Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Trầm cảm, lo âu là những dạng rối loạn tâm thần phổ biến ở phụ nữ mang thai. Hầu hết
nghiên cứu tại Việt Nam về rối loạn tâm thần chu sinh chỉ tập trung vào trầm cảm sau sinh. Nghiên cứu về trầm
cảm, lo âu ở phụ nữ mang thai còn hạn chế.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 550 phụ nữ mang thai tại bệnh
viện Từ Dũ và Hùng Vương từ tháng 3-4/2019. Phụ nữ mang thai được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có
cấu trúc. Trầm cảm, lo âu được đánh giá bằng thang đo CES-D và STAI-T đã được chuẩn hóa tại Việt Nam.
Kết quả: Tỷ lệ thai phụ có dấu hiệu trầm cảm, lo âu là 24,0%, 16,0%. Các yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm
bao gồm áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (PR=2,08; KTC 95%: 1,24-3,48), trải qua sự kiện buồn thai kỳ
(PR=2,16; KTC 95%: 1,47-3,19), gia đình có người rối loạn tâm thần (PR=4,56; KTC 95%: 1,67-12,47) và hỗ trợ
tinh thần từ chồng thấp (PR=1,93; KTC 95%: 1,32-2,83). Các yếu tố liên quan làm tăng tỷ lệ lo âu bao gồm thai
ngoài kế hoạch (PR=1,98; KTC 95%: 1,25-3,14), tiền sử rối loạn tâm thần (PR=3,44; KTC 95%: 1,17-10,10), trải
qua sự kiện buồn thai kỳ (PR=1,93; KTC 95%: 1,23-3,05), hỗ trợ tinh thần từ chồng (PR=2,67-2,80).
Kết luận: Trầm cảm và lo âu là phổ biến ở phụ nữ mang thai. Cần bổ sung các phòng tư vấn tâm lý và có
chương trình sàng lọc trầm cảm hoặc lo âu cho phụ nữ mang thai, đặc biệt là phụ nữ mang thai có nguy cơ cao.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 64 TRẦM CẢM, LO ÂU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ MANG THAI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Thu Phương*, Đặng Thị Minh Trang*, Thái Thanh Trúc* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Trầm cảm, lo âu là những dạng rối loạn tâm thần phổ biến ở phụ nữ mang thai. Hầu hết nghiên cứu tại Việt Nam về rối loạn tâm thần chu sinh chỉ tập trung vào trầm cảm sau sinh. Nghiên cứu về trầm cảm, lo âu ở phụ nữ mang thai còn hạn chế. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại TP. Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 550 phụ nữ mang thai tại bệnh viện Từ Dũ và Hùng Vương từ tháng 3-4/2019. Phụ nữ mang thai được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có cấu trúc. Trầm cảm, lo âu được đánh giá bằng thang đo CES-D và STAI-T đã được chuẩn hóa tại Việt Nam. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ có dấu hiệu trầm cảm, lo âu là 24,0%, 16,0%. Các yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm bao gồm áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (PR=2,08; KTC 95%: 1,24-3,48), trải qua sự kiện buồn thai kỳ (PR=2,16; KTC 95%: 1,47-3,19), gia đình có người rối loạn tâm thần (PR=4,56; KTC 95%: 1,67-12,47) và hỗ trợ tinh thần từ chồng thấp (PR=1,93; KTC 95%: 1,32-2,83). Các yếu tố liên quan làm tăng tỷ lệ lo âu bao gồm thai ngoài kế hoạch (PR=1,98; KTC 95%: 1,25-3,14), tiền sử rối loạn tâm thần (PR=3,44; KTC 95%: 1,17-10,10), trải qua