Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016

Đặt vấn đề: Suy giảm nhận thức là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tình trạng lệ

thuộc ở người cao tuổi. Suy giảm nhận thức không những gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc

sống của người bệnh mà còn tác động rất lớn đến đời sống thể chất, tâm lý, kinh tế xã hội của người chăm

sóc, gia đình và xã hội. Cho đến nay, các nghiên cứu về tình hình suy giảm nhận thức còn rất ít ở Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ suy giảm nhận thức ở người cao tuổi xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh

Thừa Thiên Huế. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức ở đối tượng nghiên cứu. Phương

pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 343 người từ 60 tuổi trở lên có hộ khẩu thường trú tại xã

Phú An. Chẩn đoán suy giảm nhận thức bằng cách sử dụng thang đo MMSE. Phân tích hồi qui đa biến logistics

được sử dụng để kiểm định các yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ hiện mắc

suy giảm nhận thức là 19,5%. Sự gia tăng của tuổi, tình trạng hôn nhân không thuận lợi (không kết hôn, li dị,

li thân, góa) và hoàn cảnh sống một mình là những yếu tố nguy cơ của suy giảm nhận thức.Kết luận: Suy giảm

nhận thức là phổ biến ở người cao tuổi tại xã Phú An. Chương trình giáo dục sức khỏe và thăm khám sức khỏe

định kỳ cho người cao tuổi nhằm phát hiện và can thiệp sớm suy giảm nhận thức là rất cần thiết ở Việt Nam.

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 trang 1

Trang 1

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 trang 2

Trang 2

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 trang 3

Trang 3

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 trang 4

Trang 4

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 trang 5

Trang 5

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 11880
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016

Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016
72
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018
TỶ LỆ SUY GIẢM NHẬN THỨC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở 
NGƯỜI CAO TUỔI XÃ PHÚ AN HUYỆN PHÚ VANG TỈNH THỪA 
THIÊN HUẾ NĂM 2016
Huỳnh Thị Thanh Tú, Đoàn Vương Diễm Khánh, Nguyễn Thị Hạnh, 
Lê Thị Thảo Nguyên, Trần Thị Phương Linh, Nguyễn Nhất Mạnh
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Suy giảm nhận thức là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tình trạng lệ 
thuộc ở người cao tuổi. Suy giảm nhận thức không những gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc 
sống của người bệnh mà còn tác động rất lớn đến đời sống thể chất, tâm lý, kinh tế xã hội của người chăm 
sóc, gia đình và xã hội. Cho đến nay, các nghiên cứu về tình hình suy giảm nhận thức còn rất ít ở Việt Nam. 
Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ suy giảm nhận thức ở người cao tuổi xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh 
Thừa Thiên Huế. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức ở đối tượng nghiên cứu. Phương 
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 343 người từ 60 tuổi trở lên có hộ khẩu thường trú tại xã 
Phú An. Chẩn đoán suy giảm nhận thức bằng cách sử dụng thang đo MMSE. Phân tích hồi qui đa biến logistics 
được sử dụng để kiểm định các yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ hiện mắc 
suy giảm nhận thức là 19,5%. Sự gia tăng của tuổi, tình trạng hôn nhân không thuận lợi (không kết hôn, li dị, 
li thân, góa) và hoàn cảnh sống một mình là những yếu tố nguy cơ của suy giảm nhận thức.Kết luận: Suy giảm 
nhận thức là phổ biến ở người cao tuổi tại xã Phú An. Chương trình giáo dục sức khỏe và thăm khám sức khỏe 
định kỳ cho người cao tuổi nhằm phát hiện và can thiệp sớm suy giảm nhận thức là rất cần thiết ở Việt Nam. 
Từ khoá: Suy giảm nhận thức, tỷ lệ hiện mắc, yếu tố liên quan, người cao tuổi.
Abstract 
PREVALENCE OF COGNITIVE IMPAIRMENT AND ASSOCIATED FACTORS 
AMONG THE ELDERLY IN PHU AN COMMUNE, PHU VANG DISTRICT, 
THUA THIEN HUE PROVINCE IN 2016
Huynh Thi Thanh Tu, Doan Vuong Diem Khanh, Nguyen Thi Hanh, 
Le Thi Thao Nguyen, Tran Thi Phuong Linh, Nguyen Nhat Manh
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Cognitive impairment is one of the major causes of disability and dependency among the 
elderly. Cognitive impairment not only seriously affects the quality of the patient’s life but also has a great 
impact on physical, psychological and economic situation of family caregivers and society. There is little 
research on the prevalence of cognitive impairment and its related factors in Vietnam. Aims: The aims of this 
study were: (i) To examine the prevalence of cognitive impairment among the elderly in Phu An commune, 
Phu Vang district, Thua Thien Hue province (ii) To examine some associated factors of cognitive impairment 
among participants. Methods: A randomly selected sample of 343 people aged 60 years and over living in 
Phu An commune were interviewed and examined. MMSE test (Mini Mental State Examination) was used 
as a screening instrument for cognitive impairment. Multilogistic regression was undertaken for exploring 
associated factors of cognitive impairment. Results: The overall prevalence of cognitive impairment was 
