Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay

Truyện cười là món ăn tinh thần sát hợp của trẻ thơ hôm nay, là nhân tố quan trọng tham gia vào hoạt động dạy học của cả thầy và trò ở trường tiểu học. Với nhiều công năng tích cực của mình, mảng sáng tác này đã trở thành ngữ liệu sát hợp để giáo viên sử dụng, làm sinh động, hấp dẫn giờ dạy. Đó cũng là cơ hội thú vị để thầy cô trải nghiệm những tình huống sư phạm đa dạng, phong phú và bổ ích nhằm tạo được vị thế của một người thầy - nghệ sĩ trên bục giảng.

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 1

Trang 1

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 2

Trang 2

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 3

Trang 3

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 4

Trang 4

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 5

Trang 5

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 6

Trang 6

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 7

Trang 7

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 8

Trang 8

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 9

Trang 9

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang Trúc Khang 09/01/2024 7220
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay

Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Bùi Thanh Truyền 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
69 
TRUYỆN CƯỜI VỚI HIỆU QUẢ DẠY HỌC 
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY 
BÙI THANH TRUYỀN* 
TÓM TẮT 
Truyện cười là món ăn tinh thần sát hợp của trẻ thơ hôm nay, là nhân tố quan trọng 
tham gia vào hoạt động dạy học của cả thầy và trò ở trường tiểu học. Với nhiều công năng 
tích cực của mình, mảng sáng tác này đã trở thành ngữ liệu sát hợp để giáo viên sử dụng, 
làm sinh động, hấp dẫn giờ dạy. Đó cũng là cơ hội thú vị để thầy cô trải nghiệm những 
tình huống sư phạm đa dạng, phong phú và bổ ích nhằm tạo được vị thế của một người 
thầy - nghệ sĩ trên bục giảng. 
Từ khóa: truyện cười, dạy học, tiểu học, giáo viên, học sinh. 
ABSTRACT 
Joke and its teaching effectiveness in elementary schools 
Today, joke is an appropriately spiritual food for children and an important factor in 
teaching and learning activities of both teachers and students in elementary schools. 
Thanks to its positive functions, joke has become suitable texts for teachers to make class 
time more vivid and attractive. This is also an exciting opportunity for teachers to 
experience varied, abundant and useful pedagogical situations which help them build the 
position of a teacher – an artist on the pulpit. 
Keywords: joke, teaching effectiveness, elementary school. 
* TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: truyen_bui2000@yahoo.com 
1. Từ vị trí của tiếng cười, truyện 
cười trong cuộc sống và trong văn học 
thiếu nhi hôm nay 
Cười là một nhân tố quan trọng của 
cuộc sống. Ngoài tính chất bản năng, sinh 
học (con người có miệng có môi - khi 