sự kiện buồn thai kỳ (PR=1,93; KTC 95%: 1,23-3,05), hỗ trợ tinh thần từ chồng (PR=2,67-2,80). Kết luận: Trầm cảm và lo âu là phổ biến ở phụ nữ mang thai. Cần bổ sung các phòng tư vấn tâm lý và có chương trình sàng lọc trầm cảm hoặc lo âu cho phụ nữ mang thai, đặc biệt là phụ nữ mang thai có nguy cơ cao. Từ khóa: trầm cảm, lo âu, phụ nữ mang thai, CES-D, STAI-T ABSTRACT DEPRESSION, ANXIETY AND ASSOCIATED FACTORS AMONG PREGNANT WOMEN IN HO CHI MINH CITY Pham Thi Thu Phuong, Dang Thi Minh Trang, Thai Thanh Truc * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 64 - 72 Background: Depression and anxiety are prevalent mental disorders in pregnant women. Most studies in Vietnam of perinatal mental disorders only focus on postpartum depression. Studies of depression and anxiety during pregnancy are limited. Objectives: To determine prevalence of depression, anxiety and associated factors in pregnant women in Ho Chi Minh City. Materials and methods: A cross-sectional study was conducted in 550 pregnant women at Tu Du and Hung Vuong Hospital from March to April 2019. Pregnant women were interviewed using a structural questionnaire. Depression and anxiety were measured by the CES-D and STAI-T which have already been validated in Vietnam. Results: The prevalence of depression and anxiety in pregnant women was 24.0%, 16.0%. Factors associated with depression included pressure from the expectation of baby sex from husbands (PR=2.08; 95% CI: 1.24-3.48), experience sad event in pregnancy (PR=2.16; 95% CI: 1.47-3.19), family history of mental disorders *Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Phạm Thị Thu Phương ĐT: 0981861858 Email: pttphuongytcc1115@ump.edu.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 65 (PR=4.56; 95% CI: 1.67-12.47), low level of spiritual support from husband (PR=1.93; 95% CI: 1.32-2.83). Factors associated with anxiety included unintended pregnancy (PR=1.98; 95% CI: 1.25-3.14), history of mental disorders (PR=3.44; 95% CI: 1.17-10.10), experience sad event in pregnancy (PR=1.93; 95% CI: 1.23-3.05), low level of spiritual support from husband (PR=2.67-2.80). Conclusion: Depression and anxiety are prevalent in pregnant women during their pregnancy. Maternity hospitals should provide psychological consulting services and screening program for depression or anxiety for pregnant women, especially those who are at high-risk. Key words: depression, anxiety, pregnant women, CES-D, STAI-T. ĐẶT VẤN ĐỀ Mang thai là giai đoạn có nhiều thay đổi về mặt thể chất, tinh thần. Phụ nữ mang thai thường có nhiều suy nghĩ lo lắng, tâm trạng thay đổi thất thường, từ đó có thể dẫn đến các rối loạn tâm thần, phổ biến nhất là trầm cảm, lo âu. Ước tính tỷ lệ mắc trầm cảm trong thai kỳ dao động từ 7 – 15% ở các nước thu nhập cao, tăng lên 19 – 25% ở các nước thu nhập thấp và trung bình(1). Một số nghiên cứu gần đây thực hiện tại Slovenia, Ả-rập Xê-út , Bangladesh cho thấy khoảng 19,6 – 37,1% thai phụ mắc trầm cảm và 12,5 – 54% thai