19.5%. Increasing age, inconvenient marital status (single, widowed, separate), living alone were associated 
with increasing risk of acquiring cognitive impairment. Conclusion: In this population, probable cognitive 
impairment is common. Health education program and routine health checkup for early detection and 
intervention of cognitive impairment are urgently needed among the elderly in Vietnam. 
Key words: Cognitive impairment, prevalence, associated factors, elderly people.
- Địa chỉ liên hệ: Đoàn Vương Diễm Khánh, email: diemkhanh1972@gmail.com
- Ngày nhận bài: 10/8/2017; Ngày đồng ý đăng: 16/5/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018
73
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Việt Nam cũng như những quốc gia khác đang 
đối mặt với các bệnh liên quan đến lão hóa và thoái 
hóa thần kinh đặc biệt là não, sự thoái hóa này gây 
nên nhiều tình trạng bệnh lý và hay gặp nhất là suy 
giảm nhận thức (SGNT). Đây là một trong những 
nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tình trạng lệ 
thuộc ở người cao tuổi. Suy giảm nhận thức không 
những gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng 
cuộc sống của người bệnh mà còn tác động rất lớn 
đến đời sống thể chất, tâm lý, kinh tế xã hội của 
người chăm sóc, gia đình và xã hội.
Trên toàn thế giới tỷ lệ suy giảm nhận thức 
chiếm từ 3% đến 19% ở những người trên 65 tuổi 
và tiến triển thành bệnh sa sút trí tuệ 11-33% sau 
2 năm. Theo nghiên cứu có 44% bệnh nhân với suy 
giảm nhận thức nhẹ đã trở lại bình thường sau một 
năm nếu được can thiệp sớm [7]. Các nghiên cứu 
trong thời gian 1995-2011 ở Benin, Botswana, Cộng 
hòa Trung Phi, Congo và Nigeria với khoảng 10.500 
người tham gia. Tỷ lệ su ... α = 0,05 thì = 1,96; 
d là sai số cho phép, chọn d = 0,05; 
p=28,8% (tỷ lệ suy giảm nhận thức theo 
thang điểm MMSE theo nghiên cứu của Đoàn Vương 
Diễm Khánh tại thành phố Huế năm 2014) [3]. Thay 
vào công thức trên, tính được n=315 
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu phân tầng 
tỷ lệ.
- Chọn ngẫu nhiên 3 thôn trong 4 thôn thuộc xã 
Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế vào 
mẫu. 
- Lập danh sách người từ 60 tuổi trở lên trong 
mỗi thôn được chọn. Chọn ngẫu nhiên số người ở 3 
thôn theo phương pháp chọn mẫu xác suất tỷ lệ với 
số người từ 60 tuổi trở lên ở các thôn. Cỡ mẫu cuối 
cùng là 343 người.
Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn mặt đối 
mặt với đối tượng và người thân tại hộ gia đình
 Xử lí số liệu và phân tích số liệu: Nhập dữ liệu 
bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích và xử lý dữ 
liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Tỷ lệ suy giảm nhận 
thức được đánh giá bằng thang đo MMSE với tổng 
điểm 30. Suy giảm nhận thức được đánh giá dựa 
theo trình độ học vấn: MMSE <18 (người mù chữ), 
MMSE <21 (biết đọc biết viết, tiểu học), MMSE <24 
(THCS trở lên) [11]. Một nghiên cứu tổng hợp kết 
quả từ 15 nghiên cứu khác nhau trên thế giới cho 
thấy độ nhạy của thang đo MMSE với điểm cắt <24 
là 0,85 (95% CI: 0,74-0,92), độ đặc hiệu là 0,90 (95% 
CI: 0,82-0,95) [6]
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 72,9 
± 10,2; tuổi nhỏ nhất là 60, lớn nhất là 105 tuổi. Các 
đối tượng nghiên cứu đa số thuộc nữ giới (61%), 
nam (39%). Nghề nông chiếm tỷ lệ cao nhất (42,3%); 
cán bộ công chức chiếm tỷ lệ thấp (6,4%). Trình độ 