buồn thì khóc, khi vui thì cười), tiếng 
cười cũng thể hiện rất rõ tính văn hóa, xã 
hội. Từ tiếng cười vô thức của trẻ sơ sinh, 
tiếng cười bộc phát khi bị cù đến tiếng 
cười trí tuệ, cười để thấm, để ngẫm là 
một quá trình mang dấu ấn của sự trưởng 
thành ở con người. Nói cách khác, tiếng 
cười với nhiều sắc thái khác nhau, là một 
biểu hiện của trình độ chiếm lĩnh cuộc 
sống, bản lĩnh của mỗi cá nhân cũng như 
toàn thể cộng đồng. 
Trong cuốn sách triết lí Le Rire, văn 
hào Pháp Henri Bergson đã viết: “Hài 
hước nằm trong bản tính con người” (Il 
n’y a pas de comique en dehors de ce qui 
est proprement humain). Cũng theo tác 
giả thì “không gì giải tỏa bằng cười” 
(rien ne désarme comme le rire). Tiếng 
cười, vì thế, luôn cần cho cuộc sống. Nó 
là điều kiện để mỗi cá nhân trút xả ẩn ức, 
nạp lại nguồn năng lượng tinh thần, cũng 
là cơ sở để họ tự khẳng định mình, là 
chất đề kháng để chống lại sự ăn mòn 
nhân tính của các axit độc hại có trong 
môi trường sống, là minh chứng thuyết 
phục cho sự ưu việt của nhân loại trong 
diễn trình lịch sử. Cho nên, sẽ không là 
đại ngôn khi nói rằng, món quà quý giá 
nhất trong cuộc sống chính là nụ cười - 
một trong những khởi nguồn rất đơn giản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
70 
của niềm hạnh phúc. 
Chức năng chính của tiếng cười, 
bên cạnh việc giúp con người từ bỏ thói 
hư tật xấu, còn hỗ trợ rất lớn cho hoạt 
động nhận thức. Ngoài những lợi ích tinh 
thần và vật chất nhãn tiền, tiếng cười 
đúng nghĩa - nhất là trong lĩnh vực văn 
hóa, văn học, nghệ thuật... - phải gắn liền 
với chức năng phát hiện đời sống. Chừng 
nào nhân loại còn muốn và cần nghiền 
ngẫm về thế giới khách quan, họ còn 
được cười. Các công trình nghiên cứu về 
tiếng cười trên phương diện triết học 
cũng như mĩ học đều ít nhiều cho thấy, 
sự nghiêm chỉnh của tiếng cười bắt đầu 
từ khả năng của nó trong việc giúp người 
ta nhận thức sâu về đời sống. Tiếng cười 
là một công cụ để con người hoàn thiện 
mình. Tiếng cười ấy cũng thiêng liêng 
cao cả như nỗi đau, như tiếng khóc. 
Với trẻ em, tiếng cười là đặc ân mà 
bà mụ riêng tặng thế giới thánh thiện này 
ngay từ thuở lọt lòng. Trong mọi trường 
hợp, khác với người trưởng thành, trẻ đều 
có thể cười, dùng nó như là một ứng xử 
với thế giới: “Cười như trò trẻ hỏng thi”. 
Đó là thanh âm song hành với cuộc sống 
vui tươi, hồn nhiên của tuổi nhỏ. Được 
cười, được ngây thơ trong thế giới của 
mình chính là nhu cầu của các em, và 
cũng là chuẩn mực mà toàn xã hội phấn 
đấu mang lại cho lứa tuổi này. Người ta 
ước tính trẻ con cười khoảng 400 lần mỗi 
ngày trong khi người lớn chỉ có 20 lần. 
Phải chăng đấy là lí do khiến ta luôn thấy 
sự hồn nhiên, vui tươi, hạnh phúc rạng 
ngời trên khuôn mặt trẻ thơ. 
Điều đó lí giải vì sao, văn học nói 
chung, các sáng tác cho thiếu nhi nói 
riêng - tức tấm gương phản ánh muôn 
mặt đời sống của nhân loại, thường gắn 
với tiếng cười. Không quá võ đoán khi 
cho rằng, một nền văn học đầy ắp tiếng 
cười là nền văn học mang nhiều yếu tố 
