Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh

Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng có nhiều sản vật đặc trưng của văn hóa nông nghiệp lúa nước. Trong số sản vật đó, có những loại vượt trội hơn về chất lượng đã trở thành đặc sản. Nó mang đậm dấu ấn, hương vị của vùng miền, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào của người dân về quê hương mình. Nhiều sản vật của ngành nông nghiệp xứ Thanh đã đi vào tục ngữ, ca dao người Việt góp phần tạo nên một nét

đặc trưng của thể loại văn học này.

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 1

Trang 1

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 2

Trang 2

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 3

Trang 3

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 4

Trang 4

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 5

Trang 5

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 6

Trang 6

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 7

Trang 7

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 8

Trang 8

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 08/01/2024 4000
Bạn đang xem tài liệu "Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh

Tục ngữ, ca dao cổ truyền người Việt về đặc sản xứ Thanh
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
95 
TỤC NGỮ, CA DAO CỔ TRUYỀN NGƢỜI VIỆT 
VỀ ĐẶC SẢN XỨ THANH 
Nguyễn Thị Quế1 
TÓM TẮT 
Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng có nhiều sản vật đặc trưng của văn 
hóa nông nghiệp lúa nước. Trong số sản vật đó, có những loại vượt trội hơn về chất 
lượng đã trở thành đặc sản. Nó mang đậm dấu ấn, hương vị của vùng miền, đồng thời 
cũng thể hiện niềm tự hào của người dân về quê hương mình. Nhiều sản vật của ngành 
nông nghiệp xứ Thanh đã đi vào tục ngữ, ca dao người Việt góp phần tạo nên một nét 
đặc trưng của thể loại văn học này. 
Từ khóa: Tục ngữ, ca dao, đặc sản, xứ Thanh 
1. MỞ ĐẦU 
Ca dao thƣờng phản ánh nội tâm, tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời; còn tục ngữ 
phản ánh những kinh nghiệm của nhân dân lao động đúc rút trong quá trình sản xuất, 
ứng xử xã hội Bên cạnh đó, cả hai thể loại này cũng phản ánh những sản vật của các 
miền quê khác nhau trong cả nƣớc. Sản vật nông nghiệp của vùng đất xứ Thanh đã đi 
vào tục ngữ, ca dao với mật độ khá đậm đặc, đáng chú ý là sản phẩm ƣu trội đƣợc gọi 
là đặc sản; trong đó có nhiều loại đặc sản tiến vua. Điều này vừa thể hiện niềm tự hào 
của ngƣời dân về sản phẩm quê hƣơng mình vừa thể hiện nét riêng của tục ngữ, ca dao 
cổ truyền ngƣời Việt trên bình diện phản ánh đặc sản xứ Thanh. 
2. NỘI DUNG 
Mỗi sản phẩm từ một miền quê, trƣớc khi trở thành đặc sản nó là sản vật. Trong 
quá trình lƣu truyền một số sản phẩm mang tính đặc thù hoặc có nhiều điểm đặc biệt, 
riêng có mà xuất xứ từ những vùng, miền, địa phƣơng và tạo nên những nét đặc trƣng 
của một vùng, miền hay một địa phƣơng nào đó. Khái niệm đặc sản cũng không nhất 
thiết chỉ về những sản phẩm, sản vật đƣợc ra đời đầu tiên tại vùng, miền hay địa 