tiểu học chiếm tỷ lệ 30,9%; biết đọc, biết viết chiếm 
28,9%; thấp nhất là nhóm THPT trở lên (8,5%). Hầu 
hết đối tượng đều theo phật giáo (63,8%); thiên 
chúa giáo (16,3%).
 Có 57,4% đối tượng nghiên cứu có mức sống 
trung bình, mức khá có 26,3% và có 16,3% loại 
nghèo, cận nghèo. Tình trạng hôn nhân là kết hôn 
chiếm 60,9%, chưa kết hôn là 0,6%, ly dị, ly thân 
chiếm 0,4%, góa chiếm 38,1%. Có 53,1% sống với 
vợ/chồng; 40,2% sống với người thân và 6,7% sống 
một mình. Loại nhà ở gồm: nhà hộp, không cây cối 
chiếm 30,9%; nhà không vườn, có trồng cây cảnh 
chiếm 23,0%; nhà có vườn, cây cối chiếm 46,1%. 
Xếp loại BMI gầy chiếm 25,4% ; bình thường: 62,1%; 
thừa cân và béo phì chiếm 12,5%. 
n= Z x
d
p(1-p)2
2
2(1- )
α
n= Z 2
2(1- )
α
74
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018
3.2. Tỷ lệ suy giảm nhận thức
3.2.1. Tỷ lệ mắc suy giảm nhận thức theo thang điểm MMSE
Bảng 1. Tỷ lệ mắc suy giảm nhận thức theo thang điểm MMSE
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Có suy giảm nhận thức 67 19,5
Không mắc suy giảm nhận thức 276 80,5
Tổng 343 100
Tỷ lệ SGNT là 19,5%, không SGNT là 80,5%.
3.3. Các yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức
3.3.1. Mối liên quan giữa các đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu và SGNT
Bảng 2. Liên quan giữa đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu và SGNT
Đặc điểm
Suy giảm nhận thức
Tổng cộng
PCó Không
N % N % N %
Giới tính
Nam 23 16,7 115 83,3 138 100,0
p>0,05
Nữ 44 21,5 161 78,5 205 100,0
Nhóm tuổi
60-64 2 2,0 99 98,0 101 100,0
p<0,05
65-69 4 7,4 50 92,6 54 100,0
70-74 5 11,6 38 88,4 43 100,0
75-79 11 25,0 33 75,0 44 100,0
80-84 17 39,5 26 60,5 43 100,0
85-89 18 46,2 21 53,8 39 100,0
90+ 10 52,6 9 47,4 19 100,0
Tình trạng 
hôn nhân
Kết hôn 22 10,5 187 89,5 209 100,0
p<0,05
Khác 45 33,6 89 66,4 134 100,0
Trình độ 
học vấn
Mù chữ 13 37,1 22 62,9 35 100,0
p<0,05
Biết đọc, biết viết 31 31,3 68 68,7 99 100,0
Tiểu học 13 12,3 93 87,7 106 100,0
THCS trở lên 10 9,7 93 90,3 103 100,0
Nghề 
nghiệp
Nông dân 28 19,3 117 80,7 145 100,0
p>0,05
Buôn bán 16 18,8 69 81,2 85 100,0
Công nhân 5 13,9 31 86,1 36 100,0
Cán bộ, viên chức 2 9,1 20 90,9 22 100,0
Nội trợ 10 29,4 24 70,6 34 100,0
Khác 6 28,6 15 71,4 22 100,0
Hoàn cảnh 
sống
Sống một mình 9 39,1 14 60,9 23 100,0
p<0,05
Sống với vợ/
chồng
30 16,6 151 83,4 181 100,0
Sống với gia đình 
người than
28 20,1 111 79,9 139 100,0
Loại nhà
Nhà hộp, không 
cây cối 26 24,5 80 75,5 106 100,0
p>0,05
Nhà không vườn, 
có trồng cây cảnh 12 15,2 67 84,8 79 100,0
Nhà có vườn, cây 
cối 29 18,4 129 81,6 158 100,0
75
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018
Kinh tế
Nghèo, cận 
nghèo
20 35,1 37 64,9 57 100,0
p<0,05
Trung bình 36 18,0 164 82,0 200 100,0
Khá, giàu 11 12,8 75 87,2 86 100,0
BMI
Gầy 29 33,3 58 66,7 87 100,0
p<0,05
Bình Thường 31 14,6 182 85,4 213 100,0
Thừa Cân, béo 
phì
7 16,3 36 83,7 43 100,0
Các yếu tố tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, hoàn cảnh sống, kinh tế, BMI có liên quan có ý 
nghĩa thống kê với tình hình SGNT (p<0,05).
SGNT tăng dần theo tuổi (cao nhất ở nhóm từ 90 tuổi trở lên chiếm 52,6%, thấp nhất là 60-64 tuổi chiếm 
2%). SGNT ở nhóm kết hôn chiếm tỷ lệ 10,5% thấp hơn nhóm còn lại (chưa kết hôn; ly dị, ly thân; góa) chiếm 
tỷ lệ 33,6%. SGNT giảm dần theo trình độ học vấn và kinh tế gia đình. Sống cùng vợ/chồng có tỷ lệ SGNT thấp 