tích cực, nhân văn, nhân bản. 
Từ sau 1986, khi hoàn cảnh sống có 
nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cự ... ỉ 
cần kể cái chuyện cười định đem ra giảng 
dạy là đủ). 
Đối với học sinh tiểu học, đọc 
truyện cười thì vui, nhưng phải suy nghĩ 
để trả lời những câu hỏi “cười cái gì ?”, 
“vì sao mà cười?” chắc không phải là 
chuyện dễ. Vấn đề sẽ đơn giản hơn nếu 
giáo viên biết gợi ý để người học tự phân 
tích, tự “nhìn lại” quá trình sinh thành 
của cái cười trong óc, tựa như xem lại 
một đoạn phim quay chậm, nhất định các 
em sẽ cắt nghĩa được cái cười của mình. 
Từ đó, học sinh sẽ cảm thấy hào hứng 
hơn so với khi chỉ cười mà không tự đặt 
ra những câu hỏi có ý nghĩa như những 
cú “hích” đầy tính trí tuệ như thế. 
Tiếp đến, người dạy cần hướng dẫn 
người học suy nghĩ tiếp về cái đáng cười, 
về những điều nằm phía sau hành vi gây 
ra cái cười cùng thói xấu mà hành vi đó 
để lộ ra. Việc sử dụng các câu chuyện có 
những câu đối thoại ngộ nghĩnh, máy 
móc, đôi lúc trái với tự nhiên, không hợp 
với lẽ thường trong Vì bây giờ mẹ mới về, 
Vì sao cá không biết nói?... đã phần nào 
thực hiện được nguyên tắc “hai trong 
một” của hoạt động dạy học ở tiểu học: 
Cậu bé cắt bánh bị đứt tay nhưng 
không khóc. Mẹ về cậu mới khóc òa lên. 
Mẹ cậu hoảng hốt: 
- Con làm sao thế? 
- Con bị đứt tay. 
- Đứt khi nào thế? 
- Lúc nãy ạ! 
- Sao bây giờ con mới khóc? 
- Vì bây giờ mẹ mới về. 
(Vì bây giờ mẹ mới về - Tiếng Việt 
1 - tập 2 - trang 18) 
Câu nói cuối cùng của cậu bé làm 
cho ta buồn cười, chính vì câu nói đó xét 
về bề ngoài thì có vẻ hợp lí lắm, trả lời 
theo đúng như nội dung mà mẹ cậu bé 
hỏi. Nhưng xét lại thì thấy vô lí vì đáng 
lẽ ra cậu bé phải khóc ngay lúc bị đứt tay. 
Ở đây, cậu bé lại chờ lúc mẹ về mới òa 
lên khóc. Hành động này cho thấy sự 
nũng nịu dễ thương, rất trẻ con của cậu 
bé với mẹ. Người lớn thường dành cho 
trẻ sự yêu thương, vỗ về. Chính lí do này 
đôi khi khiến cho các em hay làm nũng. 
Vậy là cùng một lúc, cả trẻ em lẫn người 
lớn đều nhận được từ đây một bài học 
quý. Với trẻ là sự cần thiết phải chấm dứt 
thói nhõng nhẽo thái quá. Với người lớn, 
đó là cần phải cưng chiều con trẻ trong 
phạm vi có giới hạn, không được cưng 
chiều quá dễ làm trẻ sinh hư. 
Lại có những truyện lấy một cử chỉ, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Bùi Thanh Truyền 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
77 
một tư thế hoặc một hành động ngộ 
nghĩnh để gây cười. Trường hợp này 
thường xuất hiện ở mảng truyện về 
những chàng ngốc. Cái đáng cười ở 
những nhân vật này chủ yếu là những cử 
chỉ rập khuôn, máy móc, trái với tự 
nhiên, vô lí so với lẽ thường, thiếu hẳn sự 
“động não”. Ví như trong truyện Kéo cây 
lúa lên (Tiếng Việt 3 - tập 1 - trang 138), 
hành động của anh chồng khiến ta phải 
bật cười. Đáng lí khi thấy lúa của ruộng 
mình xấu hơn ruộng bên thì phải chăm lo 
tưới nước, bón phân. Ở đây, anh ta lại lấy 
tay kéo cây lúa nhà mình lên cho cao hơn 