phƣơng nhƣng nó mang tính chất thông dụng, phổ biến tại địa phƣơng hay có chất 
lƣợng cao hơn hẳn những sản phẩm cùng loại và đƣợc nhân dân địa phƣơng coi nhƣ 
sản phẩm truyền thống của địa phƣơng mình [9]. Đặc sản Thanh Hóa khá phong phú 
về nguồn gốc thực vật (cây trồng) và nguồn gốc động vật, có khi còn ở dạng thô, tự 
nhiên, có khi đã qua chế biến ra thành phẩm. Những đặc sản ấy đã đƣợc phản ánh qua 
tục ngữ, ca dao một cách phổ biến. 
1
 ThS. Giảng viên khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
96 
2.1. Tục ngữ, ca dao cổ truyền ngƣời Việt về đặc sản có nguồn gốc từ thực vật 
Các sản vật đặc biệt có nguồn gốc từ thực vật (cây trồng) đã xuất hiện trong tục 
ngữ, ca dao ngƣời Việt; những đặc sản ấy có thể quen thuộc ở nhiều vùng, nhƣng ở 
Thanh Hóa có điểm nổi bật là tất cả đều dùng để tiến vua, nhƣ: mía Đƣờng Trèo, chuối 
ngự, quế ngọc châu Thƣờng (đặc biệt là loại quế bạch), bánh gai 
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các câu ca dao, tục ngữ nhắc đến mía tuy 
không nhiều nhƣng lại mang đậm màu sắc Thanh Hóa và nổi bật về chất lƣợng so 
với các sản vật khác của địa phƣơng. Các đặc sản này đƣợc phản ánh qua tục ngữ, 
ca dao dƣới hai dạng: trực tiếp và gián tiếp. Để phản ánh sự xuất hiện một cách trực 
tiếp, ca dao tục ngữ đã gắn các đặc sản với địa danh từng vùng, địa phƣơng: Mía 
Triệu Tƣờng ở xã Hà Long, huyện Hà Trung, mía Kim Tân ở Thạch Thành, mía 
đƣờng ở Thọ Xuân; cây quế ở Chính Sơn huyện Thƣờng Xuân Những câu ca 
dao tục ngữ này xuất phát từ các giai thoại văn hóa và lịch sử về sản vật mía của 
vùng đất này. Những giai thoại đó đƣợc các cụ cao niên kể lại nhƣ sau:  Cây mía 
Kim Tân (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) có từ lâu đời. Tương truyền vua 
Quang Trung rất thích ăn loại mía này. Mùa Xuân năm 1789, khi chiêu mộ quân sĩ, 
voi chiến, ngựa chiến ở vùng Tam Điệp - Bỉm Sơn (Thanh Hóa) vua cho quân lính 
về đây ăn mía Kim Tân. Đại phá 29 vạn quân Mãn Thanh thành công, vua đã có 
chiếu dụ tổ chức hội Mía tại Phố Cát (thị trấn Kim Tân, huyện Thạch Thành bây 
giờ). Đến thời nhà Nguyễn, năm nào địa phương cũng cắt cử người thành lập đoàn 
xe ngựa bứng từng bụi mía để chở vào kinh thành Huế tiến vua[10]. Hoặc là: Xưa 
kia vua Quang Trung đi đánh giặc Thanh đi qua vùng đất này và cho quân lính 
nghỉ ngơi ở đây. Mọi người lấy mía ra thiết đãi. Nhà vua ăn thì thấy mía rất thơm 
ngon. Ông đã hỏi người dân vùng đất này có tên là gì mà ăn mía ngon như vậy. 
Dân chúng nói nơi đây có tên là Kim Tân, vì thế nhà vua lấy tên đặt cho cây mía. 
Nhà vua căn dặn người dân cố gắng duy trì cây mía này [10]. Cũng trong chiến 
dịch này, vua Quang Trung đã chọn vùng đất Gia Miêu - Yên Vĩ (Triệu Tường) là 
điểm cho thế đóng quân liên hoàn vùng đất Tống Sơn (Hà Trung). Tại đây, vua đã 
thưởng thức loại mía thân mềm mà đốt mía, mắt mía cũng mềm, có thể dùng tay 
cũng bẻ thành từng đoạn ngắn, chứ không phải dùng dao. Mía ở đây cũng được 
dùng tiến vua [10]. Nhờ những câu chuyện trên, nên khi nhắc tên các địa danh này 