nhất (16,6%), cao nhất ở nhóm sống một mình (39,1%). Người có BMI thuộc nhóm gầy là yếu tố nguy cơ dẫn 
đến SGNT (33%).
3.3.2. Mối liên quan giữa tiền sử bệnh và SGNT
Bảng 3. Mối liên quan giữa tiền sử bệnh và SGNT
Đặc điểm tiền sử bệnh
Suy giảm nhận thức
Tổng cộng
pCó Không
N % N % N %
Tăng huyết áp 
Có 24 20,0 96 80,0 120 100,0
p>0,05
Không 43 19,3 180 80,7 223 100,0
Tiểu đường
Có 3 14,3 18 85,7 21 100,0
p>0,05
Không 64 19,9 258 80,1 322 100,0
Tim mạch
Có 8 25,0 24 75,0 32 100,0
p>0,05
Không 59 19,0 252 81,0 311 100,0
Rối loạn Lipid
Có 6 33,3 12 66,7 18 100,0
p>0,05
Không 61 18,8 264 81,2 325 100,0
Tai biến mạch máu 
não
Có 9 39,1 14 60,9 23 100,0
p<0,05
Không 58 18,1 262 81,9 320 100,0
Tiền sử gia đình bị 
SSTT
Có 1 9,1 10 90,9 11 100,0
p>0,05
Không 66 19,9 266 80,1 332 100,0
Tỷ lệ hiện mắc SGNT có liên quan với tiền sử tai biến mạch máu não (p<0,05).
Tỷ lệ hiện mắc SGNT không có mối liên quan (p>0,05) với các nhóm bệnh: tăng huyết áp, tiểu đường, tim 
mạch, rối loạn Lipid, tiền sử gia đình SSTT.
3.3.3. Mối liên quan giữa một số thói quen của đối tượng nghiên cứu với SGNT
Bảng 4. Mối liên quan giữa một số thói quen của đối tượng nghiên cứu với SGNT
Đặc điểm thói quen
Suy giảm nhận thức
Tổng cộng
PCó Không
N % N % N %
Hút thuốc lá
Có 23 22,1 81 77,9 104 100,0
p>0,05
Không 44 18,4 195 81,6 239 100,0
Uống rượu/bia
Có 21 23,6 68 76,4 89 100,0
p>0,05
Không 46 18,1 208 81,9 254 100,0
Tập thể dục
Có 29 13,2 190 86,8 219 100,0
p<0,05
Không 38 30,6 86 69,4 124 100,0
76
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018
Tỷ lệ SGNT cao hơn ở nhóm không tập thể dục (30,6%), nhóm có tập thể dục là 13,2%. Sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ SGNT cao hơn ở người hút thuốc lá, uống rượu/bia, tuy vậy sự khác biệt 
này không có ý nghĩa thống kê.
3.3.4. Mô hình hồi qui đa biến logistic kiểm định các yếu tố liên quan đến SGNT
Bảng 5. Mô hình hồi qui đa biến logistic kiểm định các yếu tố liên quan đến SGNT
Biến độc lập OR 95% CI P
Tuổi 
60-64 1
65-69 3,4 0,6-19,5 >0,05
70-74 6,2 1,1-35,5 <0,05
75-79 16,7 3,2-85,8 <0,01
80-84 26,3 5,0-137,9 <0,001
85-89 30,5 5,6-116,0 <0,001
90 trở lên 37,8 6,0-236,2 <0,001
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn 1
Khác 2,3 1-5,1 <0,05
Hoàn cảnh sống
Sống với vợ/chồng 1
Sống với gia đình người than 1,7 0,5-4,8 >0,05
Sống một mình 3,0 1,4-6,6 <0,01
Theo mô hình hồi quy đa biến logistic thì nhóm 
tuổi, tình trạng hôn nhân, hoàn cảnh sống có liên 
quan đến SGNT ở người cao tuổi (p<0,05).
4. BÀN LUẬN
4.1. Tỷ lệ hiện mắc SGNT
Tỷ lệ mắc SGNT ở nghiên cứu này là 19,5%. Theo 
các báo cáo của các nghiên cứu khác thì tỷ lệ SGNT 
ở người 60 tuổi trở lên dao động từ 8-29% [9],[10]. 
Tuy vậy việc so sánh tỷ lệ này với các nghiên cứu 
khác là rất khó thực hiện. Sự khác biệt vê tỷ lệ này có 
thể do nhiều yếu tố như phương pháp nghiên cứu, 
phương pháp chọn mẫu, tiêu chuẩn chẩn đoán và 
đặc biệt là cấu trúc tuổi của mẫu nghiên cứu. Kết 
quả nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của 
Đoàn Vương Diễm Khánh tại thành phố Huế năm 
2014 (28,8%) [3]; nghiên cứu của Vũ Anh Nhị và cộng 
sự tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 (20,9%) [5]; 
nghiên cứu của Trần Kỳ Hậu tại thành phố Quy Nhơn 
năm 2015 (21,4%) [2], nghiên cứu của Guerchet tiến 
hành ở 2 thành phố thuộc Trung Phi báo cáo tỷ lệ 
