Tỷ lệ sa sút trí tuệ và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định năm 2015
Đặt vấn đề: Sa sút trí tuệ (SSTT) là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tình trạng lệ thuộc ở
người cao tuổi. Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về tỷ lệ hiện
mắc và các yếu tố liên quan SSTT.
Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ hiện mắc SSTT
ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến SSTT ở
đối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu
được tiến hành trên 2.359 người từ 65 tuổi trở lên có hộ khẩu
thường trú tại thành phố Quy Nhơn. Chẩn đoán SSTT được
thực hiện qua hai giai đoạn: giai đoạn sàng lọc bằng cách sử
dụng MMSE test ( MMSE (+) khi số điểm <24), giai đoạn
chẩn đoán sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán SSTT của ICD 10.
Phân tích hồi qui đa biến logistics được sử dụng để kiểm định
các yếu tố liên quan đến SSTT. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ
MMSE (+) là 21,4%. Tỷ lệ SSTT chung là 7,1% . Tỷ lệ hiện
mắc SSTT dao động từ 2,3% ở nhóm 65-69 tuổi đến 28,4% ở
nhóm 90 tuổi trở lên. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống
kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình
độ học vấn, tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt
động thể lực.
Kết luận: Trong số đối tượng nghiên cứu, SSTT là phổ
biến. Chương trình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi
nhằm phát hiện sớm, điều trị thích hợp bệnh SSTT là rất cần
thiết hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ sa sút trí tuệ và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định năm 2015
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 141 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE TỶ LỆ SA SÚT TRÍ TUỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI CAO TUỔI TẠI THÀNH PHỐ QUY NHƠN TỈNH BÌNH ĐỊNH NĂM 2015 Trần Kỳ Hậu1, Đoàn Vương Diễm Khánh2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sa sút trí tuệ (SSTT) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tình trạng lệ thuộc ở người cao tuổi. Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về tỷ lệ hiện mắc và các yếu tố liên quan SSTT. Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ hiện mắc SSTT ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến SSTT ở đối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 2.359 người từ 65 tuổi trở lên có hộ khẩu thường trú tại thành phố Quy Nhơn. Chẩn đoán SSTT được thực hiện qua hai giai đoạn: giai đoạn sàng lọc bằng cách sử dụng MMSE test ( MMSE (+) khi số điểm <24), giai đoạn chẩn đoán sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán SSTT của ICD 10. Phân tích hồi qui đa biến logistics được sử dụng để kiểm định các yếu tố liên quan đến SSTT. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ MMSE (+) là 21,4%. Tỷ lệ SSTT chung là 7,1% . Tỷ lệ hiện mắc SSTT dao động từ 2,3% ở nhóm 65-69 tuổi đến 28,4% ở nhóm 90 tuổi trở lên. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực. Kết luận: Trong số đối tượng nghiên cứu, SSTT là phổ biến. Chương trình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi nhằm phát hiện sớm, điều trị thích hợp bệnh SSTT là rất cần thiết hiện nay. Từ khóa: SSTT, tỷ lệ hiện mắc, yếu tố liên quan, người cao tuổi. ABSTRACT: PREVALENCE OF DEMENTIA AND ASSOCIATED FACTORS AMONG THE ELDERLY IN QUI NHON CITY, BINH DINH PROVINCE, VIETNAM Background: Dementia is one of the major causes of disability and dependency among older people. There