Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam

Maggetti và cs (2014) [1] cho rằng, tự chủ là khả năng biến

sở thích thành hành động theo thẩm quyền của chính họ mà

không có ràng buộc bên ngoài. Khái niệm tự chủ của Christensen

(2001) [2] liên quan đến sự suy giảm mức độ kiểm soát của

đơn vị chủ quản đến các hoạt động của các tổ chức thành viên.

Verhoest và cs (2004) [3] đưa ra khái niệm tự chủ toàn diện hơn

từ hai quan điểm: nâng cao năng lực ra quyết định của cơ quan

và việc miễn trừ các ràng buộc của cấp trên đối với năng lực ra

quyết định của cơ quan này. Nhóm tác giả phân tích các khía

cạnh khác nhau của quyền tự chủ, bao gồm quản lý, chính sách,

cơ cấu, tài chính, pháp lý và sự can thiệp [3]. Qua đó, có thể thấy

rằng, tự chủ được định nghĩa là năng lực tự ra quyết định về các

hoạt động của tổ chức mà không phụ thuộc vào bất kỳ một cơ

quan nào khác, kể cả nhà nước.

Ở Việt Nam, các khía cạnh của cơ chế tự chủ được thể hiện

cụ thể trong các thông tư, nghị định có liên quan. Nghị định

16/2015/NĐ-CP [4] có quy định rõ các khía cạnh của tự chủ

trong các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: i) Tự chủ về thực

hiện nhiệm vụ; ii) Tự chủ về bộ máy; iii) Tự chủ về nhân sự; iv)

Tự chủ về tài chính. Trong bài viết này, tác giả tiếp cận nội hàm

của tự chủ ở 4 khía cạnh: quản lý, chính sách, tổ chức bộ máy

và tài chính. Trong đó, tự chủ quản lý là năng lực kiểm soát các

nguồn lực trong tổ chức về các vấn đề nhân sự, tài chính, dịch vụ

của tổ chức. Tự chủ chính sách thể hiện mức độ tổ chức có thể

đưa ra quyết định về việc lựa chọn các nhóm mục tiêu cho chính

sách phát triển của tổ chức trong mối quan hệ ràng buộc về pháp

lý với cơ quan quản lý. Đồng thời, nó cũng thể hiện mức độ tổ

chức có thể đưa ra các quyết định về việc lựa chọn các công cụ

thực hiện các chính sách của tổ chức. Tự chủ tổ chức bộ máy là

năng lực quyết định về cơ cấu bộ máy quản lý của tổ chức, xây

dựng phương án sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của đơn vị.

Tự chủ tài chính được xem là mức độ độc lập với ngân sách nhà

nước, không phụ thuộc hoặc không phụ thuộc quá nhiều vào các

nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước.

Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 9160
Bạn đang xem tài liệu "Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam

Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam
6063(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đặt vấn đề
Maggetti và cs (2014) [1] cho rằng, tự chủ là khả năng biến 
sở thích thành hành động theo thẩm quyền của chính họ mà 
không có ràng buộc bên ngoài. Khái niệm tự chủ của Christensen 
(2001) [2] liên quan đến sự suy giảm mức độ kiểm soát của 
đơn vị chủ quản đến các hoạt động của các tổ chức thành viên. 
Verhoest và cs (2004) [3] đưa ra khái niệm tự chủ toàn diện hơn 
từ hai quan điểm: nâng cao năng lực ra quyết định của cơ quan 
và việc miễn trừ các ràng buộc của cấp trên đối với năng lực ra 
quyết định của cơ quan này. Nhóm tác giả phân tích các khía 
cạnh khác nhau của quyền tự chủ, bao gồm quản lý, chính sách, 
cơ cấu, tài chính, pháp lý và sự can thiệp [3]. Qua đó, có thể thấy 
rằng, tự chủ được định nghĩa là năng lực tự ra quyết định về các 
hoạt động của tổ chức mà không phụ thuộc vào bất kỳ một cơ 
quan nào khác, kể cả nhà nước. 
Ở Việt Nam, các khía cạnh của cơ chế tự chủ được thể hiện 
cụ thể trong các thông tư, nghị định có liên quan. Nghị định 
16/2015/NĐ-CP [4] có quy định rõ các khía cạnh của tự chủ 
trong các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: i) Tự chủ về thực 
hiện nhiệm vụ; ii) Tự chủ về bộ máy; iii) Tự chủ về nhân sự; iv) 
Tự chủ về tài chính. Trong bài viết này, tác giả tiếp cận nội hàm 
của tự chủ ở 4 khía cạnh: quản lý, chính sách, tổ chức bộ máy 
và tài chính. Trong đó, tự chủ quản lý là năng lực kiểm soát các 
nguồn lực trong tổ chức về các vấn đề nhân sự, tài chính, dịch vụ 
của tổ chức. Tự chủ chính sách thể hiện mức độ tổ chức có thể 
đưa ra quyết định về việc lựa chọn các nhóm mục tiêu cho chính 
Tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp 
khoa học và công nghệ ở Việt Nam
Nguyễn Đăng Dũng*
Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình
Ngày nhận bài 22/2/2021; ngày chuyển phản biện 26/2/2021; ngày nhận phản biện 2/4/2021; ngày chấp nhận đăng 7/4/2021
Tóm tắt:
Tự chủ là trạng thái thể hiện năng lực tự ra quyết định của một tổ chức. Tự chủ được tìm hiểu ở nhiều khía cạnh, 
nội dung khác nhau. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả đề cập vấn đề tự chủ của tổ chức qua các nội dung: quản 
lý, chính sách, tổ chức bộ máy và tài chính. Bằng việc nghiên cứu định lượng với 137 phiếu khảo sát tới lãnh đạo, 
cán bộ quản lý và nhân viên đang làm việc tại các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ (KH&CN), bài viết làm 
rõ thực trạng, mức độ tự chủ của các đơn vị này, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao 
tính tự chủ của các đơn vị sự nghiệp KH&CN ở nước ta.
Từ khóa: đơn vị sự nghiệp, khoa học và công nghệ, tự chủ tổ chức.
Chỉ số phân loại: 5.13
*Email: dangdungvip@gmail.com
Organizational autonomy 
in public science and technology 
non - business units in Vietnam
Dang Dung Nguyen*
Institute of Ecology and Works Protection 
Received 22 February 2021; accepted 7 April 2021
Abstract:
Organizational autonomy is a state that demonstrates 
an organization’s ability to make decisions on its own. 
Organizational autonomy is explored in many different 
aspects and contents. In the scope of this article, the author 
mentions organizational autonomy through the following 
contents: management autonomy, policy autonomy, 
structural autonomy, and financial autonomy. By doing 
quantitative research with 137 questionnaires to leaders, 
