 
dụng máy nghiền bệnh phẩm. 
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
Bệnh nhân V.T.T.H sinh năm 1978 có tiền sử 2 lần sinh thường, con khỏe mạnh. Tiền sử bản 
thân khỏe mạnh. Tháng 3 năm 2015 bệnh nhân đi khám phụ khoa vì rối loạn kinh nguyệt và được 
chẩn đoán.U xơ cơ tử cung kích thước 8cm ở vùng đáy tử cung. Chị H được phẫu thuật bóc u xơ tử 
cung bằng phẫu thuật nội soi, có dùng morcellator để lấy bệnh phẩm tại khoa Phụ ngoại, bệnh viện 
Phụ sản Trung ương. Kết quả giải phẫu bệnh lý là u cơ nhẵn typ gian tế bào (cellular leiomyoma).
Tháng 8 năm 2020 chị H có đi khám phụ khoa vì đau bụng hạ vị, kinh nguyệt vẫn bình thường. 
Khám thấy ở hạ vị là khối u to nhiều thùy. Siêu âm thấy tử cung to, thành sau tử cung gần cùng đồ 
có khối u đặc kích thước 11x9,5cm. Trên phim cộng hưởng từ tiểu khung cho thấy nhiều khối u xơ 
dưới thanh mạc gây biến dạng hình thái tử cung. 
Hình 1. Kết quả phim chụp MRI tiểu khung của bệnh nhân H.
Phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung sử dụng máy nghiền khối u (Morcellator) để cắt nhỏ bệnh 
phẩm và lấy khố ...  hạ vị là khối u to nhiều thùy. Siêu âm thấy tử cung to, thành sau tử cung gần cùng 
đồ có khối u đặc kích thước 11x9,5cm. Trên phim cộng hưởng từ tiểu khung cho thấy nhiều khối 
u xơ dưới thanh mạc gây biến dạng hình thái tử cung. 
Hình 1: Kết quả phim chụp MRI tiểu khung của bệnh nhân H. 
Bệnh nhân được phẫu thuật mở bụng cắt tử cung tại khoa Phẫu thuật và gây mêm hồi sức, bệnh 
viện Phụ sản Trung ương. Khi phẫu thuật thấy: tử cung kíc thước bình thường, dí h vào thành 
bụng trái chỗ chọc trocart cũ, có vài nhân xơ nhỏ 1-2cm ở vị trí này (1); Bên trái tử cung có nhân 
xơ dưới thanh mạc kích thước 8x6cm (2); phía sau tử cung không liên tục với tử cung, sát trực 
tràng có khối u nhiều thùy kích thước 12x15cm (3); thành bụng trước phía trên bàng quang có 
một khối u kích thước 6x5cm cách xa tử cung (4). Bệnh nhân được cắt tử cung hoàn toàn kèm 
các nhân xơ tử cung bên trái. Sau khi cắt tử cung, kiểm tra khối u ở sát trực tràng và trên bàng 
quang không có liên quan về giải phẫu với tử cung. Mở phúc mạc thành bụng bóc các khối u. 
Kết quả giải phẫu bệnh của các khối u là u cơ nhẵn lành tính. 
1 
4 
3 
2 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
190 TCNCYH 140 (4) - 2021
Hình 1: Kết quả phim chụp MRI tiểu khung của bệnh nhân H. 
Bệnh nhân được phẫu thuật mở bụng cắt tử cung tại khoa Phẫu thuật và gây mêm hồi sức, bệnh 
viện Phụ sản Trung ương. Khi phẫu thuật thấy: tử cung kích thước bình thường, dính vào thành 
bụng trái chỗ chọc trocart cũ, có vài nhân xơ nhỏ 1-2cm ở vị trí này (1); Bên trái tử cung có nhân 
xơ dưới thanh mạc kích thước 8x6cm (2); phía sau tử cung không liên tục với tử cung, sát trực 
tràng có khối u nhiều thùy kích thước 12x15cm (3); thành bụng trước phía trên bàng quang có 
một khối u kích thước 6x5cm cách xa tử cung (4). Bệnh nhân được cắt tử cung hoàn toàn kèm 
các nhân xơ tử cung bên trái. Sau khi cắt tử cung, kiểm tra khối u ở sát trực tràng và trên bàng 
quang không có liên quan về giải phẫu với tử cung. Mở phúc mạc thành bụng bóc các khối u. 
Kết quả giải phẫu bệnh của các khối u là u cơ nhẵn lành tính. 