are very few research on the prevalence of dementia and its related factors in Vietnam. The objectives of this study were to examine the prevalence of dementia among people aged 65 years and over in Qui Nhon city, Binh Dinh province of Vietnam and to examine associated factors of dementia among participants. Methods: A randomly selected sample of 2359 people aged 65 years and over living in Qui Nhon city, Binh Dinh province of Vietnam were interviewed and examined. MMSE test (Mini Mental Status Examination) was used as a screening instrument for dementia. Individuals with a MMSE positive (score <24) were examined for diagnosis of dementia using ICD-10 criteria. Multilogistic regression was undertaken for exploring associated factors of dementia Results: Prevalence of MMSE (+) was 21.4%. The overall prevalence estimates for dementia was 7.1% (n=85). This prevalence ranged from 2.3% among people aged 65-69 years to 28.4% among those aged ≥ 90 years. Age, marital status, occupation, education level, medical history of stroke and physical activity were significantly associated with dementia. Conclusion: In this population, dementia is common. Mental health care delivery for people living with dementia is urgently needed for the elderly in Vietnam. Key words: Dementia, prevalence, related factors, the elderly I. ĐẶT VẤN ĐỀ SSTT là hội chứng suy giảm chức năng nhận thức mắc phải kèm theo những thay đổi về hành vi và mất chức năng xã hội. Giảm trí nhớ là biểu hiện quan trọng nhất, ngoài ra 1. Trung tâm Y tế thành phố Quy Nhơn 2. Khoa YTCC, Trường Đại học Y Dược Huế Ngày nhận bài: 01/02/2017 Ngày phản biện: 14/02/2017 Ngày duyệt đăng: 20/02/2017 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn142 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC các lĩnh vực khác cũng bị rối loạn như mất ngôn ngữ, mất sử dụng động tác, mất nhận biết đồ vật, chức năng nhiệm vụ... SSTT gây ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày, hoạt động nghề nghiệp và sự hòa nhập xã hội. Bệnh không những gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh mà còn là gánh nặng cho gia đình, cộng đồng và xã hội [5]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, đến năm 2050 ước tính dân số trên 60 tuổi là 2 tỷ người. Tác động tiêu cực rõ rệt của già hóa dân số là gia tăng số người SSTT. Dù SSTT ảnh hưởng chủ yếu đến người già, nhưng nó không phải là điều bình thường của sự lão hóa. Theo các ước tính khác nhau, khoảng 2-10% số người bị SSTT khởi phát trước tuổi 65. Tỷ lệ mắc tăng gấp đôi mỗi 5 năm sau tuổi 65. Trên toàn cầu, số người SSTT là khoảng 35,6 triệu, nghiên cứu dịch tễ học cho thấy con số này tăng lên rất đáng báo động. [9]. Ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về SSTT. Nghiên cứu này được thực hiệnvới mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ hiện mắc và những đặc điểm SSTT ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến SSTT ở đối tượng nghiên cứu. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng, đ ... y giảm trí nhớ chiếm đa số (96,4%). Trong số 168 đối tượng bị SSTT, chỉ có 20 trường hợp đã từng được chẩn đoán SSTT, chiếm tỷ lệ 11,9%. Trong đó, có đến 12 đối tượng không được điều trị (60%). 