lúa nhà người. Chính điều này đã dẫn đến 
hậu quả: Tất cả ruộng lúa của nhà anh ta 
đều bị héo rũ ra. Càng buồn cười hơn nữa 
khi anh chàng cứ chắc mẩm rằng nhờ sự 
“sáng tạo” của mình, lúa ruộng nhà đã và 
sẽ mọc nhanh hơn lúa ruộng bên. Hành 
động của bác nông dân trong truyện Giấu 
cày (Tiếng Việt 3 - tập 1- trang 128) cũng 
thế. Khi đáng nói nhỏ lại nói to, khi đáng 
nói to lại nói nhỏ. Giấu cày đáng lí bí mật 
thì lại hét toáng lên để kẻ trộm biết. Mất 
cày đáng lí phải kêu to lên để mọi người 
biết mà mách cho tên trộm đang ở đâu thì 
lại nói thầm. Cái lí và chiều sâu của tiếng 
cười trong Bốn cẳng và sáu cẳng (Tiếng 
Việt 3 - tập 2 - trang 142) nằm ở chỗ: chú 
lính cứ tưởng rằng tốc độ chạy nhanh hay 
chậm phụ thuộc vào số lượng cẳng: ngựa 
và người cùng chạy, số cẳng càng lớn thì 
tốc độ càng cao. Xét về phương diện cấu 
tạo, truyện này có cả lời nói đáng cười 
(Anh hỏi hay thật! Bốn cẳng lại nhanh 
hơn sáu cẳng được à), hành động đáng 
cười (Chú lính dắt ngựa ra đường, không 
cưỡi ngựa để đi cho nhanh mà cứ đánh 
ngựa rồi cắm cổ chạy theo) và hoàn cảnh 
đáng cười (Có một chú lính được quan 
sai đi làm việc gấp). Nếu tác giả không 
xây dựng nên hoàn cảnh trên thì chắc hẳn 
bản chất ngốc nghếch của chú lính không 
thể nào bộc lộ. 
Truyện cười không chỉ nêu lên 
những hoàn cảnh, những lời nói, những 
cử chỉ, hành động của nhân vật, mà có 
khi còn lấy một tính cách để gây cười 
(Đổi giày, Đãng trí bác học...). Nêu bật 
được tính cách này để học sinh suy ngẫm 
về nó, qua đó tự nhận thức về bản thân 
cũng là yêu cầu cần đạt được khi dạy 
học: 
Có một cậu học trò vội đến trường 
nên xỏ nhầm giày, một chiếc cao, một 
chiếc thấp. Bước tập tễnh trên đường, 
cậu lẩm bẩm: 
- Quái lạ, sao hôm nay chân mình 
một bên dài, một bên ngắn? Hay tại 
đường khấp khểnh? 
Vừa tới sân trường, cậu gặp ngay 
thầy giáo. Thấy cậu bé đi chân thấp chân 
cao, thầy bảo: 
- Em đi nhầm giày rồi. Về đổi giày 
đi cho dễ chịu. 
Cậu bé vội chạy về nhà. Cậu lôi từ 
gầm giường ra hai chiếc giày, ngắm đi 
ngắm lại rồi lắc đầu nói: 
- Đôi này vẫn chiếc thấp chiếc cao. 
(Đổi giày - Tiếng Việt 2 - tập 1 - 
trang 68) 
Nếu là người tinh nhạy, cậu bé sẽ 
nghĩ ra ngay mình bước tập tễnh là do 
quá vội đến trường nên đi nhầm giày, vì 
thế mới chân thấp chân cao. Từ suy nghĩ 
ngớ ngẩn về sự bất thường trong độ dài 
hai cái “phương tiện di chuyển” của 
mình, cậu lại dấn sâu vào một sai lầm kì 
cục khác: à ra thế, nguyên nhân tại ở... 
con đường. Sự cẩu thả luôn đi kèm với 
việc thiếu ý thức trách nhiệm về bản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
78 
thân, hệ quả là cậu hoàn toàn không nghĩ 
đến nguyên nhân chủ quan mà cứ đổ lỗi 
tại khách quan. Được sự gợi ý của thầy 
giáo, cậu học trò cũng không thông minh 
lên chút nào: chạy vội về nhà, lôi từ gầm 
giường ra hai chiếc giày, ngắm đi ngắm 
lại rồi vẫn lắc đầu nói: Đôi giày vẫn chiếc 
thấp chiếc cao. Đây chính là đặc tính cố 
hữu của những chàng ngốc - hành động 
một cách máy móc, mất cả tính chủ động 