SGNT tương ứng là 25% và 18,8% [8]. Nghiên cứu 
của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Zhuang 
và cộng sự tại Thượng Hải Trung Quốc tỷ lệ SGNT là 
8,38% [11]; nghiên cứu của Paramita Sengupta và 
cộng sự tại phía Bắc Ấn Độ tỷ lệ SGNT là 8,8% [10].
4.2. Một số các yếu tố liên quan đến SGNT
Liên quan giữa tuổi, tình trạng hôn nhân, trình 
độ học vấn và SGNT: Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ 
SGNT gia tăng rõ rệt theo tuổi (đặc biệt rất cao ở 
tuổi từ 85 trở lên); tăng cao ở người có trình độ học 
vấn thấp và ở người chưa kết hôn, ly dị, ly thân, góa. 
Điều này phù hợp các nghiên cứu ở nhiều nơi trên 
thế giới như nghiên cứu tại huyện Ba Vì, Hà Nội [1], 
ở Châu phi cận Sahara[9], Ấn độ [10], Trung Quốc 
[11]. Tuy nhiên sự khác biệt về trình độ học vấn 
trong nghiên cứu của chúng tôi không có ý nghĩa 
thống kê trong mô hình đa biến.
Liên quan giữa hoàn cảnh sống và SGNT: Nghiên 
cứu cho thấy những người sống cùng vợ/chồng có 
tỷ lệ SGNT thấp hơn sống với người thân và sống 
một mình. Nghiên cứu của Zhuang và cộng sự tại 
Thượng Hải [11], nghiên cứu của Paramita Sengupta 
và cộng sự tại Ấn Độ [10] cũng cho kết quả tương tự 
(p<0,05). 
Liên quan giữa kinh tế gia đình và SGNT: SGNT 
tăng rõ rệt ở những người có kinh tế nghèo, cận 
nghèo; tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê trong mô hình đa biến. Nghiên cứu của 
Paramita Sengupta và cộng sự tại Ấn Độ SGNT tăng 
cao ở người có mức thu nhập thấp [10]. 
Liên quan giữa tiền sử TBMMN và SGNT: Nghiên 
cứu của chúng tôi cho thấy nhóm người cao tuổi có 
tiền sử TBMMN có nguy cơ SGNT cao gấp 2 lần so với 
nhóm không có tiền sử TBMMN. Tuy nhiên sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình đa 
biến. Mối liên quan giữa tiền sử TBMMN và SSTT đã 
được tìm thấy ở nghiên cứu của Ngô Văn Dũng tại 
77
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018
huyện Ba Vì năm 2009, tỷ lệ SGNT ở nhóm có tiền 
sử TBMMN cao gấp 3,73 lần nhóm không có tiền sử 
TBMMN (OR=3.7, 95% CI 1.3-9.86) [1]. Nghiên cứu 
của Vũ Anh Nhị và Diệp Trọng Khải năm 2012: tỷ lệ 
SGNT cao hơn ở nhóm người có tiền sử TBMMN thể 
nhồi máu não động mạch lớn với p< 0,05 [4].
Liên quan giữa thói quen hoạt động thể lực 
và SGNT: Nhóm có thói quen tập thể dục có tỷ lệ 
SGNT thấp hơn nhóm không tập thể dục (p<0,05), 
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê trong mô hình đa biến. Kết quả nghiên cứu này 
giống với nghiên cứu của Zhuang và cộng sự tại 
Thượng Hải, Trung Quốc năm 2012 với p<0,001 [11].
Liên quan giữa BMI và SGNT: Tỷ lệ SGNT cao 
nhất ở nhóm gầy, tỷ lệ này gấp 5 lần so với nhóm 
thừa cân, sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa thống kê 
trong mô hình đơn biến. Một số nghiên cứu trước 
đây cũng không tìm thấy mối liên quan giữa BMI và 
SGNT [2],[3].
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ hiện mắc SGNT chung là 19,5%, tỷ lệ hiện 
mắc SGNT ở nam là 16,7%; ở nữ là 21,5%. Tỷ lệ hiện 
mắc SGNT tăng dần theo tuổi: cao nhất ở nhóm từ 
90 tuổi trở lên (52,6%); thấp nhất ở nhóm 60-64 tuổi 
(2,0%).
Phân tích đơn biến cho thấy các yếu tố liên quan 
có ý nghĩa thống kê đến suy giảm nhận thức bao 
gồm: tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, 
hoàn cảnh sống, kinh tế gia đình, tiền sử tai biến 
mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực, BMI. 
Mô hình hồi qui đa biến logistic cho thấy các yếu tố 
liên quan có ý nghĩa thống kê đến SGNT là: tuổi, tình 
trạng hôn nhân, hoàn cảnh sống.
6. KIẾN NGHỊ
Cần có sự quan tâm, phối hợp giữa cán bộ y tế và 
người dân đến suy giảm nhận thức nhằm phát hiện 
sớm và điều trị kịp thời. Tổ chức khám sức khoẻ định 
kỳ và khám sàng lọc suy giảm nhận thức ở người 
cao tuổi. Đồng thời quản lý tốt đối tượng có nguy cơ 
hoặc đang mắc suy giảm nhận thức. Khuyến khích 
người cao tuổi sống chung với vợ/chồng hoặc người 
thân trong gia đình. 
Tăng cường công tác phòng và điều trị tai biến 
mạch máu não (đặc biệt là đề phòng, quản lý tốt 
bệnh tăng huyết áp), khuyến cáo người dân có thói 
quen luyện tập thể dục thường xuyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Văn Dũng, Lê Quang Cường (2009), “Nghiên 
cứu một số đặc điểm dịch tễ học của suy giảm nhận thức 
nhẹ ở người cao tuổi tại huyện Ba Vì thành phố Hà Nội”, 
Tạp chí Nghiên cứu Y học Phụ trương, 62(3), tr. 142-146.
2. Trần Kỳ Hậu (2015), Nghiên cứu tỷ lệ sa sút trí tuệ 
và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thành phố Quy 
Nhơn tỉnh Bình Định, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường 
Đại học Y Dược Huế.
3. Đoàn Vương Diễm Khánh (2014), Nghiên cứu tỷ lệ 
sa sút trí tuệ và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở người từ 65 
tuổi trở lên tại thành phố Huế, Việt Nam, Viện Nghiên cứu 
Sức khoẻ Cộng đồng, Trường Đại học Y dược Huế.
4. Vũ Anh Nhị, Diệp Trọng Khải (2012), Đánh giá suy 
giảm nhận thức và tổn thương não bằng cộng hưởng từ ở 
người lớn tuổi tại Bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí 
Minh, Bộ môn Thần kinh, Trường Đại học Y Dược TP HCM.
5. Vũ Anh Nhị, Trần Công Thắng, Nguyễn Kinh Quốc và 
Cộng sự (2011), Nghiên cứu dịch tễ bệnh lý sa sút trí tuệ 
tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ môn Thần kinh, Trường Đại 
học Y Dược TP HCM.
6. Creavin ST, Wisniewski S, Noel-Storr AH, et al (2016), 
“Mini-Mental State Examination (MMSE) for the detection 
of dementia in clinically unevaluated people aged 65 
and over in community and primary care populations”, 
Cochrane Database of Systematic Reviews 2016, Issue 1. 
Art. No.: CD011145. DOI: 10.1002/14651858.CD011145.
pub2.
7. Gauthier S., Reisberg B., et al. (2006), “ Mild 
cognitive impairment”, Lancet, 367, pp. 1262-1270.
8. Guerchet M., M’belesso P., Mouanga A. M., et al. 
(2010), “Prevalence of dementia in elderly living in two 
cities of Central Africa: the EDAC survey”, Dement Geriatr 
Cogn Disord, 30, pp 261-268.
9. Mavrodaris A., Powell J., Thorogood M., et al. (2013), 
“Prevalences of dementia and cognitive impairment 
among older people in sub-Saharan Africa: a systematic 
review”, Bull World Health Organ, 91(10), pp. 773-83.
10. Paramita Sengupta I. A., Benjamin Y.S., et al. (2014), 
“Prevalence and correlates of cognitive impairment in a 
north Indian elderly population”, WHO South-East Asia 
Journal of Public Health, 3 (2), pp. 135-143.
11. Zhuang J.P., Wang G., Cheng Q., et al. (2012) 
“Cognitive impairment and the associated risk factors 
among the elderly in the Shanghai urban area: a pilot 
study from China”, Translational Neurodegeneration, 1, 
pp. 22.

File đính kèm:

  • pdfty_le_suy_giam_nhan_thuc_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_cao.pdf