managers, and employees working in public science and 
technology non - business units, the article aims to clarify 
the assessment of reality status and degree of autonomy 
of public science and technology non - business units, 
thereby giving several recommendations to contribute to 
improving the autonomy of these units in Vietnam.
Keywords: non-business units, organizational autonomy, 
science and technology.
Classification number: 5.13
6163(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
sách phát triển của tổ chức trong mối quan hệ ràng buộc về pháp 
lý với cơ quan quản lý. Đồng thời, nó cũng thể hiện mức độ tổ 
chức có thể đưa ra các quyết định về việc lựa chọn các công cụ 
thực hiện các chính sách của tổ chức. Tự chủ tổ chức bộ máy là 
năng lực quyết định về cơ cấu bộ máy quản lý của tổ chức, xây 
dựng phương án sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của đơn vị. 
Tự chủ tài chính được xem là mức độ độc lập với ngân sách nhà 
nước, không phụ thuộc hoặc không phụ thuộc quá nhiều vào các 
nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước. 
Đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập có vai trò quan trọng 
trong phát triển KH&CN nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung. 
Các đơn vị sự nghiệp KH&CN có nhiệm vụ nghiên cứu khoa 
học, ứng dụng, triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm, 
phát triển công nghệ, sản xuất, kinh doanh sản phẩm là kết quả 
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, 
được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp 
luật. Những thành tựu đạt được của các đơn vị KH&CN có ý 
nghĩa to lớn và có giá trị thực tiễn cao. Trong những năm qua, 
các đơn vị sự nghiệp KH&CN đã tổ chức triển khai các cơ chế, 
chính sách, chủ trư ... n các công trình nghiên cứu trước 
cũng như cơ sở lý thuyết, tác giả đã tổng hợp các thước đo cho 
các biến số. Các thước đo này đã được kiểm định và sử dụng 
trong các nghiên cứu trước đây. Thang đo của các biến số chủ 
yếu được tác giả kế thừa và phát triển từ nghiên cứu của Verhoest 
và cs (2004) [3]. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng thang đo của Van 
De Walle (2018) [5], Bram Verschuere (2007) [6]. Để phù hợp 
với bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam cũng như các quy định 
hiện hành của Nhà nước, tác giả có tham khảo quy định tại Nghị 
định số 16/2015/NĐ-CP [4], Nghị định số 54/2016/NĐ-CP [7].
Hệ thống các biến số trong nghiên cứu này được đo lường 
thông qua các thước đo đã được sử dụng từ các nghiên cứu 
trước. Đối với các biến độc lập, phương pháp Likert được sử 
dụng, trong đó các biến quan sát sẽ được hỏi đối tượng được 
điều tra và trả lời trên thang điểm 5 theo nghiên cứu của Verhoest 
và cs (2004) [3], bao gồm từ (5) tự mình đưa ra các quyết định, 
cơ quan quản lý chỉ tham gia một chút, (4) tự mình đưa ra các 
quyết định, đã tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý, (3) tự đưa 
ra các quyết định trong một khung các quy tắc và điều kiện do 
cơ quan quản lý đặt ra, (2) cơ quan quản lý đưa ra quyết định, tổ 
chức được hỏi ý kiến, và (1) cơ quan quản lý đưa ra quyết định 
độc lập với tổ chức.
Kết quả nghiên cứu
Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả xây dựng 
bảng hỏi gửi đến các đơn vị sự nghiệp KH&CN. Bảng hỏi được 
thiết kế nhằm làm rõ mức độ tự chủ ở các khía cạnh: quản lý, cấu 
trúc, tổ chức bộ máy và tài chính thông qua đánh giá của lãnh 