và sinh động của con người. 
Lời nói, cử chỉ, hoàn cảnh, tính 
cách càng trái tự nhiên, máy móc, ngộ 
nghĩnh, khác thường bao nhiêu thì tiếng 
cười gây ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Vì 
vậy, một trong những biện pháp gây cười 
là phóng đại sự thực. Không có ai ngốc 
đến nỗi được cấp ngựa để đi cho nhanh 
lại dắt ngựa ra đến đường nhưng không 
cưỡi mà cứ đánh ngựa chạy trước rồi cắm 
cổ lao theo, không có cậu học trò nào tối 
dạ đến mức được thầy chỉ cho là mình đi 
nhầm giày mà vẫn không biết cách lựa 
chọn để được hai chiếc giày cùng đôi... 
Việc phóng đại, thậm chí bịa ra 
những hoàn cảnh éo le, những nhân vật 
ngộ nghĩnh thường ít hoặc không phương 
hại nhiều đến tính chất hiện thực của 
truyện. Thực tế vẫn còn không ít những 
cô cậu học trò thiếu tính ngăn nắp, cẩn 
thận, sinh hoạt thường theo kiểu “nước 
đến chân mới nhảy” như cậu bé trong 
truyện Đổi giày, hoặc thiếu ý thức tự thân 
phấn đấu mà thường ỷ lại, trông cậy vào 
sự hỗ trợ từ bên ngoài như nhân vật chính 
trong Mua kính. Ngoài việc hướng đến 
đạt được những mục tiêu dạy học từng 
phân môn, môn học, hiệu ứng thẩm mĩ 
giàu tính nhân văn mà truyện cười đem 
đến cho học sinh thông qua những tính 
cách điển hình trong những hoàn cảnh 
điển hình như thế rất cần thiết cho việc 
hình thành, phát triển nhân cách các em 
sau này. 
Ý nghĩa giáo dục trẻ thơ của truyện 
cũng là một phương diện quan trọng cần 
phải khai thác. Nội dung các truyện cười 
làm ngữ liệu dạy học các phân môn Tập 
đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm 
văn trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu 
học nhìn chung phù hợp với đặc trưng 
tiếp nhận văn học và nhận thức của người 
học. Nhiều câu chuyện không những 
mang lại cho các em tiếng cười sảng 
khoái mà còn có tác dụng rất lớn trong 
việc bổ trợ kiến thức, hướng đến mục tiêu 
phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách 
trẻ. Câu chuyện Mua kính khéo léo 
khuyên các em đừng lầm tưởng hễ cứ đeo 
kính thì đọc được sách. Nhận ra điều phi 
lí trong truyện, tự học sinh sẽ biết rằng, 
muốn biết chữ thì phải học. Ẩn sau tiếng 
cười sảng khoái trong Dại gì mà đổi là 
lời khuyên nhủ ân cần: Làm con, phải 
biết ngoan ngoãn, hiếu thảo, tránh thói hư 
tật xấu, học hỏi những điều hay lẽ phải để 
cha mẹ vui lòng. Với Không nỡ nhìn, 
thông qua sự mâu thuẫn giữa nhận thức 
và hành động kì quặc của anh thanh niên, 
giáo viên cần giúp trẻ lĩnh hội trọn vẹn 
thông điệp: Sống đẹp là phải biết chia sẻ, 
nhường nhịn, biết sống vì người khác. 
Độc đáo của cái cười là ở chỗ nó 
nâng con người cao hơn hoàn cảnh. Khi 
cười thói hư, tật xấu, người ta sẽ đứng ở 
vị trí bên trên chúng. Như vậy, cái cười, 
ở chiều sâu của nó, dường như có một cái 
gốc là những cảm xúc thấm đượm chất 
nhân văn - đó là nhiệt tình thống thiết bảo 
vệ những giá trị hằng cửu của con người, 
niềm mong muốn nhân loại được sống tốt 
hơn, đẹp hơn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Bùi Thanh Truyền 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
