Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020

Mục tiêu: Bệnh Toxoplasmosis là một vấn đề sức

khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Bệnh do ký sinh

trùng Toxoplasma gondii (T. gondii) gây ra, là một loại

ký sinh trùng nội bào bắt buộc, có khả năng lây nhiễm

nhiều động vật máu nóng bao gồm cả con người, dẫn

đến một bệnh phổ biến trên toàn cầu, làm ảnh hưởng

đến sức khỏe cộng đồng. Xu thế hiện nay đẩy mạnh

việc chăm lo cho sức khỏe trong cộng đồng, bệnh do

Toxoplasma đang được nhiều nhà nghiên cứu trên

toàn thế giới quan tâm từ nhiều khía cạnh khác nhau.

Việc nâng cao nhận thức về bệnh T. gondii là rất cần

thiết cho phòng ngừa tình trạng lây nhiễm trong cộng

đồng, đặc biệt là những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ,

có thể hạn chế những yếu tố nguy cơ có thể ảnh

hưởng đến thời kỳ mang thai. Tại Việt Nam, các

nghiên cứu về nhiễm T. gondii trong cộng đồng chưa

nhiều, đặc biệt khu vực miền Trung và Tây Nguyên

cho đến nay rất ít đề tài nghiên cứu nhiễm T. gondii.

Để xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính T.

gondii cũng như một số yếu tố liên quan góp phần vào

sự lưu hành của bệnh và đề xuất biện pháp phòng

chống, chúng tôi thực hiện đề tài: "Tỷ lệ và một số

yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với

Toxoplasma gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông

Bông, tỉnh Đắk Lắk năm 2020".