1 
4 
3 
2 
Bệnh nhân được phẫu thuật mở bụng cắt tử cung tại khoa Phẫu thuật và Gây mê hồi sức, Bệnh 
viện Phụ sản Trung ương. Khi phẫu thuật thấy: tử cung kích thước bình thường, dính vào thành 
bụng trái chỗ chọc trocart cũ, có vài nhân xơ nhỏ 1-2cm ở vị trí này. 
(1); Bên trái tử cung có nhân xơ dưới thanh mạc kích thước 8x6cm.
(2); phía sau tử cung không liên tục với tử cung, sát trực tràng có khối u nhiều thùy kích thước 
12x15cm. 
(3); thành bụng trước phía trên bàng quang có một khối u kích thước 6x5cm cách xa tử cung. 
(4); Bệnh nhân được cắt tử cung hoà toàn kèm các hân xơ tử cu g bên trái. Sau khi cắt tử 
cung, kiểm tra khối u ở sát trực ràng và rên bàng quang khôn có liên q an về giải phẫu với tử 
cung. Mở phúc mạc thành bụng bóc các khối u. Kết quả giải phẫu bện của các khối u là u cơ 
nhẵn lành tính.
Hình 2. Hình ảnh khối u sau phẫu thuật.
III. BÀN LUẬN
Đây là một trường hợp được nhận định là 
u xơ ký sinh ở phúc mạc thành bụng sau phẫu 
thuật nội soi bóc u xơ tử cung có lấy bệnh 
phẩm bằng máy nghiền. Trường hợp này hiếm 
gặp. Khi lấy u xơ khỏi bụng bằng máy nghiền, 
những mảnh nhỏ của khối u đã phát tán ra ổ 
phúc mạc, ký sinh dưới phúc mạc thành bụng 
và phát triển thành những khối u to, được phát 
hiện sau 65 tháng. Có hai vị trí u xơ đã làm tổ 
và phát triển dưới phúc mạc cách xa tử cung là 
vị trí trước trực tràng và trên bàng quang. Kết 
quả xét nghiệm giải phẫu bệnh lý của các khối 
u này là u cơ nhẵn lành tính.
U xơ ký sinh ở phúc mạc thành bụng là 
bệnh cảnh được báo cáo lần đầu tiên từ năm 
1952 với phát hiện tổn thương lành tính nguồn 
gốc từ u xơ tử cung phát tán trong ổ bụng và 
cấy vào phúc mạc thành bụng, buồng trứng và 
mặt trước đại trực tràng.1
Theo phân tích tổng hợp của Darii và cộng 
sự, kích thước của các khối u xơ tử cung mắc 
phải do bệnh nhân có tiền sử mổ nội soi cắt u 
xơ tử cung thường nhỏ hơn 10 cm.5 Ca bệnh 
của chúng tôi có kích thước khối u lớn nhất là 
15cm. Y văn còn ghi nhận những ca bệnh có 
kích thước u xơ lên đến trên 30 cm.4,6 Những 
ca bệnh trên có kích thước u xơ tử cung rất 
lớn có thể do những nguyên nhân sau: 
(1) bệnh nhân không cảm nhận được bất 
thường trong thời gian dài (112 tháng), 
(2) khối u nằm gần những mạch máu lớn. 
Dễ dàng nhận thấy rằng trong báo cáo này, khối 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
191TCNCYH 140 (4) - 2021
u lớn nhất có nhiều thuỳ kích thước 12x15cm 
nằm ở vị trí sát trực tràng có nhiều mạch máu 
nuôi dưỡng nên kích thước lớn hơn các khối 
u khác nằm ở dưới thanh mạc và thành bụng 
trước. Nghiên cứu của Dashraath ghi nhận khối 
u lớn có kích thước 30x30x25cm được các 
mạch máu của mạc nối lớn nuôi dưỡng dẫn 
đến việc gia tăng kích thước khối u rất nhanh.7
Một nghiên cứu ở bệnh viện đại học Trịnh 
Châu Trung Quốc từ năm 2012 đến năm 2016 
có 10 bệnh nhân được chẩn đoán U xơ tử cung 
ký sinh vào phúc mạc thành bụng sau phẫu 
thuật nội soi bóc u xơ tử cung có dùng máy 
nghiền bệnh phẩm.8 Trong đó có 2 trường hợp 
đi khám vì đau bụng hạ vị, 8 trường hợp được 
chẩn đoán khi đi khám phụ khoa. Thời gian từ 
lần mổ trước đến lần phát hiện u là 1,3 đến 
8,1 năm. Các khối u ký sinh ở nhiều vị trí khác 
nhau trong ổ bụng, trong đó cả 10 ca đều có 
khối u ở vùng túi cùng Douglas. Giải pháp điều 
trị là phẫu thuật lấy u và các ca đều có tiên 
lượng tốt. Trường hợp ca bệnh của chúng tôi 
cũng trong bệnh cảnh tương tự: có tiền sử mổ 
nội soi bóc u xơ tử cung trước đó 65 tháng; 
trong phẫu thuật có dùng máy nghiền bệnh 
phẩm để làm nhỏ bệnh phẩm và lấy ra khỏi 
ổ bụng; người bệnh được phát hiện ra khối u 
ký sinh phúc mạc thành bụng vì triệu chứng 
đau bụng hạ vị.Năm 2016, Lu B và cộng sự ở 
Australia báo cáo một nghiên cứu trên 6 bệnh 
nhân bị u xơ ký sinh ở phúc mạc thành bụng 
sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung có 
lấy bệnh phẩm bằng máy nghiền 39 đến 132 
tháng trước đó3. Các khối u ký sinh ở nhiều 
vị trí trong ổ bụng, kích thước từ 1 đến 6cm. 