79 
Có lẽ vì quán triệt và thấu suốt quan 
điểm này nên không chỉ dừng lại ở sự đổi 
mới ngữ liệu dạy học bằng hệ thống 
truyện cười nhiều hấp lực với học sinh, 
như là sự tự chứng minh, làm rõ chủ 
trương, phương cách mới mẻ, táo bạo của 
mình, trong sách Tiếng Việt 4, tập 2, 
trang 153, đội ngũ biên soạn đã quảng bá 
cho lợi ích của tiếng cười qua một bài tập 
đọc - vị trí mà tất cả những văn bản 
truyện cười trong sách giáo khoa Tiếng 
Việt tiểu học đều ao ước: 
TIẾNG CƯỜI LÀ LIỀU THUỐC 
BỔ 
Một nhà văn từng nói: “Con người 
là động vật duy nhất biết cười.” 
Theo một thống kê khoa học, mỗi 
ngày, trung bình người lớn cười 6 phút, 
mỗi lần cười kéo dài độ 6 giây. Một đứa 
trẻ trung bình mỗi ngày cười 400 lần. 
Tiếng cười là liều thuốc bổ. Bởi vì 
khi cười, tốc độ thở của con người lên 
đến 100 ki-lô-mét một giờ, các cơ mặt 
được thư giãn thoải mái và não thì tiết ra 
một chất làm người ta có cảm giác sảng 
khoái, thỏa mãn. Ngược lại, khi người ta 
ở trong trạng thái nổi giận hoặc căm thù, 
cơ thể sẽ tiết ra một chất làm hẹp mạch 
máu. 
Ở một số nước, người ta dùng biện 
pháp gây cười để điều trị bệnh nhân. 
Mục đích của việc làm này là rút ngắn 
thời gian chữa bệnh và tiết kiệm tiền cho 
nhà nước. 
Bởi vậy, có thể nói: ai có tính hài 
hước, người đó chắc chắn sẽ sống lâu 
hơn. 
Theo báo Giáo dục và Thời đại 
Dẫn dài như vậy để chúng ta một 
lần nữa được thú vị khi thừa nhận hiệu 
quả thiết thực của tiếng cười trong đời 
sống và trong dạy học - một cái nghề mà 
áp lực của nó sẽ nhanh chóng khiến con 
người lão hóa nếu không có liều thuốc 
“tráng tinh bổ thể” nói trên. 
4. Kết luận và suy ngẫm của người 
trong cuộc 
Theo các chuyên gia tâm lí học, nụ 
cười có tác dụng với sự phát triển thể 
chất, sức khỏe con người, đặc biệt là đối 
với trẻ em, giống như việc tập thể dục từ 
bên trong. Tiếng cười giúp cho sự vận 
động, thả lỏng của các cơ và làm dịu bớt 
sự căng thẳng, mang lại cho trẻ cảm giác 
thoải mái, dễ chịu - một liều thuốc đặc 
hiệu để trị bệnh quá tải trong học tập ở 
tiểu học hiện nay. Đó cũng là cầu nối trẻ 
em với thế giới bên ngoài. Nó giúp các 
em sống vị tha hơn, vun đắp thêm cảm 
xúc, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ. Xuất phát 
từ những cơ sở này, truyện cười là món 
ăn tinh thần không thể thiếu cho trẻ em 
hôm nay, là ngữ liệu dạy học độc đáo, 
hữu hiệu của thầy cô giáo tiểu học. 
Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng, 
tiếng cười trong một số truyện cho thiếu 
nhi đương đại cũng có vấn đề, không 
phải hoàn toàn mang lại cho trẻ em lẫn 
người lớn sự an tâm, thanh thản. Đó là sự 
nông cạn, nhạt nhẽo, cười giả, cười lấy 
được, chỉ thuần sinh lí, đôi khi dung tục, 
thiếu sự chắt lọc cũng như chất trí tuệ, 
giảm sút các chức năng cần thiết đối với 
văn học dành cho tuổi thơ, xa cách với 
đời sống, suy nghĩ, nhận thức lứa tuổi 
này. Đằng sau tiếng cười ở đây rõ ràng là 
sự mệt mỏi, sự đầu hàng trước hoàn cảnh 