ngƣời ta nghĩ ngay đến các câu ca dao tục ngữ nói về đặc sản mía cùng những đặc 
sản khác của địa phƣơng và ngƣợc lại: 
 - Đồn rằng Án Đổ lắm chè 
Tống Sơn lắm mía, chợ Nghè lắm k ... ƣng nổi tiếng nhất là ở Thƣờng Xuân đƣợc mệnh 
danh là Quế ngọc châu Thƣờng; đặc biệt ở Chính Sơn thuộc xã Vạn Xuân có nhiều 
quế tốt. Quế ở Thƣờng Xuân đƣợc coi là quế ngọc rất quý đặc biệt là quế bạch khi 
pha có nƣớc màu trắng nhƣ sữa. Quế ở Thƣờng Xuân đã đƣợc dâng cho vua triều 
Nguyễn để chữa bệnh cho Thái hậu khỏi đau mắt. Xƣa kia, ngƣời đi buôn quế chỉ 
cần có trong tay một khoanh quế bạch thì đã giá trị tới 10 lạng vàng. Ngày nay, quế 
còn là loại gia vị không thể thiếu trong những món ăn hấp dẫn. Tục ngữ còn lƣu 
truyền giá trị của quế xứ Thanh: 
 - Nem xứ Huế, quế xứ Thanh [4; tr 1950] 
 - Quạt Lưu Vệ, quế Chính Sơn [4; tr 2277] 
Từ tục ngữ, ta có thể nhận thấy, cây quế trƣớc hết là đặc sản của Việt Nam vì 
nhiều vùng trồng quế, nhƣng nổi tiếng nhất là quế xứ Thanh và hảo hạng nhất quế 
Thanh lại là quế đƣợc trồng ở Chính Sơn. Đó chính là niềm tự hào của đặc sản quế 
Thanh đƣợc phản ánh qua tục ngữ. 
Bên cạnh cách phản ánh trực tiếp các đặc sản gắn với địa danh từng địa phƣơng 
giúp chúng ta hình dung rõ đƣợc mối quan hệ giữa ca dao, tục ngữ với yếu tố địa lý; ca 
dao tục ngữ xứ Thanh còn có cách phản ánh gián tiếp bằng cách mƣợn các đặc sản ấy 
để so sánh với tình yêu đẹp của các đôi trai tài, gái sắc đang hẹn hò: 
- Thiếp như mía tiến vừa tơ 
 Chàng như chuối ngự còn chờ đợi ai? [3; tr 2062] 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
98 
- Vỏ quế ăn với trầu cay 
 Đôi ta thấp thoáng đợi ngày xe duyên [3; tr 1003] 
- Đố em đi đến sông Ngân 
Bắt con vịt nước đang ăn giữa trời 
Đố anh đi đến chân trời 
 Bẻ hoa quế đỏ ghẹo người cung trăng [3; tr 850] 
hoặc mƣợn các đặc sản ấy để so sánh với sự thủy chung, son sắt của các đôi vợ chồng, 
đó là tình yêu vĩnh cửu mà họ dành cho nhau trong cuộc đời mình: 
- Anh với em như mía với gừng 
 Gừng cay, mía ngọt, ngát lừng mùi hương [3; tr177] 
- Đôi ta như quế trong ngăn 
 Mở ra thơm ngát băn khoăn dạ sầu [3; tr 866] 
cũng có khi đó là những lời than thân, trách phận của những cô gái kém may mắn 
trong cuộc sống: 
- Đấy còn không, đây cũng còn không 
Đấy kén vợ đẹp, đây cầu chồng mau 
Chuộng chuối, chuối lại cao tàu 
 Thương anh, anh lại ra màu cho cao [3, tr 752] 
- Em như cây quế giữa đồng 
Để cho cú đậu cực lòng quế thay 
Bao giờ cho cú nó bay 
 Tiên ngồi gốc quế, quế nay bằng lòng [3; tr 965] 
- Em như cây quế giữa rừng 
Thơm gốc, thơm ngọn giữa chừng có thơm? 
Em như cây quế nhà quan 
 Kẻ thì ngắt ngọn, kẻ toan bẻ cành [3; tr 965] 
Từ chỗ gắn các đặc sản với vùng đất sinh ra nó đến cách mƣợn các đặc sản đển 
so sánh với chủ thể trữ tình để bộc lộ những triết lý, lời khuyên chân thành cho mọi 
ngƣời trong cuộc sống đã tạo nên một sức lan tỏa của sản vật cũng nhƣ phƣơng tiện 
chuyên chở chúng là ca dao, tục ngữ. Đây chính là cách phản ánh sản vật một cách độc 
đáo của tục ngữ, ca dao ngƣời Việt. 
Tục ngữ không chỉ phản ánh các đặc sản từ tự nhiên, mà còn lƣu truyền những 