Các bệnh nhân được phẫu thuật lấy bỏ các 
khối u và kết quả giải phẫu bệnh lý của các u 
ký sinh này là lành tính. Ca bệnh trong nghiên 
cứu phát hiện ra khối u trong 65 tháng và trong 
suốt thời gian đó bệnh nhân không phát hiện 
bất cứ dấu hiệu nào của khối u. Ca bệnh của 
chúng tôi cũng thấy u cấy ở nhiều vị trí trong 
ổ bụng như ở mặt trước trực tràng, phía trên 
bàng quang, và các khối u này cách xa vị trí tử 
cung; kết quả giải phẫu bệnh của các khối u là 
u cơ nhẵn lành tính. Những khối u như thế này 
thường âm thầm phát triển thậm chí là không 
có triệu chứng rõ ràng kể cả khi khối u đã có 
kích thước đáng kể. Do đó, chúng tôi khuyến 
cáo các phẫu thuật viên sau khi thực hiện phẫu 
thuật cho bệnh nhân thì nên hẹn bệnh nhân 
khám lại định kỳ trong thời gian dài ít nhất là 5 
năm sau. Việc chỉ định cho bệnh nhân làm các 
phương pháp chẩn đoán hình ảnh vùng tiểu 
khung và ổ bụng như siêu âm, CT hoặc MRI là 
bắt buộc vào mỗi lần thăm khám vì khối u xơ to 
thường phát triển ở nền dây chằng rộng.6
Tác giả Lete I và cộng sự đã truy xuất tóm 
tắt của 756 bài báo từ PubMed, Embase và 
Google Scholar với các từ khóa là u xơ tử 
cung, bóc u xơ tử cung qua phẫu thuật nội soi 
hoặc mở bụng, cắt tử cung, khối u ký sinh trong 
ổ phúc mạc. Trong số đó có các bài báo về u 
xơ tử cung ký sinh. Họ đã chỉ ra bệnh u xơ tử 
cung ký sinh ổ bụng đã được mô tả sớm từ 
năm 1909. Những năm gần đây, do chỉ định 
phẫu thuật nội soi và lấy bệnh phẩm bằng máy 
nghiền nên bệnh lý này được báo cáo nhiều 
hơn. Tổng số có 274 bệnh nhân được chẩn 
đoán u xơ tử cung ký sinh, trong đó có 106 
người (39%) có tiền sử được phẫu thuật dùng 
máy nghiền để lấy bệnh phẩm.2
Chẩn đoán bệnh u xơ ký sinh ở phúc mạc 
thành bụng sau phẫu thuật nội soi bóc u xơ 
tử cung vẫn là một thách thức với y học ngày 
nay vì người bệnh không có triệu chứng hoặc 
có các triệu chứng mơ hồ như đau bụng, ra 
máu âm đạo bất thường. Trường hợp này còn 
tử cung thì trước phẫu thuật không có căn cứ 
nào gợi ý cho bác sĩ nghĩ đến tình huống u xơ 
ký sinh vào phúc mạc, mà với kết quả siêu âm 
và chụp cộng hưởng từ chỉ giúp cho các bác sĩ 
đặt ra chẩn đoán u xơ tử cung tái phát. Tác giả 
Yang Lei MD và cộng sự đã báo cáo ba trường 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
192 TCNCYH 140 (4) - 2021
hợp được chẩn đoán u xơ tử cung ký sinh vào 
phúc mạc thành bụng (năm 2020) trong đó cả 
ba ca có tiền sử phẫu thuật nội soi bóc u xơ 
tử cung có dùng máy nghiền bệnh phẩm, sau 
đó đi khám định kỳ phát hiện khối u, các triệu 
chứng lâm sàng mơ hồ như đau bụng, tương 
tự ca bệnh của chúng tôi báo cáo ở đây.9 Với 
những bệnh nhân khám thấy có khối u ở tiểu 
khung và có tiền sử phẫu thuật bóc u xơ nội 
soi thì u xơ ký sinh vào phúc mạc thành bụng 
có thể được coi là một chẩn đoán phân biệt 
và nên thực hiện phẫu thuật cắt bỏ khối u dù 
có nghi ngờ ác tính hay không. Thậm chí với 
những khối u có kích thước rất lớn, phẫu thuật 
cắt bỏ u thường không làm tổn thương đến 
các cơ quan khác.4,6 Tuy nhiên, phẫu thuật 
viên vẫn cần tư vấn kỹ về khả năng phải cắt 
bỏ nếu nghi ngờ có di căn sang các bộ phận 
quanh vùng tiểu khung. 