phụ mắc lo âu(2,3,4). Chưa có nhiều báo cáo ở các nước khu vực Đông Nam Á, nghiên cứu tiến hành tại Malaysia về các rối loạn tâm thần chung cho kết quả tỷ lệ thai phụ mắc các rối loạn tâm thần ở 3 tháng giữa và ba tháng cuối lần lượt là 23,6% và 24,7%(5). Có nhiều bằng chứng cho thấy trầm cảm và lo âu trong thai kỳ có thể gây nhiều ảnh hưởng bất lợi cho cả mẹ và bé. Thai phụ mắc trầm cảm, lo âu có nguy cơ sinh non, sinh n ... ong đợi giới tính từ chồng (n=535) Có 29 (5,4) 20 (69,0) <0,001 3,23 (2,40-4,34) 11 (37,9) 0,001 2,59 (1,56-4,32) Không 506 (94,6) 108 (21,3) 1 74 (14,6) 1 Áp lực do mong đợi giới tính từ bố mẹ chồng (n=529) Có 30 (5,7) 18 (60,0) <0,001 2,72 (1,95-3,81) 11 (36,7) 0,001 2,51 (1,50-4,20) Không 499 (94,3) 110 (22,0) 1 73 (14,6) 1 Thay đổi không mong muốn Có Không 315 (58,7) 222 (41,3) 89 (28,3) 40 (18,0) 0,006 1,57 (1,13-2,18) 1 50 (15,9) 36 (16,2) 0,915 0,98 (0,66-1,45) 1 Sự kiện buồn trong thai kỳ Có 97 (18,1) 47 (48,5) <0,001 2,60 (1,96-3,45) 32 (33,0) <0,001 2,69 (1,84-3,92) Không 440 (81,9) 82 (18,6) 1 54 (12,3) 1 Tiền sử rối loạn tâm thần Có 6 (1,1) 4 (66,7) 0,014 2,83 (1,58-5,09) 4 (66,7) 0,001 4,32 (2,37-7,86) Không 531 (98,9) 125 (23,5) 1 82 (15,4) 1 Gia đình có người rối loạn tâm thần Có 5 (0,9) 4 (80,0) 0,003 3,40 (2,14-5,42) 1 (20,0) 0,807 1,25 (0,21-7,30) Không 532 (99,1) 125 (23,5) 1 85 (16,0) 1 Bảng 4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với các yếu tố gia đình (n=537) Đặc điểm Tổng (n=537) n (%) Trầm cảm CES-D ≥16 (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% Mối quan hệ với mẹ chồng (n=523) Tốt/Rất tốt 217 (41,5) 39 (18,0) 1 26 (12,0) 1 Bình thường 293 (56,0) 80 (27,3) 0,016 1,52 (1,08-2,14) 51 (17,4) 0,095 1,45 (0,94-2,25) Không tốt lắm 13 (2,5) 7 (53,8) <0,001 3,00 (1,68-5,34) 4 (30,8) 0,038 2,57 (1,05-6,27) Mối quan hệ vợ chồng (n=535) Tốt/Rất tốt 362 (67,7) 71 (19,6) 1 39 (10,8) 1 Bình thường 168 (31,4) 52 (31,0) 0,004 1,58 (1,16-2,15) 42 (25,0) <0,001 2,32 (1,56-3,45) Không tốt lắm 5 (0,9) 5 (100) <0,001 5,10 (4,14-6,28) 4 (80,0) <0,001 7,43 (4,37-12,61) HỖ TRỢ TỪ CHỒNG Hỗ trợ vật chất Thường xuyên 391 (72,8) 88 (22,5) 1 46 (11,8) 1 Thỉnh thoảng 132 (24,6) 36 (27,3) 0,260 1,21 (0,87-1,69) 34 (25,8) <0,001 2,19 (1,47-3,26) Không/Hiếm khi 14 (2,6) 5 (35,7) 0,213 1,59 (0,77-3,28) 6 (42,9) <0,001 3,64 (1,88-7,07) Hỗ trợ tinh thần Thường xuyên 427 (79,5) 81 (19,0) 1 46 (10,8) 1 Thỉnh thoảng 96 (17,9) 42 (43,8) <0,001 2,31 (1,71-3,11) 34 (35,4) <0,001 3,29 (2,24-4,83) Không/Hiếm khi 14 (2,6) 6 (42,9) 0,012 2,26 (1,20-4,27) 6 (42,9) <0,001 3,98 (2,05-7,73) Hỗ trợ công việc nhà Thường xuyên 390 (72,6) 72 (18,5) 1 44 (11,3) 1 Thỉnh thoảng 110 (20,5) 37 (33,6) <0,001 1,82 (1,30-2,55) 27 (24,5) <0,001 2,18 (1,41-3,35) Không/Hiếm khi 37 (6,9) 20 (54,1) <0,001 2,93 (2,04-4,21) 15 (40,5) <0,001 3,59 (2,22-5,81) HỖ TRỢ TỪ GIA ĐÌNH Hỗ trợ vật chất Thường xuyên 229 (42,6) 48 (21,0) 1 23 (10,0) 1 Thỉnh thoảng 197 (36,7) 53 (26,9) 0,152 1,28 (0,91-1,81) 43 (21,8) 0,001 2,17 (1,36-3,48) Không/Hiếm