đặc sản Thanh Hóa đã qua chế biến với hƣơng vị đặc biệt, ấn tƣợng với thực khách: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
99 
Chè Lam Phủ Quảng (Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ, bánh răng bừa (Thọ Xuân), rƣợu 
làng Quảng (Quảng Xƣơng), rƣợu Chi Nê (Hậu Lộc) 
Có thể khẳng định, những loại đặc sản đã qua bàn tay lao động cần cù chế biến 
có sự kết tụ tinh hoa từ các sản vật bình dị mà độc đáo. Từ thành phố Thanh Hóa, theo 
quốc lộ 45 về phía Tây, dừng chân ở thành Tây Đô (Vĩnh Lộc), mọi ngƣời có thể nhấm 
nháp loại kẹo thơm ngon có vị ngọt, thơm đặc trƣng của bột nếp cái và mật mía, vị bùi 
của lạc rang, vị thơm cay nhẹ của gừng. Sản phẩm này là chè lam Phủ Quảng - đặc sản 
xứ Thanh. Công đoạn chế biến chè lam Phủ Quảng cần sự tỉ mỉ, bền bỉ, khéo léo của 
đôi tay ngƣời nấu chè. Nguyên liệu chính làm loại chè này phải là nếp cái hoa vàng, 
xay nhỏ mịn luyện với mật mía, đƣờng, lạc rang và một chút gừng. Khi sản phẩm đƣợc 
nấu chín, không quá lửa, khi có màu vàng mật ong thì cho ra khuôn rồi dát mỏng, cắt 
thành thanh nhỏ nhƣ ngón tay. Chờ khi nguội sẽ giòn tan, lúc đó thƣởng thức với nƣớc 
chè xanh nóng thì rất tuyệt. Loại chè này có nguồn gốc từ các loại cây trong vùng, do 
ngƣời dân Vĩnh Lộc làm ra và đã theo chân các thực khách đi đến nhiều nơi trong 
nƣớc. Vì vậy, tục ngữ đã lƣu truyền: 
Vàng mã làng Giàng, chè lam Phủ Quảng [4; tr 2838] 
Khi đến Tây kinh của triều Lê, ngƣời ta không thể bỏ qua món bánh tiến vua: 
Bánh gai Tứ Trụ. Loại bánh này có độ dẻo mịn của bột nếp cái hoa vàng, mùi thơm 
đặc trƣng của lá chuối khô, quyện với vị dịu mát của lá gai, gạo nếp, mật mía, thêm vị 
ngọt thanh của đậu xanh, bùi bùi của cùi dừa khô, vị thơm của những hạt vừng rắc bên 
ngoài bánh Từ những nguyên liệu mộc mặc sẵn có trong tự nhiên qua sự cần mẫn, 
sáng tạo của con ngƣời, bánh gai Tứ Trụ đã đi vào đời sống và trở thành nét văn hóa 
đặc trƣng của tỉnh Thanh. Vào những dịp lễ trọng hay ngày giỗ Lê Lai, Lê Lợi, bánh 
gai lại đƣợc dâng lên bàn thờ nhƣ niềm tự hào của hƣơng vị quê nhà. Vì vậy, về với 
Lam Kinh (Thọ Xuân), ngƣời ta không thể không thƣởng thức bánh gai và vang vọng 
trong tâm thức dân gian câu tục ngữ: Bánh gai Tứ Trụ hay Bánh gai làng Mía [12]. 
Thông qua tục ngữ, ca dao, chúng ta đã có thể phần nào cảm nhận đƣợc sự phong 
phú, đa dạng của các đặc sản quê Thanh có nguồn gốc từ cây trồng. Các đặc sản ấy dù 
đã qua chế biến hay từ thiên nhiên đều có hƣơng vị rất riêng, rất quý. Chất quý giá ấy 
đã đƣợc ca dao, tục ngữ ghi dấu, lƣu truyền nhƣ một phƣơng thức bảo tồn. Đồng thời, 
nó cũng thể hiện niềm tự hào của ngƣời dân nơi đây khi nhắc đến các địa danh và sản 
vật đặc biệt của quê hƣơng mình. Không chỉ vậy, tục ngữ ca dao đã chuyển tải, bảo tồn 
các sản vật ấy từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ để quảng 
bá và nâng cao giá trị sản vật một cách độc đáo. 
2.2. Tục ngữ, ca dao cổ truyền ngƣời Việt về đặc sản có nguồn gốc từ động vật 
Sự đa dạng về địa đồi núi, đồng bằng và miền biển đã tạo nên sự phong phú của 