của trẻ, hoặc đi xa hơn là sự lảng 
tránh trách nhiệm. Điều đó khiến những 
người tâm huyết với trẻ thơ không khỏi 
chạnh buồn. Đã đến lúc chúng ta cần phải 
có sự đánh giá, đối xử nghiêm chỉnh với 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
80 
tiếng cười hàng ngày của trẻ. Về điểm 
này, chúng tôi rất tán thành đề xuất của 
nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn là phải 
phấn đấu tạo ra “một tiếng cười có chất 
lượng cao - đó sẽ là một tiếng cười văn 
hóa” [4] trong các thức ăn tinh thần thần 
cho thiếu nhi. 
Để dạy tốt truyện cười trong 
chương trình Tiếng Việt tiểu học hiện 
hành, giáo viên nên chủ động bồi dưỡng 
kiến thức về truyện cười (đọc truyện, 
tham khảo những công trình nghiên cứu 
chuyên sâu để nắm chắc đặc trưng thể 
loại, phương pháp truyền thụ, phân tích 
tác phẩm...). Tùy theo từng truyện được 
dùng làm ngữ liệu dạy học trong các 
phân môn, giáo viên sử dụng phối hợp 
nhiều cách thức khai thác, tiếp cận khác 
nhau để tạo sự phong phú, sinh động cho 
tiết dạy. Có như vậy mới nuôi dưỡng, 
phát triển được bầu không khí học tập 
hào hứng, tích cực, bền lâu của học sinh. 
Bên cạnh đó, thầy cô cũng cần giúp học 
sinh nắm chắc yêu cầu của bài học, kết 
hợp khai thác hợp lí tranh minh họa (nếu 
có) và hệ thống câu hỏi gợi ý. Đó chính 
là những điểm tựa cần thiết để người học 
hiểu và nhớ được sâu nội dung câu 
chuyện. Khi giảng dạy, giáo viên cần tổ 
chức để học sinh tiếp xúc với các truyện 
vui ở nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau: 
đọc trước các truyện trong sách giáo 
khoa, hiểu nội dung câu chuyện và rút ra 
bài học ý nghĩa mà nó đề cập... Vấn đề 
đọc, tập hợp các câu chuyện vui ở các 
sách, báo khác (Nhi đồng, Cười, Truyện 
vui dạy học, các truyện cười dân gian 
dành cho thiếu nhi...) của người học song 
song với việc tổ chức các trò chơi với 
truyện cười, các cuộc thi dành riêng cho 
đối tượng nhỏ tuổi như sáng tác truyện 
cười, thi kể chuyện vui theo chủ đề nhân 
các ngày lễ, ngày kỉ niệm trong năm cũng 
là những yêu cầu không thể thiếu mà mỗi 
giáo viên cần phải đặt ra trong quá trình 
dạy học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2012), 
Kỉ yếu Hội thảo khoa học “Dạy học tích hợp ở tiểu học: hiện tại và tương lai”, 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
2. Lê Phương Nga (2003), Chuyện vui dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
3. Triều Nguyên (2011), Tìm hiểu truyện cười Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 
4. Vương Trí Nhàn, “Cười - chất lượng cao”, Báo Văn nghệ Trẻ số ra ngày 09-6-2007. 
5. Nhiều tác giả (2002, 2003, 2004, 2005, 2006), Tiếng Việt 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội. 
6. V. Guxep (1999), Mĩ học folklor, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 03-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 10-5-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 

File đính kèm:

  • pdftruyen_cuoi_voi_hieu_qua_day_hoc_o_truong_tieu_hoc_hien_nay.pdf