3.3. Các yếu tố liên quan đến SSTT Phân tích đơn biến cho thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với SSTT bao gồm: giới tính, tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp chính trước đây, tình trạng sống, loại nhà ở, kinh tế gia đình, tiền sử rối loạn lipid máu, tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen tập thể dục, thói quen giải trí, BMI (Bảng 3.3 và 3.4) . V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn144 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Yếu tố liên quan Hiện mắc SSTT Yếu tố liên quan Hiện mắc SSTT Tần số % Tần số % Trình độ học vấn*** Hoàn cảnh sống*** Mù chữ 45 23,7 Sống một mình 17 11,0 Biết đọc, biết viết 77 10,3 Sống cùng vợ/chồng 34 4,2 Tiểu học 22 4,4 Sống với gia đình người thân 117 8,4 Từ THCS trở lên 24 2,6 Chỉ số khối cơ thể*** Kinh tế gia đình*** Gầy 55 13,3 Nghèo, cận nghèo 25 11,6 Bình thường 89 6,5 Trung bình 129 7,4 Thừa cân, béo phì 24 4,1 Khá, giàu 14 3,5 ***p<0,001 Yếu tố liên quan Hiện mắc SSTT Yếu tố liên quan Hiện mắc SSTT Tần số % Tần số % Tiền sử tăng huyết áp Thói quen uống rượu bia Có 83 7,4 Có 7 4,3 Không 85 6,9 Không 161 7,3 Tiền sử đái tháo đường Thói quen tập thể lực*** Có 14 6,3 Có 58 3,8 Không 154 7,2 Không 110 13,5 Tiền sử bệnh tim Mức độ tập thể lực*** Có 32 6,5 Có tập thường xuyên 32 2,7 Không 136 7,3 Không tập thường xuyên 26 7,1 Tiền sử rối loạn lipid máu* Thói quen xem tivi*** Có 8 3,4 Có 80 4,8 Không 160 7,5 Không 88 12,8 Tiền sử tai biến mạch máu não*** Thói quen nghe đài Có 33 25,6 Có 11 5,6 Không 135 6,1 Không 157 7,3 Tiền sử gia đình SSTT Thói quen chơi cờ, bài** Có 7 9,2 Có 0 0,0 Không 161 7,1 Không 168 7,4 Thói quen hút thuốc lá Có 18 5,5 Không 150 7,4 *p< 0,05, **p<0,01, ***p<0,001 Bảng 3.4. Liên quan giữa tiền sử bệnh, thói quen hút thuốc lá, uống rượu bia, thói quen luyện tập thể lực, thói quen giải trí và SSTT Các biến số có ý nghĩa thống kê trong mô hình đơn biến được đưa vào mô hình hồi qui đa biến logistic. Những biến số có liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) trong mô hình hồi qui đa biến logistic được trình bày trong Bảng 3.5. SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 145 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Bảng 3.5. Mô hình hồi quy đa biến logistic các yếu tố liên quan đến SSTT Yếu tố liên quan OR 95% CI p Tuổi 65-69 1 70-74 1,5 0,8-3,0 >0,05 75-79 1,7 0,9-3,2 >0,05 80-84 2,4 1,3-4,4 <0,01 85-89 4,4 2,3-8,7 <0,001 90 trở lên 7,7 3,6-16,6 <0,001 Tình trạng hôn nhân Kết hôn 1 Khác 1,8 1,1-3,0 <0,05 Nghề nghiệp chính trước đây Cán bộ, viên chức 1 Buôn bán 2,2 0,9-5,2 >0,05 Công nhân 2,2 0,8-5,8 >0,05 Nghề nông 2,2 0,9-5,3 >0,05 Ngư nghiệp 2,3 0,7-7,0 >0,05 Nội trợ 3,2 1,3-8,0 <0,05 Khác 5,5 2,0-15,3 <0,01 Trình độ học vấn THCS trở lên 1 Mù chữ 3,0 1,5-6,2 <0,01 Biết đọc biết viết 1,7 0,9-3,2 >0,05 Tiểu học 0,8 0,4-1,7 >0,05 Tiền sử tai biến mạch máu não Không 1 Có 6,3 3,8-10,6 <0,001 Thói quen hoạt động thể lực Có 1 Không 1,7 1,1-2,6 <0,05 Kết quả phân tích đa biến cho thấy các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) đến SSTT bao gồm: tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp chính trước đây, tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực. Nguy cơ mắc SSTT gia tăng rõ rệt theo sự gia tăng của tuổi, tình trạng hôn nhân li dị, li thân, góa, độc thân, nghề nghiệp nội trợ, trình độ học vấn thấp (mù chữ), người có tiền sử tai biến mạch máu não, không có thói quen hoạt động thể lực. IV. BÀN LUẬN Tỷ lệ hiện mắc SSTT. Nghiên cứu này thực hiện trên tổng số 2.359 đối tượng từ 65 tuổi trở lên. Tỷ lệ hiện mắc SSTT là 7,1%. Theo các báo cáo của các nghiên cứu khác thì tỷ lệ SSTT ở người 65 tuổi trở lên dao động từ 5-10% [3], [4]. Tuy vậy việc so sánh tỷ lệ này với các nghiên cứu khác là rất