sản vật xứ Thanh. Ngoài các sản phẩm trên cạn có nguồn gốc từ thực vật, các đặc sản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
100 
có nguồn gốc từ động vật mà chủ yếu là thủy, hải sản cũng đƣợc ca dao, tục ngữ lƣu 
truyền nhiều, nhƣ: phi (Hoằng Hóa), hến (làng Giàng), cá mè sông Mực (Nông Cống), 
nƣớc mắm (Do Xuyên, Ba Làng ở Tĩnh Gia), nƣớc mắm tép (Hà Yên), vịt (Cổ Lũng), 
gỏi nhệch (Nga Sơn), lƣơn bung củ chuối (Hà Trung) 
Trƣớc hết, trong số các đặc sản nêu trên, ca dao tục ngữ đã quảng bá các sản 
phẩm tự nhiên nhƣ: phi cầu Sài, hến Giàng, cá mè sông Mực... mặc dù rất dân dã 
nhƣng lại đƣợc chọn là đặc sản tiến vua. Theo các cụ ngày xƣa truyền lại, khoảng 
thế kỷ XVI, bà Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Minh Thụy (ngƣời xã Văn Lộc, Hậu 
Lộc) là vợ vua Lê Trung Tông, đã giúp dân trùng tu cầu và chợ Phủ. Nhân dân nhớ 
ơn liền dâng lên bà món ngon của quê hƣơng. Phi tiến vua là loài phi sống ở cầu 
Sài, đoạn chảy qua sông Trà nối hai xã Thuần Lộc (Hậu Lộc) và Hoằng Xuyên 
(Hoằng Hóa). Vùng này nƣớc lợ là môi trƣờng tốt cho con phi (giống con trai) sinh 
sống. Canh phi ăn vào mùa hè rất ngon, ngọt mát, nên ngƣời ta thƣờng nói dù bận 
đến mức nào thì vẫn phải đi chợ Nhàng để mua phi, hoặc lắng tai nghe tiếng rao “Ai 
phi!” để mua cho bằng đƣợc: 
- Chợ Nhàng lắm bún nhiều phi 
 Trăm công nghìn việc cũng đi chợ Nhàng [3; tr 656] 
- Em là con gái Phụng Đình 
 Ngày ngày dạo khắp tỉnh thành: “Ai phi?” [3; tr 955] 
Cùng với phi là hến - một loài nhuyễn thể thuộc lớp hai mảnh, có vị gần giống 
nhau, phi sống ở nƣớc lợ còn hến sống ở nƣớc ngọt, nhƣng ngon hơn là hến sông và 
đặc biệt là hến sông Chu, sông Mã trên địa phận ngã ba sông làng Giàng. Làng Giàng 
xƣa là làng Dƣơng Xá thuộc xã Thiệu Dƣơng, huyện Thiệu Hóa (nay thuộc thành phố 
Thanh Hóa) là quê hƣơng của Dƣơng Đình Nghệ, có loại hến vỏ xanh, con to, khi luộc 
có nƣớc trắng đục nhƣ màu nƣớc gạo nếp, ăn rất ngon. Ngƣời ta có thể nấu canh, xào 
miến Xƣa kia, loại hến này cũng đƣợc chọn để tiến vua. Đến nay, ngƣời dân trong 
vùng vẫn tự hào truyền nhau câu tục ngữ: 
- Hến Thiệu Dương, tương Chí Cẩn [12] 
 - Hến Giàng nấu với mồng tơi 
 Ai muốn sung sướng về nơi đất này [12] 
Hay khoe vui với nghề “cào hến, buôn phi” quê mình qua lời tỏ tình cùng cô gái 
của chàng trai trong bài ca dao vùng Hoằng Hóa: 
- Hỡi cô mà thắt lưng xanh 
Có về Đồng Ích với anh thì về 
Đồng Ích lắm việc nhiều nghề 
Một nghề cào hến, hai nghề buôn phi [3; tr 1135] 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
101 
 Đặc sản Thanh Hóa còn nhiều loại khác đƣợc phản ánh trong ca dao: 
Nhớ phiên chợ Bản anh đi 
Thiếu gì heo ỉ, thiếu gì bò trâu 
Dê tầm thường chả thiếu đâu 
Muốn tìm dê tốt anh phải xuống cầu Mật Sơn 
Vịt bầu anh biết đâu hơn 
Anh lên Trạc Nhật, hỏi thăm đàn vịt to 
Chợ Môi có giống gà cồ 
Có con gà chọi cộc lồ anh cũng mua luôn 
Cá mè sông Mực ngon thậm là ngon 
Anh vào Nông Cống chuốc lấy trăm con mè 
Cửa Trào, cửa Vích tôm he 
Anh ra ngoài bể mua về cho sang 
Lại mua thêm nước mắm Ba Làng 
 Dưa Gia, cà Hạc lẫn măng giang Thạch Thành [3; tr 1671] 