đạo đơn vị, cán bộ quản lý và nhân viên.
6263(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Bảng 2. Thống kê mô tả các khía cạnh của tự chủ.
Nội dung 
tự chủ
N
Giá trị 
nhỏ nhất
Giá trị 
lớn nhất
Giá trị 
trung bình
Độ lệch
chuẩn
QL1 137 3,17 4,81 3,9921 0,52143
QL2 137 3,41 4,97 4,1935 0,46281
QL3 137 3,21 4,54 3,8836 0,78625
QL4 137 3,15 4,72 3,9354 0,28465
QL5 137 3,24 4,48 3,8607 0,74638
QL6 137 2,37 4,01 3,1926 0,39274
CS1 137 3,35 4,76 4,0558 0,42905
CS2 137 2,82 4,89 3,8551 0,33859
CS3 137 3,91 4,74 4,3253 0,43928
CS4 137 3,11 4,58 3,8450 0,48202
BM1 137 2,53 4,81 4,1459 0,23479
BM2 137 3,24 4,76 4,0033 0,38859
BM3 137 3,06 4,95 4,0057 0.39475
BM4 137 3,42 4,87 3,6406 0,32846
BM5 137 2,44 4,84 3,6702 0,36467
TC1 137 3,47 4,91 4,1910 0,34954
TC2 137 3,45 4,82 4,1356 0,34583
TC3 137 3,16 4,79 3,9758 0,45839
TC4 137 2,90 4,84 3,8789 0,34859
TC5 137 3,72 4,65 4,1851 0,34957
Valid N 
(listwise)
137
Nguồn: kết quả khảo sát của tác giả.
Kết quả bảng 2 cho thấy, đa số các ý kiến đánh giá tổng thể 
137 đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập theo từng biến quan sát 
và nhân tố của tự chủ cho thấy giá trị trung bình đều lớn hơn 3,0 
(trong đó lớn nhất là 4,3253 và nhỏ nhất là 3,1926), điều này 
cho thấy lãnh đạo, các cán bộ quản lý và nhân viên đều cho rằng 
đơn vị tự đưa ra các quyết định trong một khung các quy tắc và 
điều kiện do cơ quan quản lý đặt ra, tức là các quyết định có tính 
tự chủ nhưng vẫn trong phạm vi giám sát của cấp trên quản lý. 
Trong đó, giá trị trung bình của tự chủ quản lý cao nhất là 4,1935 
và 3,1926 là giá trị thấp nhất. Còn đối với tự chủ chính sách, 
giá trị trung bình của nhân tố cao nhất là 4,3253 và thấp nhất là 
3,8450; với tự chủ tổ chức bộ máy thì các con số tương ứng là 
4,1459 và 3,6406. Cuối cùng là khía cạnh tự chủ tài chính với 
các giá trị trung bình lớn nhất và nhỏ nhất lần lượt là 4,1910 và 
3,8789. Kết quả cụ thể của mỗi khía cạnh tự chủ được biểu hiện 
cụ thể dưới đây:
Tự chủ quản lý
Lãnh đạo đơn vị, cán bộ quản lý phòng/ban và nhân viên 
đánh giá cao tính tự chủ trong “Các quyết định về điều kiện và 
môi trường làm việc” với số điểm cao nhất là 4,1935. Tiếp theo 
là “Các quyết định về mức lương và các khoản thù lao tài chính” 
với số điểm là 3,9921. “Các quyết định về phương thức đánh giá 
nhân viên” được đánh giá cao thứ ba với số điểm là 3,9354. Tiếp 
đó là “Các quyết định về thăng tiến, bổ nhiệm nhân viên” với số 
điểm trung bình là 3,8836. Hai ý kiến “Các quyết định về tuyển 
dụng nhân viên” và “Các quyết định về phân bổ tài chính” được 
đánh giá thấp nhất với số điểm lần lượt là 3,8607 và 3,1926.
Tự chủ chính sách
Các quyết định nằm trong nhóm tự chủ chính sách cũng được 
lãnh đạo, cán bộ quản lý và nhân viên đang làm việc tại các đơn 
vị sự nghiệp KH&CN đánh giá cao. Đánh giá cao nhất là tính 
tự chủ trong “Quyết định về việc thiết lập định mức kết quả chi 
tiết trong từng nhóm mục tiêu của chính sách” với số điểm trung 
bình là 4,3253. Đánh giá cao thứ hai là “Quyết định về việc lựa 
chọn các nhóm mục tiêu cho các chính sách (thù lao, trợ cấp, đãi 
ngộ...)” với 4,0558 điểm. Tiếp theo là “Quyết định lựa chọn các 
công cụ thực hiện chính sách” với 3,8551 điểm. Cuối cùng và 
đánh giá thấp nhất là “Quyết định phạm vi và đối tượng áp dụng 
của từng chính sách” (3,8450 điểm).
Tự chủ tổ chức bộ máy
Tổ chức bộ máy lãnh đạo của đơn vị, cơ cấu lại tổ chức cũng 