khó thực hiện. Sự khác biệt về tỷ lệ này có thể do nhiều yếu tố như phương pháp nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu, tiêu chuẩn chẩn đoán và đặc biệt là cấu trúc tuổi của mẫu nghiên cứu. Đa số các nghiên cứu không trình bày cấu trúc tuổi của mẫu nghiên cứu, trong khi tỷ lệ SSTT tăng rõ rệt khi tuổi gia tăng. Điều này khiến cho việc so sánh tỷ lệ mắc SSTT chung cho các nghiên cứu là rất khó chính xác. Theo kết quả nghiên cứu, trong số 168 đối tượng bị SSTT, chỉ có 20 trường hợp đã từng được chẩn đoán SSTT, chiếm tỷ lệ 11,9 %; trong đó chỉ có 40% trường hợp được điều trị. Tỷ lệ này rất thấp so với nhu cầu được chẩn đoán và điều trị sớm của bệnh nhân SSTT. Các yếu tố liên quan đến SSTT. Phân tích đơn biến cho thấy: Tuổi và SSTT: Tỷ lệ hiện mắc SSTT tăng dần theo nhóm tuổi, nhóm 65-69 tuổi tỷ lệ này là 2,3%; nhóm 70-74 tuổi là 4,9%; cao nhất ở nhóm từ 90 tuổi trở lên (28,4%). Điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam [1], [3], [4]. Giới và SSTT: tỷ lệ hiện mắc SSTT ở nữ là 8,5%, cao hơn ở nam (4,9%). Kết quả này tương tự như kết quả của các nghiên cứu trước đây [1], [4]. Trình độ học vấn và SSTT: Tỷ lệ hiện mắc SSTT theo trình độ học vấn: nhóm mù chữ cao nhất (23,7%); tiếp đến là nhóm biết đọc, viết (10,3%); tiểu học (4,4%); nhóm có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên là thấp nhất (2,6%). Nghề nghiệp và SSTT: nhóm nghề nông và nội trợ có tỷ lệ SSTT cao nhất (12,5% và 11,3%). Một nghiên cứu tại Huế cho thấy nhóm buôn bán, nghề nông, nội trợ hoặc thất nghiệp có tỷ lệ SSTT cao nhất[1] – đây là những nghề nghiệp lao động giản đơn. Nhóm cán bộ, viên chức có tỷ lệ SSTT thấp nhất (1,9%). Tình trạng hôn nhân và SSTT: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ hiện mắc SSTT trong nhóm kết hôn (4,2%) thấp hơn nhóm còn lại (chưa kết hôn; ly dị, ly thân; góa) (11,2%). Hoàn cảnh sống và SSTT: Nhóm đối tượng sống cùng vợ/chồng có tỷ lệ SSTT thấp nhất (4,2%), nhóm đối tượng sống một mình có tỷ lệ SSTT cao nhất (11,0%). Tuy vậy, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Loại nhà ở: Theo loại nhà đối tượng đang ở, nhóm ở nhà vườn có tỷ lệ SSTT cao nhất (15,0%); ở nhà hộp có tỷ lệ SSTT thấp nhất (6,2%). Tuy vậy, sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Hai yếu tố trên, sống với với vợ chồng, người thân, sống trong nhà hộp, đối V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn146 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC tượng có điều kiện giao tiếp với người khác nhiều hơn, nên cũng có thể đây là yếu tố tích cực làm giảm nguy cơ mắc SSTT. Kinh tế gia đình: Trong nghiên cứu, theo tự đánh giá hoàn cảnh kinh tế gia đình, nhóm có kinh tế nghèo, cận nghèo có tỷ lệ SSTT cao nhất (11,6%); thấp nhất là nhóm có kinh tế khá, giàu (3,5%). Tuy vậy, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Nghiên cứu của Pembe Keskikoglu ở Izmir Thổ Nhĩ Kỳ (2003) thì nhóm có thu nhập thấp hơn (27,0%) mắc SSTT cao hơn nhóm có thu nhập cao hơn (12,7%)[4]. Tiền sử bệnh và SSTT: Tiền sử tăng huyết áp, bệnh tim, đái tháo đường: Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ SSTT giữa nhóm có tiền sử tăng huyết áp (7,4%) và nhóm không có tiền sử tăng huyết áp (6,9%) (p > 0,05); nhóm có tiền sử bệnh tim (6,5%) và nhóm không có tiền sử bệnh tim (7,3%) (p > 0,05); nhóm có tiền sử đái tháo đường (6,3%) và nhóm không có tiền sử đái tháo đường (7,2%) (p > 0,05). Kết quả cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Văn Tuấn tại Hà nội: tỷ lệ mắc SSTT ở