Có rất nhiều sản vật đƣợc gọi tên trong bài ca dao trên, tuy nhiên chúng ta có thể 
chọn ra những sản vật chất lƣợng cao: Dê núi, vịt bầu, cá mè sông Mực, tôm he cửa 
Vích, cửa Trào, nƣớc mắm Đến Thanh Hóa, nhiều du khách muốn đƣợc thƣởng thức 
món dê ủ trấu, vịt nƣớng, tôm hấp mới thỏa nguyện. 
Tục ngữ, ca dao còn lƣu truyền loại đặc sản của miền biển xứ Thanh là nƣớc 
mắm. Nƣớc mắm Do Xuyên, nƣớc mắm Ba Làng là sản phẩm đặc biệt ở vùng Tĩnh 
Gia làm ra. Nƣớc mắm đƣợc chiết xuất từ nƣớc cốt của cá cơm đƣợc ủ hàng năm trời. 
Khi chín mềm tự chiết thành từng giọt nƣớc màu trắng ngà mang vị mặn mòi của muối 
biển, vị ngọt của cá - vị đặc trƣng của miền biển Tĩnh Gia. Nƣớc mắm ngon, đậm đà 
đến mức ngƣời ta ví ăn thịt cá mè ở hồ sông Mực (to tới hàng chục ki lô gam, thịt trắng 
nhƣ thịt gà, thớ thịt to, dai, không tanh, vị béo ngậy) nếu chấm với các loại nƣớc mắm 
nói trên thì “đến ngƣời chết rồi vẫn còn muốn từ âm phủ về mút xƣơng”: 
Cá Mè sông Mực chấm với nước mắm Do Xuyên, 
 Chết xuống âm phủ còn muốn trở viền mút xương [4, tr 343] 
Trong văn hóa ẩm thực, cha ông ta cũng từng trao kinh nghiệm về sự quân bình 
âm dƣơng, đặc biệt khi chế biến món ăn. Món lƣơn bung (om) củ chuối hột non là đặc 
sản cầu kì của Hà Trung, Thanh Hóa: Lƣơn ngon phải chọn vào tháng tám âm lịch (béo 
vàng ngậy) làm thịt sống, bỏ xƣơng, cuộn tròn bọc lấy củ chuối hột non đã đƣợc làm 
hết chát, thái chỉ, rồi buộc lá hành tƣơi ở ngoài cho thịt ba chỉ, mẻ và các gia vị: sả, ớt, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
102 
hành, nghệ tƣơi vào om mềm. Khi chín bắc ra cho thêm các loại rau nhƣ: rau ngổ, 
rau răm, tía tô, mùi tàu, hành tƣơi thái nhỏ và thƣởng thức nồi lƣơn om nghi ngút hơi, 
ta sẽ cảm nhận đƣợc vị béo ngậy của thịt ba chỉ, ngọt của lƣơn, vị chua thanh của mẻ 
lẫn mùi của các loại gia vị. Đó là món ăn rất cầu kỳ nhƣng cũng rất dân dã chỉ bằng các 
nguyên liệu sẵn có xung quanh ta. Sự hấp dẫn của món ăn đã đƣợc ca dao ghi lại nhƣ 
dấu ấn khó phai trong lòng ngƣời khi đƣợc thƣởng thức món ăn này: 
- Cá rô quyện với nồi rang 
Cũng như củ chuối, lươn vàng quyện nhau [11] 
hay: 
- Đang cơn binh địa ba đào 
 Ai đem củ chuối mà ngào với lươn [11] 
Mỗi món ăn đều ẩn chứa tình quê, hƣơng vị quê nhà của từng miền khác nhau. 
Đó chính là một phần hồn cốt của xứ Thanh đã gửi vào các đặc sản và phong tỏa nhờ 
tục ngữ, ca dao nhƣ mối duyên thầm. 
3. KẾT LUẬN 
Tục ngữ, ca dao cổ truyền ngƣời Việt về đặc sản Thanh Hóa mặc dù có sự 
phản ánh không đồng đều giữa các đặc sản phân bố trên địa bàn khác nhau nhƣng 
đã góp phần cho chúng ta nhận biết diện mạo các đặc sản trên mảnh đất quê Thanh. 
Bằng cách phản ánh trực tiếp gắn với địa danh sản sinh ra các đặc sản, hai thể loại 
trên đã giúp mọi ngƣời hiểu thêm về mối quan hệ giữa điều kiện tự nhiên môi 
trƣờng với văn hóa địa phƣơng. Không dừng lại ở đó, tục ngữ, ca dao mƣợn các đặc 
sản để bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm giữa con ngƣời với con ngƣời và làm tăng thêm 
giá trị của sản phẩm nông nghiệp gắn với cuộc sống cƣ dân các vùng theo truyền 