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 1

Trang 1

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 2

Trang 2

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 3

Trang 3

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 4

Trang 4

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 5

Trang 5

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 6

Trang 6

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 4960
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma Gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 498 - THÁNG 1 - SỐ 2 - 2021 
25 
thế không ảnh hưởng đến tiến trình cuộc chuyển 
dạ. Khi dây rốn ngắn, DRQC có thể khiến thai nhi 
khó lọt, ảnh hưởng tới độ mở cổ tử cung do đầu 
thai nhi cúi không tốt. Tuy nhiên DRQC kèm dây 
rốn ngắn là rất ít. Nhiều nghiên cứu cho thấy chỉ 
khi dây rốn quấn cổ chặt hoặc quấn nhiều vòng 
mới có thể khiến thai nhi bị thiếu oxy gây suy 
thai trong chuyển dạ với hai biểu hiện đặc trưng 
trên lâm sàng là nước ối nhuộm phân su và nhịp 
tim thai bất thường. 
Tóm lại, với DRQC một vòng rất ít khi gây ra 
vấn đề bất lợi cho cả mẹ và thai nhi. Thai nhi bị 
DRQC một vòng có thể được sinh dễ dàng qua 
ngã âm đạo và an toàn. Giới hạn ở nghiên cứu 
này là chúng tôi chưa ghi nhận được số trường 
hợp DRQC một vòng chặt để so sánh với nhóm 
dây rốn quấn cổ một vòng lỏng cũng như chưa 
đánh giá được một yếu tố nguy cơ khá quan 
trọng trong chuyển dạ đó là chuyển dạ đình trệ 
do ngôi cúi kém. Ngoài ra mẫu nghiên cứu còn 
nhỏ và chỉ thực hiện ở một trung tâm nên chưa 
thể suy rộng cho mẫu dân số. Cần thiết có 
những nghiên cứu tiền cứu, mẫu lớn và đa trung 
tâm đề khẳng định kết quả này. 
V. KẾT LUẬN 
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa dây rốn 
quấn cổ một vòng với các yếu tố nguy cơ trong 
chuyển dạ như ối nhuộm phân su, biểu đồ tim 
thai bất thường, sử dụng oxytocin để tăng và 
cũng cũng chưa tìm thấy mối liên quan giữa dây 
rốn quấn cổ một vòng với kết thúc thai kỳ bất lợi 
vì vậy can thiệp sinh là không cần thiết ở thai nhi 
có dây rốn quấn cổ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Shrestha NS, Singh N. (2007) Nuchal cord and 
perinatal outcome. Kathmandu Univ Med J 
(KUMJ). Jul-Sep;5(3):360-3 
2. Hayes DJL, Warland J, Parast MM, et al. 
(2020) Umbilical cord characteristics and their 
association with adverse pregnancy outcomes: A 
systematic review and meta-analysis. PLoS One. 
Sep 24;15(9):e0239630. 
3. Sherer DM, Sokolovski M, Dalloul M, Khoury-
Collado F, Abulafia O. (2005) Is fetal cerebral 
vascular resistance affected by the presence of 
nuchal cord(s) in the third trimester of pregnancy? 
Ultrasound Obstet Gynecol. May;25(5):454-8. 
4. Kong CW, Chan LW, To WW. (2015) Neonatal 
outcome and mode of delivery in the presence of 
nuchal cord loops: implications on patient 
counselling and the mode of delivery. Arch Gynecol 
Obstet. Aug;292(2):283-9. 
5. Bernad ES, Craina M, Tudor A, Bernad SI. 
(2012) Perinatal outcome associated with nuchal 
umbilical cord. Clin Exp Obstet Gynecol.;39(4):494-7. 
6. Trần Quang Hiền và Nguyễn Ngọc Thoa 
(2008) “Tỷ lệ dây rốn quấn cổ thai nhi trong 
chuyển dạ và các yếu tố liên quan”. 
7. Peregrine E, P O'Brian, Jauniaux E.(2005) 
neck cord Ultrasound detected before induction of 
labor and cesarean risk. Obstet Gynecol 
Ultrasound; 25: 160-4. 
8. Sheiner E, Abramowicz JS, Levy A, Silberstein 
T, Mazor M, Hershkovitz R. (2006) Nuchal cord 
is not associated with adverse perinatal outcome. 