khi 111 (20,7) 28 (25,2) 0,373 1,20 (0,80-1,81) 20 (18,0) 0,039 1,79 (1,03-3,13) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 70 Đặc điểm Tổng (n=537) n (%) Trầm cảm CES-D ≥16 (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% Hỗ trợ tinh thần Thường xuyên 385 (71,7) 76 (19,7) 1 43 (11,2) 1 Thỉnh thoảng 123 (22,9) 41 (33,3) 0,001 1,69 (1,22-2,33) 33 (26,8) <0,001 2,40 (1,60-3,61) Không/Hiếm khi 29 (5,4) 12 (41,4) 0,002 2,10 (1,30-3,38) 10 (34,5) <0,001 3,09 (1,74-5,49) Hỗ trợ công việc nhà Thường xuyên 293 (54,6) 59 (20,1) 1 34 (11,6) 1 Thỉnh thoảng 106 (19,7) 34 (32,1) 0,011 1,59 (1,11-2,28) 30 (28,3) <0,001 2,44 (1,57-3,78) Không/Hiếm khi 138 (25,7) 36 (26,1) 0,161 1,30 (0,90-1,86) 22 (15,9) 0,210 1,37 (0,84-2,26) Bạo lực từ chồng Có 38 (7,1) 19 (50,0) <0,001 2,27 (1,59-3,25) 13 (34,2) 0,002 2,34 (1,43-3,81) Không 499 (92,9) 110 (22,0) 1 73 (14,6) 1 Bảng 5. Các yếu tố liên quan độc lập đến trầm cảm, lo âu ở phụ nữ mang thai (n=537) Đặc điểm phc PRhc KTChc 95% Khả năng xuất hiện của mô hình ĐA BIẾN TRẦM CẢM Áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (n=535) (có) 0,005 2,08 (1,24-3,48) 0,097 Sự kiện buồn thai kỳ (có) <0,001 2,16 (1,47-3,19) Gia đình có người rối loạn tâm thần (có) 0,003 4,56 (1,67-12,47) Hỗ trợ tinh thần từ chồng Thường xuyên 1 Thỉnh thoảng 0,001 1,93 (1,32-2,83) Không/Hiếm khi 0,206 1,80 (0,72-4,45) ĐA BIẾN LO ÂU Thai ngoài kế hoạch (có) 0,004 1,98 (1,25-3,14) 0,353 Sự kiện buồn thai kỳ (có) 0,005 1,93 (1,23-3,05) Tiền sử rối loạn tâm thần 0,025 3,44 (1,17-10,10) Hỗ trợ tinh thần từ chồng Thường xuyên 1 Thỉnh thoảng <0,001 2,67 (1,69-4,21) Không/Hiếm khi 0,020 2,80 (1,18-6,66) Bảng 4 cho thấy các yếu tố như mối quan hệ với mẹ chồng, với chồng không tốt, hỗ trợ từ chồng và gia đình thấp, bạo lực từ chồng (các giá trị p <0,05) là những yếu tố làm tăng tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu. Bảng 5 thể hiện kết quả phân tích đa biến. Kết quả cho thấy các yếu tố liên quan độc lập tới trầm cảm gồm áp lực do mong đợi giới tính từ chồng, trải qua sự kiện buồn thai kỳ, gia đình có người rối loạn tâm thần và hỗ trợ tinh thần từ chồng. Các yếu tố liên quan độc lập đến lo âu bao gồm thai ngoài kế hoạch, tiền sử rối loạn tâm thần, trải qua sự kiện buồn thai kỳ, hỗ trợ tinh thần từ chồng. BÀN LUẬN Nghiên cứu cho thấy trầm cảm, lo âu là phổ biến ở phụ nữ mang thai, gần một phần tư thai phụ có các dấu hiệu trầm cảm (24,0%) và một phần sáu thai phụ có các dấu hiệu lo âu (16,0%). Kết quả phù hợp với nghiên cứu gộp của Fisher J (2012) ở các nước đang phát triển(1). Có nét tương đồng với các nghiên cứu trước đây tại Slovenia, Ả-rập Xê-út, Bangladesh với tỷ lệ trầm cảm trong khoảng 19,6 – 37,1% và lo âu 12,5 – 54%(2,3,4). Ngoài ra, nghiên cứu nhận thấy có 4,5% thai phụ có dấu hiệu trầm cảm mức độ vừa (điểm CES-D từ 21-24) và 5,4% thai phụ có các dấu hiệu trầm cảm mức độ nặng (điểm CES-D ≥25), kết quả có sự khác biệt so với nghiên cứu của tác giả Podvornik N (có 8,4% thai phụ ở mức độ trầm cảm nặng