Kỹ thuật nội soi bóc u xơ tử cung và lấy 
bệnh phẩm bằng máy nghiền đem lại nhiều lợi 
ích cho người bệnh như xâm lấn tối thiểu, thời 
gian nằm viện ngắn, hồi phục sức khỏe nhanh 
hơn. Nhược điểm của phẫu thuật này là thời 
gian phẫu thuật dài hơn, lượng máu mất nhiều 
hơn, tăng nguy cơ tái phát, tăng nguy cơ vỡ tử 
cung khi có thai. Một nguy cơ nữa mà ngày nay 
rải rác có những báo cáo ca bệnh là khả năng 
lan tràn tế bào u trong ổ bụng khi dùng máy 
nghiền bệnh phẩm, sau đó những tế bào này 
ký sinh ở phúc mạc và phát triển thành khối u. 
Để giảm thiểu tai biến u xơ tái phát do những 
mảnh u nhỏ phát tán trong quá trình nghiền u 
và lấy bệnh phẩm người ta đã đưa ra giải pháp 
là nghiền u trong một cái túi chuyên dụng (In-
bag morcellation).10 Năm 2014, US Food and 
Drug Administration đã đưa ra khuyến cáo các 
nhà khoa học về nguy cơ phát tán u sarcoma 
tử cung do phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung 
và lấy bệnh phẩm bằng máy nghiền. Họ đã ứng 
dụng một kỹ thuật mới dùng máy nghiền bệnh 
phẩm đặt trong một túi nhựa cho 4 bệnh nhân 
được chẩn đoán sarcoma tử cung và thời gian 
trung bình để nghiền bệnh phẩm là 48 phút, 
không có biến chứng của phẫu thuật.11
Khuyến cáo các phẫu thuật viên đối với mổ 
nội soi bóc u xơ tử cung và lấy bệnh phẩm 
bằng Morcellator thì ngay khi lấy khối u ra khỏi 
ổ bụng cần soi lại để quan sát toàn bộ ổ bụng 
để tránh bỏ sót bệnh phẩm, đổi vị trí camera 
để quan sát chân lỗ trocart trước khi rút vừa 
kiểm tra chảy máu vừa tránh sót mảnh khối u 
ở chân trocart để tránh biến chứng hiếm gặp 
này cho bệnh nhân. 
IV. KẾT LUẬN
U xơ tử cung ký sinh vào phúc mạc thành 
bụng là một bệnh lý lành tính nhưng hiếm gặp. 
Phẫu thuật nội soi bóc u xơ tử cung với lấy 
bệnh phẩm bằng máy nghiền có nguy cơ làm u 
phát tán và ký sinh vào phúc mạc thành bụng. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Willson JR, Peale AR. Multiple Peritoneal 
Leiomyomas Associated with a Granulosa-Cell 
Tumor of the Ovary**Presented at a meeting of the 
Philadelphia Obstetrical Society, Jan. 3, 1952. Am 
J Obstet Gynecol. 1952;64(1):204-208. doi:https://
doi.org/10.1016/S0002-9378(16)38757-9.