Arch Gynecol Obstet. May; 274(2):81-3. 
TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN HUYẾT THANH 
DƯƠNG TÍNH VỚI TOXOPLASMA GONDII Ở PHỤ NỮ TUỔI SINH ĐẺ 
HUYỆN KRÔNG BÔNG TỈNH ĐẮK LẮK NĂM 2020 
Trần Vũ Hoà1, Thân Trọng Quang2 
Lê Minh Hoài An1, Nguyễn Trần Uyên Phương1 
TÓM TẮT7 
Mục tiêu: Bệnh Toxoplasmosis là một vấn đề sức 
khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Bệnh do ký sinh 
trùng Toxoplasma gondii (T. gondii) gây ra, là một loại 
ký sinh trùng nội bào bắt buộc, có khả năng lây nhiễm 
nhiều động vật máu nóng bao gồm cả con người, dẫn 
1Bệnh viện Từ Dũ 
2Đại học Tây Nguyên 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Trần Uyên Phương 
Email: ntuphuong.iu@gmail.com 
Ngày nhận bài: 19.11.2020 
Ngày phản biện khoa học: 23.12.2020 
Ngày duyệt bài: 7.01.2021 
đến một bệnh phổ biến trên toàn cầu, làm ảnh hưởng 
đến sức khỏe cộng đồng. Xu thế hiện nay đẩy mạnh 
việc chăm lo cho sức khỏe trong cộng đồng, bệnh do 
Toxoplasma đang được nhiều nhà nghiên cứu trên 
toàn thế giới quan tâm từ nhiều khía cạnh khác nhau. 
Việc nâng cao nhận thức về bệnh T. gondii là rất cần 
thiết cho phòng ngừa tình trạng lây nhiễm trong cộng 
đồng, đặc biệt là những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, 
có thể hạn chế những yếu tố nguy cơ có thể ảnh 
hưởng đến thời kỳ mang thai. Tại Việt Nam, các 
nghiên cứu về nhiễm T. gondii trong cộng đồng chưa 
nhiều, đặc biệt khu vực miền Trung và Tây Nguyên 
cho đến nay rất ít đề tài nghiên cứu nhiễm T. gondii. 
Để xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính T. 
gondii cũng như một số yếu tố liên quan góp phần vào 
sự lưu hành của bệnh và đề xuất biện pháp phòng 
vietnam medical journal n02 - JANUARY - 2021 
26 
chống, chúng tôi thực hiện đề tài: "Tỷ lệ và một số 
yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với 
Toxoplasma gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông 
Bông, tỉnh Đắk Lắk năm 2020". Phương pháp: 
Nghiên cứu được thực hiện tại Xã Yang Reh, Xã Ea 
Trul và Xã Hòa Sơn, Huyện Krông Bông, Tỉnh Đắk Lắk. 
Thời gian nghiên cứu từ tháng 01 năm 2020 đến 
tháng 07 năm 202 ... ondii gấp 6,77 lần so với nhóm không có tiếp xúc. 
Bảng 3.7 Liên quan giữa nhiễm T. gondii và tình trạng sẩy thai, thai lưu 
Tình trạng 
Số XN 
(+) 
Tỷ lệ 
% 
Số XN 
(-) 
Tỷ lệ 
% 
Tần số 
(n) 
p 
PR 
(KTC95%) 
Sẩy thai Có 21 22,8 71 77,2 92 0,002 2,51 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 498 - THÁNG 1 - SỐ 2 - 2021 
29 
Không 32 10,5 272 89,5 304 (1,37-4,62) 
Thai lưu 
Có 18 31,6 39 68,4 57 
0,000 
4,01 
(2,07-7,75) Không 35 10,3 304 89,7 339 
Qua nghiên cứu của 396 đối tượng cho thấy tỉ lệ nhiễm T. gondii giữa nhóm có sẩy thai gấp 2,51 
lần với nhóm không sẩy thai có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. 
Tỷ lệ nhiễm T. gondii so với nhóm thai lưu có nguy cơ gấp 4,01 lần so với nhóm không có thai 
lưu, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. 
IV. BÀN LUẬN 
4.1. Tỷ lệ huyết thanh dương tính 
Toxoplasma gondii phụ nữ trong độ tuổi 
sinh đẻ tại điểm nghiên cứu. 
Tỷ lệ huyết thanh dương tính theo xã cư 
trú. Ở tất cả các dân cư 3 xã đều có người 
nhiễm, mặc dù Xã Yang Reh và Xã Ea Trul không 
có sự khác biệt, tuy nhiên Xã Hòa Sơn so với Xã 
Yang Reh có sự khác biệt. Tỷ lệ nhiễm ở xã Yang 
Reh cao gấp 9,12 lần Xã Hòa Sơn (bảng 3.1). 
Môi trường sống, thói quen sinh hoạt, điều kiện 
kinh tế, vệ sinh ăn uống, ăn uống những thực 
phẩm có nguy cơ lây nhiễm, dân số mèo cao, 