là nội dung thể hiện rõ tính tự chủ của tổ chức. Đối với các đơn 
vị sự nghiệp KH&CN công lập, các quyết định liên quan đến 
“Xây dựng phương án sắp xếp lại đơn vị cấu thành” được đánh 
giá cao nhất về mức độ tự chủ với 4,1459 điểm. “Quyết định giải 
thể các đơn vị mới cấu thành” và “Quyết định thành lập, tổ chức 
lại các đơn vị cấu thành” được đánh giá ở mức độ tương đối gần 
nhau với số điểm lần lượt là 4,0057 và 4,0033. Tiếp theo là các 
công việc liên quan đến “Đánh giá tư cách thành viên hội đồng 
quản lý” có mức độ tự chủ được đánh giá với số điểm trung bình 
là 3,6702. Cuối cùng là “Quyết định thành lập hội đồng quản lý” 
với số điểm thấp nhất là 3,6406.
Tự chủ tài chính
Về vấn đề tài chính, lãnh đạo đơn vị, cán bộ quản lý và 
nhân viên ở các đơn vị sự nghiệp KH&CN đánh giá cao nhất là 
“Nguồn thu từ hoạt động KH&CN, sản xuất, kinh doanh, liên 
doanh, liên kết và nguồn thu hợp pháp khác” với số điểm trung 
bình là 4,1910 điểm. Tiếp đến là “Nguồn vốn vay, viện trợ, tài 
trợ theo quy định hiện hành” với 4,1851 điểm. “Nguồn thu phí 
theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại để chi hoạt động thường 
xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục 
vụ công tác thu phí” được đánh giá thứ ba với 4,1356 điểm. Tiếp 
theo là “Nguồn thu từ ngân sách nhà nước nếu được cơ quan 
có thẩm quyền giao để thực hiện nhiệm vụ KH&CN, nhiệm vụ 
thường xuyên theo chức năng, dịch vụ sự nghiệp công” với số 
điểm là 3,9758. Và cuối cùng là “Nguồn thu từ ngân sách nhà 
nước để thực hiện các nhiệm vụ không thường xuyên nếu được 
cơ quan có thẩm quyền giao” với 3,8789 điểm. Kết quả nghiên 
cứu này có thể thấy là phù hợp với đặc điểm hoạt động của các 
đơn vị sự nghiệp KH&CN ở Việt Nam. Bên cạnh đó cũng phù 
hợp với cơ cấu mẫu khảo sát, trong các đơn vị được khảo sát 
6363(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
vẫn còn nhiều đơn vị đang tự chủ một phần, tức là Nhà nước 
vẫn quản lý và giám sát hoạt động của các đơn vị sự nghiệp 
KH&CN.
Bảng 3. Đánh giá về tự chủ theo các nhóm đơn vị sự nghiệp KH&CN công 
lập.
Nội dung 
tự chủ
Tự chủ hoàn toàn Tự chủ một phần
Giá trị 
trung bình
Độ lệch 
chuẩn
Giá trị 
trung bình
Độ lệch 
chuẩn
QL1 4,253 0,342 3,731 0,370
QL2 4,608 0,355 3,779 0,535
QL3 4,203 0,249 3,564 0,422
QL4 4,401 0,244 3,469 0,582
QL5 4,271 0,483 3,450 0,534
QL6 3,893 0,475 2,492 0,388
CS1 4,812 0,382 3,299 0,469
CS2 4,665 0,372 3,044 0,485
CS3 4,578 0,485 4,072 0,458
CS4 4,630 0,579 3,060 0,357
BM1 4,887 0,347 3,404 0,376
BM2 4,396 0,384 3,610 0,382
BM3 4,321 0,359 3,690 0,284
BM4 4,487 0,583 2,794 0,437
BM5 4,369 0,485 2,944 0,263
TC1 4,607 0,457 3,775 0,292
TC2 4,545 0,247 3,726 0,537
TC3 4,711 0,328 3,240 0,381
TC4 4,654 0,569 3,103 0,383
TC5 4,688 0,684 3,682 0,635
Nguồn: kết quả khảo sát của tác giả.
Kết quả bảng 3 cho thấy, nhóm đơn vị sự nghiệp KH&CN 
công lập tự chủ hoàn toàn đánh giá các nội dung của tự chủ đa số 
là trên 4,0 điểm, trừ quan sát QL6 đánh giá dưới 4 (3,893 điểm). 
Điều đó cho thấy, ở nhóm đơn vị sự nghiệp KH&CN tự chủ 
hoàn toàn hầu như đã chủ động nâng cao và phát huy được tính 
tự chủ của mình, phát huy quyền làm chủ khi được cơ quan quản 
lý trao quyền. Do đó, trên mọi mặt, các hoạt động trong quản lý, 
chính sách, tổ chức bộ máy và tài chính đều làm giảm bớt vai 
trò của cơ quan quản lý cấp trên, thể hiện năng lực tự quyết của 
đơn vị. Trong khi đó, các đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập 