với mức điểm ≥22)(2). Điều này có thể lý giải do cách chọn điểm cắt cho mức độ trầm cảm nặng của nghiên cứu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 71 khác tác giả Podvornik N. Kết quả nghiên cứu cho thấy áp lực giới tính từ chồng và bố mẹ chồng là những yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm. Mặc dù xã hội ngày càng phát triển nhưng mong muốn của một số gia đình người Việt Nam và các nước châu Á nói chung vẫn xem việc sinh con trai để nói dõi tông đường quan trọng, nếu sinh không được con trai sẽ bị mọi người trong gia đình, đặc biệt là gia đình chồng cảm thấy không vui và gây áp lực lớn đối với phụ nữ. Mang thai ngoài kế hoạch là yếu tố độc lập liên quan đến lo âu, kết quả tương đồng với các nghiên cứu trước đây của tác giả Nasreen HE (2009), Podvornik N (2011), Nagandla K (2014), Alqahtani AH (2016)(2,3,4,5). Qua khảo sát nhận thấy các thai phụ mang thai ngoài kế hoạch phần lớn có con trước đó còn quá nhỏ hoặc đã có hai con trở lên, do đó gánh nặng kinh tế, chăm sóc dạy dỗ con cái tạo nhiều áp lực cho họ. Mặt khác cũng có thể do chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt sức khỏe, tâm lý, kinh tế mà vô tình có thai có thể làm cho thai phụ có nhiều lo lắng, bất an dẫn đến lo âu. Tiền sử rối loạn tâm thần và gia đình có người rối loạn tâm thần là những yếu tố độc lập liên quan đến trầm cảm, lo âu. Kết quả tương đồng với các tác giả Nasreen HE (2009), Van de Loo KFE (2015) về tiền sử rối loạn tâm thần và tác giả Jeong HG (2009) về yếu tố gia đình có người rối loạn tâm thần(4,16,17). Việc trầm cảm có liên quan đến tính di truyền vẫn đang là câu hỏi chưa có câu trả lời và bằng chứng rõ ràng. Tuy nhiên, dựa trên kết quả nghiên cứu này và một vài nghiên cứu trước, nhận thấy cần sàng lọc và theo dõi các thai phụ có tiền sử rối loạn tâm thần hoặc gia đình có người rối loạn tâm thần(4,17). Có sự tương đồng với nghiên cứu của tác giả Van de Loo KFE (2015) ở mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu và việc thai phụ trải qua các sự kiện buồn phiền trong thai kỳ(16). Qua khảo sát, nhận thấy các thai phụ trải qua nhiều sự kiện như mất người thân, ly thân/ly dị, vợ chồng cãi nhau, mất tài sản mất công việc và những trải nghiệm này hoàn toàn có thể gây ảnh hưởng đến tâm lý họ. Mức độ hỗ trợ từ chồng và gia đình là yếu tố độc lập với trầm cảm, lo âu mà nghiên cứu thực hiện tại nhiều nước trên thế giới của các tác giả Nasreen HE (2009), Nagandla K (2014) đã tìm thấy(4,5). Mang thai là giai đoạn tâm sinh lý người phụ nữ có nhiều thay đổi, cảm xúc vui buồn thất thường, cảm giác lo lắng bồn chồn luôn xuất hiện, sức khỏe thể chất của họ cũng suy giảm đáng kể, do đó hỗ trợ tinh thần và công việc nhà từ chồng và gia đình là rất cần thiết đối với họ. Việc thiếu hỗ trợ từ chồng và gia đình làm tăng cảm giác cô đơn, không ai bên cạnh phụ giúp làm thai phụ có cảm giác tự mình gánh lấy mọi việc cùng một lúc có thể gây ra trầm cảm. Sức khỏe tâm thần ở phụ nữ mang thai tại Việt Nam chưa được chú trọng. Từ kết quả nghiên cứu này và số lượng thai phụ thực tế tại Việt Nam thì ước tính có 1.600.000 phụ nữ mang thai có khả năng cơ nguy cơ có các dấu hiệu trầm cảm, lo âu. Do đó, việc sàng lọc phát hiện sớm giúp điều trị kịp thời để giảm gánh nặng bệnh tật. Xét về mảng dự phòng, cần sàng lọc và tầm soát cho các nhóm phụ nữ có nguy cơ cao có thể có các dấu hiệu trầm cảm, lo âu để giảm kinh phí thay vì sàng lọc tất cả các phụ nữ mang thai. Nghiên cứu cũng có một số điểm hạn chế như nghiên cứu cắt ngang nên chỉ phản ánh được tình trạng trầm cảm, lo âu của thai phụ tại thời điểm nghiên cứu mà chưa cho biết chính xác thai phụ có các triệu chứng trầm cảm, lo âu ở thời điểm nào. Đồng thời cũng chưa thể hiện mối liên hệ nhân quả giữa các yếu tố liên quan. Các công cụ sử dụng đã được chuẩn hóa nhưng chỉ là công cụ sàng lọc, chưa phải là công cụ chẩn đoán. Kết quả nghiên cứu có thể không đại diện và ngoại suy được cho các vùng miền khác, cần thực hiện các nghiên cứu tại các khu vực khác để cho ra tỷ lệ chính xác nhất. Mặc dù cỡ mẫu nghiên cứu lớn nhưng do có nhiều đặc điểm (hai bệnh viện, ba giai đoạn thai kỳ) nên không thực hiên các phân tích chuyên sâu như phân tích phân nhóm, phân tích nhiều tầng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 72 KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trầm cảm và lo âu là phổ biến ở phụ nữ mang thai (24,0% trầm cảm và 16,0% lo âu). Các yếu tố độc lập làm tăng tỷ lệ trầm cảm hoặc lo lắng bao gồm áp lực do giới tính mong đợi từ chồng, trải qua sự kiện buồn khi mang thai, mức độ hỗ trợ tinh thần của chồng thấp, mang thai ngoài ý muốn, tiền sử rối loạn tâm thần và tiền sử gia đình bị rối loạn tâm thần. Do đó, các bệnh viện phụ sản tại Việt Nam cần bổ sung các phòng tư vấn tâm lý cũng như sàng lọc trầm cảm hoặc lo lắng cho phụ nữ mang thai ở giai đoạn sớm và theo dõi suốt thai kỳ cũng như sau sinh, đặc biệt là phụ nữ mang thai có nguy cơ cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Fisher J, Cabral de MM, Patel V, Rahman A, Tran T, Holton S, et al (2012). Prevalence and determinants of common perinatal mental disorders in women in low- and lower-middle-income countries: a systematic review. Bulletin of the World Health Organization, 90(2):139-149. 2. Podvornik N, Globevnik VV, Praper P (2015). Depression and Anxiety in Women During Pregnancy in Slovenia. Slovenian Journal of Public Health, 54(1):45-50. 3. Alqahtani AH, Al Khedair K, Al-Jeheiman R, Al-Turki HA, Al Qahtani NH (2018). Anxiety and depression during pregnancy in women attending clinics in a University Hospital in Eastern province of Saudi Arabia: prevalence and associated factors. International Journal of Women's Health, 23(10):101-108. 4. Nasreen HE, Kabir ZN, Forsell Y, Edhborg M (2011). Prevalence and associated factors of depressive and anxiety symptoms during pregnancy: a population based study in rural Bangladesh. BMC Women's Health, 11:22. 