tiếp xúc mèo ở mỗi khu vực dân cư khác nhau, 
tạo ra sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm T. gondii. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng giống với 
nghiên cứu tỷ lệ nhiễm T. gondii trên phụ nữ 
khám thai khám tại Bệnh viện Đa khoa Lâm 
Đồng năm 2013 của tác giả Đoàn Hoàng Anh, có 
sự khác biệt giữa các khu vực dân cư [1]. 
Những kết quả này phù hợp với nghiên cứu 
của chúng tôi, sự khác biệt có ý nghĩa ở các khu 
vực dân cư. Đó là một trong những nguyên nhân 
dẫn tới tỷ lệ nhiễm khác biệt đặc trưng theo khu 
vực. Sự khác biệt này giữa các địa điểm có thể 
do tình trạng kinh tế xã hội của những người 
tham gia, điều này có thể ảnh hưởng đến thực 
hành vệ sinh và khả năng ăn phải noãn bào từ 
nước, cây trồng, sản phẩm động vật và sữa chưa 
tiệt trùng bị nhiễm bẩn từ noãn bào do mèo đổ 
ra và đất bị ô nhiễm. 
Tỷ lệ bạch cầu ái toan trong trường hợp 
huyết thanh dương tính. Tỷ lệ tăng BCAT ở 
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 16,2%. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các đối tượng tăng 
BCAT trong máu ngoại vi có nguy cơ huyết thanh 
dương tính với T. gondii, sự gia tăng bạch cầu 
gấp 2,10 lần so với những trường hợp không 
tăng bạch cầu, rất có giá trị chẩn đoán. Tỷ lệ 
tăng BCAT trên số trường hợp huyết thanh 
dương tính là 21,9% (bảng 3.2). 
Tỷ lệ huyết thanh dương tính theo nghề 
nghiệp. Kết quả nghiên cứu (bảng 3.3) cho thấy 
sự phân công lao động trong xã hội, tính chất 
công việc, đặc điểm ngành nghề, những việc làm 
có điều kiện tiếp xúc với một số yếu tố thuận lợi 
cho lây nhiễm T. gondii, cũng như kiến thức hiểu 
biết, tác hại, biện pháp phòng chống bệnh phải 
dựa trên kiến thức hiểu biết, tác hại và cách 
phòng chống. 
Tỷ lệ huyết thanh dương tính theo dân 
tộc. Với mục đích tìm những yếu tố liên quan 
mang bản sắc dân tộc, nghiên cứu của chúng tôi 
đã quan tâm tới thành phần dân tộc, cũng như 
tới tập tục trong tôn giáo. Tuy nhiên về yếu tố 
thành phần dân tộc (Bảng 3.4), tỷ lệ nhiễm ở các 
dân tộc khác có cao hơn so với dân tộc Kinh, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê; về yếu tố tôn 
giáo, kết quả nghiên cứu có nhiễm T.gondii 
thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau có sự khác 
biệt, có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Mặc dù 
trong nghiên cứu của chúng tôi dân tộc kinh 
chiếm tỷ lệ khá cao 77,3%, dân tộc khác chiếm 
22,7%, tỷ lệ nhiễm T. gondii trong nhóm dân tộc 
khác nguy cơ nhiễm cao gấp 1,75 lần so với 
nhóm dân tộc người kinh, có sự khác biệt về tỷ 
lệ nhiễm giữa 2 nhóm dân tộc, p<0,05. Kết quả 
của chúng tôi thể hiện có sự khác nhau giữa các 
dân tộc, giống với một nghiên cứu tại Trung 
Quốc vào năm 2016, trong số những nhóm này, 
dân tộc Mông Cổ có tỷ lệ huyết thanh T. gondii 
cao nhất (20,74%, 45/217), tiếp theo là dân tộc 
Hàn Quốc (16,54%, 86/520), dân tộc Mãn Châu 
(13,86%, 42/303) và dân tộc Hán (11,35%, 98/802). 
4.2. Một số yếu tố liên quan nhiễm 
Toxoplasma gondii tại điểm nghiên cứu. 
Liên quan giữa nguồn nước sử dụng và 
tình trạng nhiễm T. Gondii. Theo bảng 3.5, 
phân tích mối liên hệ giữa nguồn nước sử dụng 
và huyết thanh dương tính với T. gondii cho thấy 
sự khác biệt rất lớn. Tỷ lệ uống nước sạch bao 
gồm nước máy, nước giếng chiếm lần lượt 7,3%, 
90,7%, trong khi đó việc sử dụng nguồn nước 
không đảm bảo vệ sinh chiếm tỷ lệ 2,0%. Điều 
này nói lên rằng yếu tố nguồn nước sử dụng 
sạch là yếu tố bảo vệ. Việc sử dụng nguồn nước 
không đảm bảo có nguy cơ nhiễm gấp 3.62 lần 