tự chủ một phần có mức đánh giá thấp hơn. Đa số các quan sát 
đều dưới 4,0, trong đó có 3 quan sát có mức đánh giá dưới 3,0 
là QL6, BM4 và BM5 (tương ứng 2,492, 2,794 và 2,944). Điều 
đó có nghĩa là, mức độ tự chủ, tính tự quyết trong các khía cạnh 
quản lý, chính sách, tổ chức bộ máy và tài chính của các đơn vị 
sự nghiệp KH&CN công lập giảm đi. Điều này cũng hoàn toàn 
hợp lý bởi các đơn vị này vẫn chịu sự quản lý, giám sát của Nhà 
nước và chỉ được chủ động tự quyết định ở một số phương diện 
Nhà nước trao quyền. Chính vì vậy, năng lực tự ra quyết định 
trong quản lý, chính sách, tổ chức bộ máy và tài chính của nhóm 
đơn vị tự chủ một phần thấp hơn nhóm đơn vị tự chủ hoàn toàn.
Một số khuyến nghị chính sách
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả xin đưa ra một số 
khuyến nghị hàm ý chính sách nhằm nâng cao tính tự chủ của 
các đơn vị sự nghiệp KH&CN như sau:
Đối với tự chủ quản lý: các đơn vị sự nghiệp KH&CN công 
lập cần chủ động hơn trong vấn đề quản lý nhân sự và tài chính 
của đơn vị mình. Cụ thể, các đơn vị có thể áp dụng theo hướng 
Thủ trưởng đơn vị quyết định đề án vị trí việc làm và số lượng 
người làm việc của đơn vị đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm 
vụ được giao và quỹ tiền lương của đơn vị theo cơ chế tính đủ, 
tính đúng giá dịch vụ sự nghiệp hoặc giao định mức kinh phí cho 
từng bộ phận thực hiện nhiệm vụ phục vụ. Đồng thời chú trọng 
thu hút người tài, có tâm và nhiệt huyết với công việc. Thực hiện 
các chế độ đảm bảo quyền và lợi ích của cán bộ nhân viên. Đối 
với vấn đề quản lý tài chính, các đơn vị cần chủ động phân bổ 
các khoản thu chi hợp lý, cân đối, kiểm soát và nắm chắc tình 
hình tài chính của đơn vị.
Đối với tự chủ chính sách: trên cơ sở sứ mệnh cũng như chức 
năng, nhiệm vụ mà các đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập được 
giao phó, các đơn vị cần xác định mục tiêu, lựa chọn những mục 
tiêu phù hợp với sứ mệnh đó. Tùy từng thời kỳ, các mục tiêu sẽ 
có những điểm khác nhau. Tuy nhiên, các mục tiêu cần rõ ràng 
và đảm bảo tính khả thi. Ngoài ra, các đơn vị cần thiết lập hệ 
thống các chính sách và các công cụ để đảm bảo các chính sách 
được thực hiện đúng với mục tiêu đã đề ra.
Đối với tự chủ tổ chức bộ máy: các đơn vị sự nghiệp KH&CN 
công lập cần sắp xếp, tổ chức lại theo hướng tinh gọn bộ máy, 
đặc biệt ở các cấp quản lý trung gian. Việc này sẽ làm giảm bớt 
những khâu trung gian không thực sự cần thiết trong quá trình 
thực hiện nhiệm vụ tại các đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập. 
Mục đích của giải pháp này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động 
cũng như giảm bớt các chi phí không cần thiết. Để làm được điều 
này, các đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập cần phải triển khai 
đồng bộ, nhất quán và phải có các kế hoạch cụ thể, rõ ràng. Việc 
tinh gọn bộ máy quản lý sẽ tạo ra những phản ứng trái chiều, 
tích cực và tiêu cực. Do đó, trước khi thực hiện, các đơn vị sự 
nghiệp KH&CN công lập cần thiết phải nâng cao nhận thức của 
người lao động, tăng cường tuyên truyền các chủ trương, chính 
sách của Đảng và Nhà nước cũng như định hướng phát triển tổ 
chức trong tương lai, vì mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả 
hoạt động của tổ chức.
Đối với tự chủ tài chính: năng lực tự chủ tài chính của đơn 
vị sự nghiệp KH&CN công lập phụ thuộc nhiều vào mức độ 