nhóm có tiền sử tăng huyết áp và nhóm không có tiền sử tăng huyết áp chênh lệch không đáng kể[2]. Tiền sử rối loạn lipid máu: Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ SSTT giữa nhóm có tiền sử rối loạn lipid máu (3,4%) thấp hơn nhóm không có tiền sử rối loạn lipid máu (7,5%). Tuy vậy, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Tiền sử gia đình có người SSTT: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ SSTT giữa nhóm ngươi có tiền sử gia đình có người SSTT cao hơn nhóm không có tiền sử gia đình về SSTT (9,2% so với 7,1%). Tuy vậy sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả này có thể lý giải phần nào do hiện nay số người được khám và chẩn đoán SSTT còn rất ít nên có thể yếu tố tiền sử gia đình không khai thác được chính xác đầy đủ thông tin và làm cho sự khác biệt giữa 2 nhóm là không đáng kể, không có ý nghĩa thống kê. Tiền sử tai biến mạch máu não: Trong nghiên cứu, nhóm có tiền sử tai biến mạch máu não có tỷ lệ SSTT rất cao (25,6%) so với nhóm không có tai biến mạch máu não (6,1%) (p < 0,001). Nhiều nghiên cứu trước đây trên thế giới và Việt Nam đã cho thấy tai biến mạch máu não là yếu tố nguy cơ gây SSTT [1], [6], [7]. Thói quen hoạt động thể lực: nhóm có tập luyện thể lực có tỷ lệ SSTT (3,8%) thấp hơn hẳn nhóm không tập (13,5%) (p < 0,05 trong mô hình hồi qui đa biến). Kết quả này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác. Đối tượng có tập thường xuyên hàng tuần có tỷ lệ hiện mắc SSTT 2,7% thấp hơn nhóm không tập thường xuyên (7,1%) (p < 0,001). Thói quen uống rượu bia, hút thuốc lá và SSTT: Nhóm có uống rượu bia có tỷ lệ SSTT (4,3%) thấp hơn nhóm không uống rượu bia (7,3%). Tuy nhiên, sự khác biêt này không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê được tìm thấy về tỷ lệ SSTT của nhóm đối tượng hút thuốc lá (5,5%) và nhóm không hút thuốc lá (7,4%) (P > 0,05). Thói quen giải trí và SSTT: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm có các thói quen giải trí như xem tivi, chơi cờ, bài, có tỷ lệ SSTT thấp hơn nhóm không có thói quen này. Tuy vậy, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. BMI và SSTT: Nghiên cứu này cho thấy nhóm có BMI gầy có tỷ lệ SSTT cao nhất (13,3%), thấp nhất là nhóm thừa cân, béo phì (4,1%). Tuy vậy, sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Mô hình hồi qui đa biến logistic cho thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn,tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực. Tuổi càng cao thì nguy cơ SSTT càng lớn. Về tình trạng hôn nhân, người ở tình trạng hôn nhân không thuận lợi (chưa kết hôn, ly dị/ly thân, góa) có nguy cơ mắc SSTT cao gấp 1,8 lần so với người ở tình trạng kết hôn. Về nghề nghiệp, đối tượng nghề nội trợ có nguy cơ mắc SSTT cao gấp 3,2 lần, và nghề khác (ngoài nghề buôn bán, công nhân, nghề nông, ngư nghiệp, nội trợ) có nguy cơ mắc SSTT cao gấp 5,5 lần so với đối tượng nghề cán bộ, viên chức. Về trình độ học vấn, đối tượng mù chữ có nguy cơ SSTT cao gấp 3,0 lần so lới người có trình độ trung học cơ sở trở lên. Về thói quen hoạt động thể lực, người không có thói quen hoạt động thể lực có nguy cơ cao gấp 1,7 lần so với người có thói quen hoạt động thể lực. Người có tiền sử tai biến mạch máu não có nguy cơ cao gấp 6,3 lần so với người không có tiền sử tai biến mạch máu não. V. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Tỷ lệ hiện mắc SSTT ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định: Tỷ lệ hiện mắc SSTT chung là 7,1%, tỷ lệ hiện mắc SSTT ở nam là 4,9%; ở nữ là 8,5%. Tỷ lệ hiện mắc SSTT theo tuổi: 65-69: 2,3%;70-74: 4,9%; 75-79: 6,8%; 80-84:10,3%; 85-89: 15,5%; 90+: 28,4%. Tuổi mắc bệnh trung bình: 76,5. Triệu chứng đầu tiên: Suy giảm trí nhớ (96,4%). Chỉ có 11,9% bệnh nhân từng được chẩn đoán SSTT; trong đó 60% bệnh nhân không được điều trị. Một số yếu tố liên quan đến SSTT ở đối tượng nghiên cứu: Mô hình hồi qui đa biến logistic cho thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn,tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực. Nguy cơ mắc SSTT gia tăng rõ rệt theo sự gia tăng của tuổi; tình trạng hôn nhân li dị, li thân, góa, độc thân; nghề nghiệp nội trợ; trình độ học SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 147 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE vấn thấp (mù chữ); người có tiền sử tai biến mạch máu não; không có thói quen hoạt động thể lực. Kiến nghị: Cần có sự quan tâm của cả người dân và cán bộ y tế đến sa sút trí tuệ nhằm phát hiện sớm, điều trị phù hợp cải thiện cuộc sống. Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe. Các nhà khoa học cần có nghiên cứu sâu, rộng hơn để đánh giá toàn diện về đặc điểm dịch tễ học SSTT ở người Việt Nam, làm cơ sở cho đầu tư thích đáng đối với hoạt động phòng bệnh và chẩn đoán sớm, chăm sóc, điều trị người bệnh. Nhà nước có chính sách phù hợp để đẩy mạnh các nghiên cứu tầm quốc gia về SSTT ở Việt Nam, nghiên cứu sâu hơn về bệnh học, phân nhóm bệnh học của người Việt Nam, có định hướng, kinh phí phù hợp cải thiện cuộc sống người cao tuổi nói chung và người bị SSTT nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Đoàn Vương Diễm Khánh (2014), Nghiên cứu tỷ lệ sa sút trí tuệ và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành phố Huế, Việt Nam, Viện Nghiên cứu Sức khỏe Cộng đồng, Trường Đại học Y Dược Huế. 2. Lê Văn Tuấn (2014), Tóm tắt luận án tiến sĩ y học: Đặc điểm dịch tễ học sa sút trí tuệ người cao tuổi tại hai quận, huyện Hà Nội, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. 3. Maëlenn Guerchet, Pascal M’belesso, Alain M. Mouanga và các cộng sự. (2010), "Prevalence of Dementia in Elderly Living in Two Cities of Central Africa: The EDAC Survey", Dementia and Geriatric Cognitive Disorders. 30, pp. 261-268. 4. Pembe Keskinoglu, Hatice Giray, Metin Pıcakcıefe et al. (2006), "The prevalence and risk factors of dementia in the elderly population in a low socio-economic region of Izmir, Turkey", Archives of Gerontology and Geriatrics. 43, pp. 93-100. 5. Martin Prince, Renata Bryce và Cleusa Ferri (2011), World Alzheimer Report 2011: The benefits of early diagnosis and intervention, Alzheimer’s Disease International. 6. Zhihong Shi và Wei Yue Ying Zhang, Mengyuan Liu, Ya Ruth Huo, Shuling Liu, Shuai Liu, Lei Xiang, Ping Liu, Hui Lu, Jinhuan Wang, Yong Ji (2013), "Prevalence and Clinical Predictors of Cognitive Impairment in Individuals Aged 80 Years and Older in Rural China", Dementia and Geriatric Cognitive Disorders. 36, pp. 171-178. 7. Chong-Juan Wei và Y. Zhang Y. Cheng, F. Sun, W. S. Zhang, M. Y. Zhang (2014), "Risk factors for dementia in highly educated elderly people in Tianjin, China", Clinical Neurology and Neurosurgery. 122, pp. 4-8. 8. WHO (1993), "The ICD-10 classification of mental and behavioural disorders: diagnostic criteria for research". 9. WHO (2012), Dementia: a public health priority, World Health Organization, 6-10.
File đính kèm:
- ty_le_sa_sut_tri_tue_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_cao_tuo.pdf