so với nhóm sử dụng nguồn nước vệ sinh (nước 
máy, nước giếng). Kết quả của chúng tôi cũng 
giống một nghiên cứu trên 760 đối tượng phụ nữ 
khám thai tại Bệnh bệnh viện Songklanagarind, 
miền Nam Thái Lan, cho thấy mối liên quan đáng 
vietnam medical journal n02 - JANUARY - 2021 
30 
kể giữa T. gondii nhiễm trùng và sử dụng nước 
chưa qua xử lý. 
Sự khác biệt này giữa các địa điểm có thể do 
tình trạng kinh tế xã hội của những người tham 
gia, điều này có thể ảnh hưởng đến thực hành 
vệ sinh và khả năng ăn phải noãn bào từ nước, 
cây trồng, sản phẩm động vật và sữa chưa tiệt 
trùng bị nhiễm bẩn từ noãn bào do mèo đổ ra và 
đất bị ô nhiễm. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, lao 
động và tiếp xúc với nước không sạch từ nhiều 
nguồn khác nhau có nguy cơ nhiễm 
Toxoplasma cao hơn. Do đó, cần phải giáo dục 
sức khỏe và nâng cao nhận thức về nguy cơ mắc 
bệnh KST T. gondii để giảm thiểu tác động của 
bệnh nhiễm KST này ở phụ nữ trong độ tuổi sinh 
đẻ cũng như người dân nói chung. 
Liên quan giữa nuôi mèo và tình trạng 
nhiễm T. Gondii. Tỷ lệ nhiễm ở nhóm nuôi mèo 
và không nuôi mèo 17,9% và 10,8% (bảng 3.6). 
Có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm và nuôi mèo, với 
PR = 1,18, p<0,05, mặc dù số lượng người nuôi 
mèo chiếm 36,6% ít hơn so với nhóm không 
nuôi mèo 63,4%. Kết quả của chúng tôi giống 
với tác giả Đoàn Hoàng Anh [1], nguy cơ nhiễm 
T. gondii ở nhóm nuôi mèo cao gấp 2,3 lần so 
với nhóm không nuôi mèo; so với nghiên cứu tại 
Nhật năm 2011 của Makiko Sakikawa trên phụ 
nữ khám thai, kết quả của chúng tôi ngược lại, 
việc nuôi mèo lại không có liên quan đáng kể 
đến nguy cơ lây nhiễm Toxoplasma (KTC 95%, 
0,680 - 1,001; p>0,05). Mèo là thú nuôi tại Nhật, 
được nuôi chăm sóc rất chu đáo, mèo có những 
hộp cát để thải phân ra ngoài. Do đó, những 
người nuôi mèo tại Nhật đã hạn chế tiếp xúc với 
nang noãn thải ra từ phân mèo. 
Nguy cơ nhiễm trùng T. gondii ở người bắt 
nguồn từ việc tiếp xúc với phân của một con 
mèo đang rụng trứng. Mèo thường rụng trứng 
chỉ trong một vài tuần trong suốt cuộc đời của 
chúng. Những con mèo được nuôi trong nhà, 
không săn bắt và không được cho ăn thịt sống 
sẽ không có khả năng bị nhiễm T. gondii và do 
đó gây ra ít rủi ro cho con người. Ngoài ra, mèo 
hàng xóm hoặc mèo hoang đi đại tiện trong 
vườn hoặc hộp cát có thể gây nguy cơ nhiễm 
trùng T. gondii cao nhất cho một số người, bất 
kể họ có sở hữu mèo hay không. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
nuôi mèo, từng nuôi mèo chiếm 36,6%, tuy 
nhiên tỷ lệ huyết thanh dương tính trong nhóm 
nuôi mèo chiếm tỷ lệ 17,9% so với nhóm không 
có nuôi mèo 10,8%, có sự khác biệt tỷ lệ nhiễm 
giữa hai nhóm, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê. Mối liên quan này cho thấy kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với những kết 
quả khác như trong y văn. Tại các vùng nông 
thôn hay như tại 3 xã nghiên cứu của chúng tôi, 
việc nuôi mèo trong nhà nhưng không có đảm 
bảo tình trạng vệ sinh khi mèo thải phân ra 
ngoài, có thể góp phần gia tăng những nguy cơ 
tiếp xúc với nang noãn. Mèo không có nơi để đại 
tiện mà phóng uế thẳng ra môi trường bên 
ngoài, xung quanh nhà, đặc biệt hơn là mèo có 
rất thích được âu yếm với người, vuốt ve, điều 
này dễ gia tăng nguy cơ nhiễm do tiếp xúc với 
mèo khi nuôi mèo. 
Liên quan giữa tiếp xúc với mèo và tình 
trạng nhiễm T. Gondii. Tiếp xúc với mèo 
không có nghĩa là phải nuôi mèo, chúng tôi 
muốn phân biệt rõ về nuôi mèo và có tiếp xúc 