thống văn hóa nông nghiệp lúa nƣớc. Nếu sản phẩm đặc biệt có nguồn gốc từ cây 
trồng thiên về tự nhiên và quà bánh thì các đặc sản có nguồn gốc động vật lại thiên 
về chế biến, món ẩm thực chính trong các bữa ăn, đặc biệt là thủy, hải sản, gia v ị  
Nhƣ vậy, chúng ta đã thấy đƣợc sự phong phú, đa dạng trong văn hóa ẩm thực của 
ngƣời Thanh Hóa với các đặc sản là đối tƣợng chính đƣợc phản ánh qua ca dao, tục 
ngữ ngƣời Việt ở đây. Đáng chú ý hơn, đặc sản của xứ Thanh xét trên cả hai nguồn 
gốc ấy dù mộc mạc, dân dã hay cầu kỳ lại vẫn đƣợc chọn làm đặc sản tiến vua. Đây 
chính là lí do khiến cho chất lƣợng các đặc sản luôn đƣợc gìn giữ, phát huy. Những 
câu tục ngữ, ca dao phản ánh các đặc sản nổi tiếng của xứ Thanh có thể xem nhƣ 
cẩm nang lƣu giữ các giá trị văn hóa ẩm thực tỉnh Thanh. Từ đó, góp phần gìn giữ, 
phát huy các đặc sản, bảo tồn các món ăn, hƣơng vị truyền thống, là dấu ấn chỉ dẫn 
nơi sản sinh và phát triển văn hóa làng nghề, là niềm tự hào của ngƣời dân xứ 
Thanh. Đó cũng là sự độc đáo của tục ngữ, ca dao trong việc phản ánh đặc sản của 
vùng đất “thang mộc” “quý hƣơng”. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
103 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Phan Kế Bính (2008), Việt Nam phong tục, Nxb. Văn học, Hà Nội. 
[2] Vũ Quang Dũng (2006), Địa danh Việt Nam trong tục ngữ, ca dao, Nxb. Từ 
điển Bách khoa, Hà Nội. 
[3] Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (1995) đồng chủ biên, Kho tàng ca dao 
người Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[4] Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, (2 tập), 
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
[5] Lê Tuấn Lộc (chủ biên) (2014), Minh Hiệu tuyển tập, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội 
[6] Phạm Tấn - Phạm Tuấn - Hoàng Tuấn Phổ (2005), Địa chí huyện Thọ Xuân, 
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[7] Hoàng Tuấn Phổ (2010), Địa chí huyện Quảng Xương, Nxb. Từ điển Bách 
Khoa, Hà Nội. 
[8] Nhiều tác giả, Địa chí Thanh Hóa (2004), tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội. 
[9]  
=263:c-sn-nam-b-qua-ca-dao-tc-ng-&Itemid=122 bài Đặc sản Nam Bộ qua ca dao 
[10]  
[11] 
2948219.html 
[12] Tài liệu tác giả bài viết điền dã, sƣu tầm. 
PROVERB, FOLK SONGS ABOUT THE VIETNAMESE 
TRADITIONAL SPECIALTIES THANH HOA PROVINCE 
Nguyen Thi Que 
ABSTRACT 
Vietnam in general and Thanh Hoa Province in particular have many typical 
agricultural products of rice. Among those products, there are some becoming 
specialties due to the outstanding quality. They are characterized by the regional taste 
and flavour and also express the people’s pride of their land. Many Thanh Hoa 
agricultural specialties have been taken for granted to be mentioned in Vietnamese 
proverbs and folks contributing to one reflect in the growth of this certain 
characteristic literary. 
Key word: Proverb, folk songs, specialties, Thanh Hoa province 

File đính kèm:

  • pdftuc_ngu_ca_dao_co_truyen_nguoi_viet_ve_dac_san_xu_thanh.pdf