5. Nagandla K, Nalliah S, Yin LK, Majeed ZA, Ismail M, Zubaidah S, et al (2016). Prevalence and associated risk factors of depression, anxiety and stress in pregnancy. International Journal of Reproduction Contraception Obstetrics and Gynecology, 5:7. 6. Kurki T, Hiilesmaa V, Raitasalo R, Mattila H, Ylikorkala O (2000). Depression and anxiety in early pregnancy and risk for preeclampsia. Obstetrics and Gynecology, 95(4):487-490. 7. Neggers Y, Goldenberg R, Cliver S, Hauth J (2006). The relationship between psychosocial profile, health practices, and pregnancy outcomes. Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica, 85(3):277-285. 8. O'Connor TG, Heron J, Golding J, Beveridge M, Glover V (2002). Maternal antenatal anxiety and children's behavioural/emotional problems at 4 years. Report from the Avon Longitudinal Study of Parents and Children. British Journal of Psychiatry, 180:502-508. 9. Shahhosseini Z, Pourasghar M, Khalilian A, Salehi F (2015). A Review of the Effects of Anxiety During Pregnancy on Children's Health. Journal of the Academy of Medical Sciences of Bosnia and Herzegovina, 27(3):200-202. 10. Yanikkerem E, Ay S, Mutlu S, Goker A (2013). Antenatal depression: prevalence and risk factors in a hospital based Turkish sample. Journal of the Pakistan Medical Association, 63(4):472-477. 11. Fisher J, Tran T, La BT, Kriitmaa K, Rosenthal D, Tran T (2010). Common perinatal mental disorders in northern Viet Nam: community prevalence and health care use. Bulletin of the World Health Organization, 88(10):737-745. 12. Fisher J, Tran T, Tran DT, Dwyer T, Nguyen T, Casey GJ, et al (2013). Prevalence and risk factors for symptoms of common mental disorders in early and late pregnancy in Vietnamese women: a prospective population-based study. Journal of Affective Disorders, 146(2):213-219. 13. Radloff LS (1977). The CES-D Scale: A self-report depression scale for research in the general population. Applied Psychological Measurement, 1(3):385-401. 14. Thai TT, Jones MK, Harris LM, Heard RC (2016). Screening value of the Center for epidemiologic studies - depression scale among people living with HIV/AIDS in Ho Chi Minh City, Vietnam: a validation study. BMC Psychiatry, 16:145. 15. Spielberger CD, Gorsuch RL, Lushene R, Vagg PR, Jacobs GA (1983). Manual for the State-Trait Anxiety Inventory (Form Y1 – Y2). Consulting Psychologists Press, IV. 16. Van de Loo KFE, Vlenterie R, Nikkels SJ, Merkus PJFM, Roukema J, Verhaak CM, et al (2018). Depression and anxiety during pregnancy: The influence of maternal characteristics. Birth, 45(4):478-489. 17. Jeong HG, Lim JS, Lee MS, Kim SH, Jung IK, Joe SH (2013). The association of psychosocial factors and obstetric history with depression in pregnant women: focus on the role of emotional support. General hospital psychiatry, 35(4):354-358. Ngày nhận bài báo: 12/11/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/11/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020
File đính kèm:
- tram_cam_lo_au_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_phu_nu_mang_thai_ta.pdf