2. Lete I, González J, Ugarte L, Barbadillo N, 
Lapuente O, Álvarez-Sala J. Parasitic leiomyomas: 
a systematic review. Eur J Obstet Gynecol 
Reprod Biol. 2016;203:250-259. doi:https://doi.
org/10.1016/j.ejogrb.2016.05.025.
3. Lu B, Xu J, Pan Z. Iatrogenic parasitic 
leiomyoma and leiomyomatosis peritonealis 
disseminata following uterine morcellation. J 
Obstet Gynaecol Res. 2016;42(8):990-999. 
doi:https://doi.org/10.1111/jog.13011.
4.Yoshino Y, Yoshiki N, Nakamura R, Iwahara 
Y, Ishikawa T, Miyasaka N. Large leiomyomatosis 
peritonealis disseminata after laparoscopic 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
193TCNCYH 140 (4) - 2021
myomectomy: A case report with literature review. 
Int J Surg Case Rep. 2020;77:866-869. doi:https://
doi.org/10.1016/j.ijscr.2020.12.005.
5. Darii N, Anton E, Doroftei B, et al. Iatrogenic 
parasitic myoma and iatrogenic adenomyoma after 
laparoscopic morcellation: A mini-review. J Adv 
Res. 2019;20:1-8. doi:https://doi.org/10.1016/j.
jare.2019.04.004.
6. Kumar S, Sharma JB, Verma D, Gupta P, 
Roy KK, Malhotra N. Disseminated peritoneal 
leiomyomatosis: an unusual complication of 
laparoscopic myomectomy. Arch Gynecol 
Obstet. 2008;278(1):93-95. doi:10.1007/
s00404-007-0536-9.
7. Dashraath P, Lim LM, Huang Z, Ilancheran 
A. Parasitic leiomyoma. Am J Obstet Gynecol. 
2016;215(5):665.e1-665.e2. doi:https://doi.
org/10.1016/j.ajog.2016.07.017
8. Wang K, Guo R, Yuan Z, et al. [Clinical 
analysis of leiomyomatosis peritonealis 
disseminate after laparoscopic uterine 
myomectomy in ten cases]. Zhonghua Fu Chan 
Ke Za Zhi. 2017;52(8):533—538. doi:10.3760/
cma.j.issn.0529-567x.2017.08.006.
9. Yang L, Liu N, Liu Y. Leiomyomatosis 
peritonealis disseminata: Three case reports. 
Medicine (Baltimore). 2020;99(41). https://
journals.lww.com/md-journal/Fulltext/2020/10090/
Leiomyomatosis_peritonealis_disseminata__
Three.70.aspx.
10. Zapardiel I, Boria F, Halaska MJ, Santiago 
JD. Laparoscopic Power Morcellation: Techniques 
to Avoid Tumoral Spread. J Minim Invasive 
Gynecol. Published online 2020. doi:https://doi.
org/10.1016/j.jmig.2020.09.012.
11. Leal MA, Piñera A, Santiago J de, 
Zapardiel I. Novel Technique for Contained Power 
Morcellation through Umbilicus with Insufflated 
Bag. Gynecol Obstet Invest. 2016;82:205-207.
Summary
LEIOMYOMATOSIS PERITONEALIS DISSEMINATA (LPD) AFTER 
LAPAROSCOPIC MYOMECTOMY USING MORCELATOR
Leiomyomatosis peritonealis disseminata (LPD) is an uncommon disease featured by the 
presence of multiple nodules of smooth muscle cells scattered in the abdominal cavity. We report 
a case of recurrent LPD after laparoscopic myomectomy. 42-year-old woman who had 2 children, 
were indicated for laparoscopic myomectomy surgery in 2015. In 2020, she went to her gynecologist 
complaining of abdominal pain. A MRI and ultrasound were performed and reported multiple pelvic 
masses, subsequently excised during laparotomy. The histological exam confirms LPD diagnosis. 
An exploratory laparotomy revealed nodules on the peritoneum, greater omentum and terminal 
ileum. We surgically removed all visible nodules. This is a rare condition which is uncommon in our 
routine practice. The reason is small pieces of nodules were scattered to the peritoneum during 
morcellation, then developed silently in size and diagnosed after 65 months. A large LPD is not 
always symptomatic. After a laparoscopic myomectomy, especially with power morcellation, long-
term follow-up is necessary to detect LPD.
Keywords: Leiomyoma, Leiomyomatosis peritonealis disseminata (LPD), Laparoscopic 
myomectomy, morcellator. 

File đính kèm:

  • pdfu_xo_tu_cung_ky_sinh_vao_phuc_mac_thanh_bung_sau_phau_thuat.pdf