trao quyền tự chủ tài chính của Nhà nước và sự chủ động của 
đơn vị. Các đơn vị cần xây dựng phương án tự chủ tài chính tùy 
theo tình hình thực tế của đơn vị để các Bộ và cơ quan tài chính 
có ý kiến xem xét, phân loại và phê duyệt phương án tự chủ tài 
6463(4) 4.2021
Khoa học Xã hội và Nhân văn
chính. Đồng thời, các đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập cần 
phải nâng cao năng lực quản trị tài chính, huy động nhiều nguồn 
tài chính ngoài ngân sách nhà nước như các khoản tài trợ, từ 
chuyển giao công nghệ và các hoạt động dịch vụ khác. Hoàn 
thiện cơ chế tài chính của đơn vị mình theo hướng tự chủ, tự 
chịu trách nhiệm.
Ngoài những gợi ý mang hàm ý chính sách nêu trên, việc 
xây dựng quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp KH&CN trong 
từng lĩnh vực, ngành nghề, vùng miền là rất cần thiết. Trong đó 
cần ưu tiên phát triển những lĩnh vực là thế mạnh của KH&CN 
trong nước và cần phải gắn chặt KH&CN với đổi mới sáng tạo, 
bởi như thế sẽ làm cho KH&CN phù hợp hơn và nhanh chóng 
được áp dụng vào thực tiễn. 
Kết luận
Năng lực tự ra quyết định của các đơn vị sự nghiệp KH&CN 
về các vấn đề tự chủ quản lý, chính sách, bộ máy và tài chính phụ 
thuộc vào mức độ tự chủ của đơn vị và chính sách trao quyền tự 
chủ của Nhà nước. Qua kết quả phân tích ở trên cho thấy, sự cần 
thiết phải thúc đẩy loại hình tự chủ hoàn toàn trong các đơn vị 
sự nghiệp KH&CN. Các đơn vị sự nghiệp KH&CN tự chủ hoàn 
toàn có sự tự chủ cao hơn trong quản lý và thiết lập các nhóm 
mục tiêu, chính sách và công cụ để thực hiện các chính sách. 
Đặc biệt, mức độ tự chủ khác biệt giữa đơn vị tự chủ hoàn toàn 
và tự chủ một phần thể hiện rõ trong khía cạnh tự chủ tổ chức bộ 
máy và tài chính. Hai khía cạnh này liên quan đến bộ máy lãnh 
đạo quản lý và mức độ tự chủ về nguồn thu của đơn vị. Kết quả 
hoạt động của một số đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập thực 
hiện tự chủ hoàn toàn cho thấy, sự tự chủ có tác động tích cực 
trong nâng cao chất lượng, hiệu quả các sản phẩm KH&CN, tăng 
cường chuyển giao công nghệ vào doanh nghiệp. Đây là những 
thành công bước đầu, tạo động lực cho các đơn vị khác chủ động 
hơn trong việc xây dựng lộ trình tự chủ của tổ chức mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] M. Maggetti, K. Verhoest (2014), “Unexplored aspects of bureaucratic 
autonomy: a state of the field and ways forward”, International Review of 
Administrative Sciences, 80(2), pp.239-256. 
[2] J.G. Christensen (2001), Bureacratic autonomy as a political asset, 
University of Aarhus.
[3] K. Verhoest, et al. (2004), “The study of organizational autonomy: a 
conceptual review”, Public Administration and Development, 24(2), pp.101-
181.
[4] Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 4/2/2015 quy 
định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
[5] S. Van De Walle (2018), “Explaining variation in perceived managerial 
autonomy and direct politicization in European public sectors”, International 
Review of Administrative Sciences, 85, DOI:10.1177/0020852317748357.
[6] Bram Verschuere (2007), Measuring policy autonomy of public 
organizations: conceptual and methodological issues, COBRA.
[7] Chính phủ (2016), Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 quy 
định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập.

File đính kèm:

  • pdftu_chu_trong_cac_don_vi_su_nghiep_khoa_hoc_va_cong_nghe_o_vi.pdf