mèo là 2 yếu tố nguy cơ khác nhau. Tiếp xúc 
mèo có nghĩa là tiếp xúc ở khắp mọi nơi, chứ 
không phải mặc định là ở nhà mình. Đối tượng 
không nuôi mèo nhưng hàng xóm hoặc ở nhà 
khác có nuôi mèo, khi đối tượng có sở thích bế 
ẵm chơi nô đùa với mèo, trứng nang có thể ở 
phân mèo bám dính lên chân, lông rồi dính vào 
tay chân, mặt mũi, quần áo... môi trường xung 
quanh người tiếp xúc và có thể trực tiếp hay gián 
tiếp bị nhiễm qua ăn uống. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi (bảng 3.6), nhóm tiếp xúc mèo có 
tỷ lệ nhiễm khá cao 33,7% so với nhóm không 
tiếp mèo 7,0%. Với PR = 6,77%, p<0,05 có ý 
nghĩa thống kê trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Nhóm tiếp xúc mèo có nguy cơ nhiễm gấp 6,77 
lần so với nhóm không có tiếp xúc. 
Nguy cơ nhiễm T. gondii ở người bắt nguồn 
từ việc tiếp xúc với phân của một con mèo đang 
rụng trứng. Mèo thường rụng trứng chỉ trong vài 
tuần trong suốt cuộc đời của chúng. Những con 
mèo được nuôi trong nhà, không săn bắt và 
không được cho ăn thịt sống sẽ không có khả 
năng bị nhiễm T. gondii và do đó ít gây rủi ro 
cho con người. Ngoài ra, những con mèo hoang 
hoặc khu phố đi vệ sinh trong vườn có thể gây 
ra nguy cơ nhiễm T. gondii cao nhất cho một số 
người, bất kể họ có nuôi mèo hay không. 
Mèo nhà và mèo hoang đã được coi là nguồn 
chính của noãn bào Toxoplasma, mặc dù yếu tố 
nguy cơ chính là mối quan hệ giữa quần thể mèo 
và kích thước khu vực chúng đi vệ sinh. Số lượng 
mèo nông thôn thường cao hơn mèo thành thị, 
nhưng mèo thành thị phóng uế ở những khu vực 
hạn chế: bãi cát bên trong nhà ở, khu vườn nhỏ 
và xung quanh nhà. Ở những khu vực này, nồng 
độ tế bào trứng của Toxoplasma có thể rất cao, 
do đó nguy cơ lây nhiễm cũng có thể tăng lên ở 
người, trong khi mèo nông thôn có khu vực rộng 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 498 - THÁNG 1 - SỐ 2 - 2021 
31 
để đi vệ sinh và nồng độ tế bào trứng ở những 
khu vực này thấp hơn so với trường hợp trước 
đó, là nhiễm nguy cơ thấp ở người dân nông thôn. 
Liên quan giữa nhiễm T. gondii và tình 
trạng sẩy thai, thai lưu. Phần lớn trong 
nghiên cứu của chúng tôi phụ độ tuổi sinh đẻ 
chiếm tỷ lệ khá cao, thậm chí sinh con trên từ 1-
2 lần chiếm 59,3%, từ 3 lần trở lên chiếm 
30,6%, trong khi nhóm chưa sinh chiếm 10,1%. 
Như vậy tỷ lệ nhiễm T. gondii chiếm tỷ lệ cao 
13,4% trong cộng đồng chủ yếu là ở những phụ 
nữ trong sinh đẻ. Do đó việc theo dõi sẩy thai, 
thai chết lưu trong cộng cộng đồng rất đáng 
được quan tâm, vì nhiễm T. gondii ảnh hưởng có 
thể gây hậu quả cho thai nhi, những thể bệnh 
Toxoplasma bẩm sinh, tổng thương hệ thần kinh 
trung ương hay như ở những thể bệnh nặng có 
thể gây viêm màng não, tổn thương ở phổi, 
tim[6], [7]. 
Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.29 cho thấy, tỷ 
lệ sẩy thai, tiền sử sẩy thai chiếm 23,2%, đây là 
yếu tố hậu quả để khảo sát khi bị nhiễm. Trong 
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sẩy thai ở cả hai nhóm 
có nhiễm và không nhiễm chênh lệch nhau về tỷ 
lệ nhiễm (22,8% và 10,5%), mối liên quan giữa 
nhiễm T. gondii và tình trạng sẩy thai có ý nghĩa 
thống kê. Sự phát hiện huyết thanh 
Toxoplasma được báo cáo ở phụ nữ trong độ 
tuổi sinh đẻ trong nghiên cứu của chúng tôi có 
thể có tác động có hại cho thai nhi do nguy cơ 
nhiễm trùng bẩm sinh. Nhiễm trùng bẩm sinh là 
một phần quan trọng của gánh nặng bệnh tật 
trong các trường hợp nhiễm Toxoplasma ở người. 
V. KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu cắt ngang 396 đối tượng phụ 
nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại 3 xã Yang Reh, xã 
Ea Trul, xã Hòa Sơn huyện Krông Bông tỉnh Đắk 
Lắk từ tháng 01 đến tháng 07 năm 2020, chúng 
tôi đưa ra một số kết luận như sau: 
Tỷ lệ huyết thanh dương tính Toxoplasma 
gondii bằng xét nghiệm IgG ELISA tại 3 điểm 
nghiên cứu là 13,4% (trong đó 29,2% ở Yang 
Reh, 19,2% ở Ea Trul và 4,3% ở Hòa Sơn). 
Một số yếu tố liên quan nhiễm Toxoplasma 
gondii tại điểm nghiên cứu 
+ Nhóm người dân tộc có nguy cơ nhiễm cao. 
Huyết thanh dương tính với Toxoplasma gondii ở 
nhóm người dân tộc cao gấp 1,75 lần người kinh. 
+ Có mối liên hệ giữa khu vực dân cư và tình 
trạng nhiễm. Huyết thanh dương tính với 
Toxoplasma gondii tại Xã Rang Reh cao gấp 9,12 
lần so với Xã Hòa Sơn. 
+ Người buôn bán có nguy cơ nhiễm 
Toxoplasma gondii cao gấp 2,98 lần so với 
những người làm nông. 
+ Những người sử dụng nguồn nước không 
đảm bảo vệ sinh có nguy cơ nhiễm Toxoplasma 
gondii cao gấp 3,62 lần so với nhóm sử dụng 
nguồn nước hợp vệ sinh. 
+ Người nuôi mèo có nguy cơ nhiễm 
Toxoplasma gondii cao gấp 1,18 lần so với 
những người không nuôi mèo. 
+ Những người tiếp xúc mèo có nguy cơ 
nhiễm Toxoplasma gondii cao gấp 6,77 lần so 
với những người không tiếp xúc mèo. 
+ Những đối tượng phụ nữ trong độ tuổi sinh 
đẻ có huyết thanh dương tính cao gấp 2,51 lần; 
Nguy cơ thai lưu trên những đối tượng phụ nữ 
trong độ tuổi sinh đẻ có huyết thanh dương tính 
cao gấp 4,01 lần. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đoàn Hoàng Anh (2013), Tỷ lệ nhiễm 
Toxoplasma gondii trên phụ nữ có thai tới khám 
thai tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Lâm Đồng, Luận 
văn Thạc sĩ Y học, chuyên ngành ký sinh trùng - 
côn trùng y học, Đại học Tây Nguyên. 
2. Đinh Thị Bích Lân, Huỳnh Văn Chương 
(2009), Viện TNMT & CNSH Đại học Huế - Kiểm 
tra kháng thể kháng Toxoplasma gondii trong 
huyết thanh người và gia súc tại Thừa Thiên Huế - 
Tạp chí khoa học, Đại học Huế, số 55. 
3. A. F. Fatoohi, G. J. N. Cozon, P. Gonzalo, M. 
Mayencon, T. Greenland, S. Picot & F. Peyron 
E.A (2004), Heterogeneity in cellular and humoral 
immune responses against Toxoplasma gondii 
antigen in humans, Clin Exp Immunol, 136: p. 535-541. 
4. A. Molan, K. Nosaka, M.Hunter, W. Wang 
(2019), Global status of toxoplasma gondii 
infection: Systematic review and prevalence 
snapshots, Tropical biomedicine, 36(4): p. 898–925. 
5. Elvis Chongsi Wam, Leonard Fonkeng 
Sama, Innocent Mbulli Ali, Walter Akoh 
Ebile, LucyAgyingi Aghangu, and Christopher 
Bonglavnyuy Tume (2016) - Seroprevalence 
of Toxoplasma gondii IgG and IgM antibodies and 
associated risk factors in women of child-bearing 
age in Njinikom, NW Cameroon, BMC res Note, 9:406. 
6. Hendrik Wilking, Michael Thamm, Klaus 
Stark, Toni Aebischer and Frank Seeber 
(2016), Prevalence, incidence estimations, and 
risk factors of Toxoplasma gondii infection in 
Germany: a representative, cross-sectional, 
serological study, Scientific reports, 6:22551. 
7. J. FLEGR - Division of Biology, Falcuty of 
Science, Charles University in Prague, 
Prague, Klecany 250 67, Czech Republic 
(2017), Predictors of Toxoplasma gondii infection 
in Czech and Slovak population: the possible role 
of cat-related injuries and risky sexual behavior in 
the parasite transmission, Epidemiol. Infect, 145, 
p. 1351-1362. 

File đính kèm:

  • pdfty_le_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_huyet_thanh_duong_tinh.pdf